Biểu Tượng Thất Truyền

hoahongden12

Active Member

- Rẽ phải! Langdon hô to từ ghế sau chiếc SUV Lexus bị trưng dụng.

Simkins ngoặt gấp ngay góc phố S và cho xe lao nhanh qua một khu dân cư có hai hàng cây. Khi họ đến gần góc phố 16, Thánh điện Hội Tam điểm hiện ra, vươn cao như một quả núi ở bên phải.

Simkins chăm chú nhìn toà nhà đồ sộ. Trông giống hệt một kim tự tháp xây trên nóc đền Pantheon thành Rome. Anh chuẩn bị rẽ phải ở phố 16 để lao tới trước mặt toà nhà.

- Đừng rẽ! - Langdon ra lệnh - Đi thẳng! Cứ ở trên phố S!

Simkins tuân theo, cho xe chạy dọc sườn phía đông của toà nhà.

- Đến phố 15, - Langdon nói - rẽ phải!

Simkins làm theo hoa tiêu của mình, và chỉ lát sau, Langdon đã dẫn họ ra một con đường không lát đá, rất khó nhận biết, cắt đôi những khu vườn phía sau Thánh điện. Simkins tập trung vào tay lái, cho chiếc Lexus phóng tới phía sau toà nhà.

- Nhìn kìa? - Langdon trỏ chiếc xe duy nhất đậu gần lối vào phía sau. Đó là một chiếc xe tải lớn - Họ ở đây.

Simkins cho chiếc SUV đỗ lại và tắt máy. Rất nhẹ nhàng, mọi người ra khỏi xe và chuẩn bị tiến vào. Simkins ngước nhìn công trình bằng đá nguyên khối.

- Ông nói Phòng Thánh lễ ở trên đỉnh à?

Langdon gật đầu, chỉ tít lên tháp nhọn của toà nhà.

Khoảng trống bằng phẳng trên đỉnh kim tự tháp thực tế chính là cửa sổ trần nhà đấy.

Simkins quay phắt lại phía Langdon.

- Phòng Thánh lễ có cửa sổ trần nhà à?

Langdon ngơ ngác nhìn anh ta.

- Dĩ nhiên. Một mắt vòm hướng lên trời… ngay phía trên bàn thờ.

° ° °

Chiếc UH-60 đậu im lìm tại Bùng binh Dupont.

Ngồi ở ghế phụ lái, Sato cắn móng tay, chờ đợi tin tức từ đội của mình.

Cuối cùng, tiếng Simkins cũng vang lên sột soạt trong bộ đàm.

- Giám đốc?

- Tôi đây, - Sato đáp.

- Chúng tôi đang vào toà nhà, nhưng tôi có thêm tin mới cho bà.

- Nói đi!

Ông Langdon vừa cho tôi biết căn phòng đối tượng đang ở có một cửa sổ trần nhà rất lớn.

Sato cân nhắc thông tin đó trong vài giây.

- Hiểu rồi. Cảm ơn.

Simkins tắt máy.

Sato phun một mẩu móng tay ra và quay sang phi công.

- Bay lên đi!
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 121

Như mọi bậc cha mẹ mất con, Peter Solomon thường hình dung xem đứa con của mình giờ đã bao nhiêu tuổi… trông nó ra sao… và trở thành người như thế nào.

Nay ông đã có câu trả lời.

Khi mới chào đời, sinh vật xăm trổ vằn vện kềnh càng trước mặt ông chỉ là một đứa trẻ sơ sinh nhỏ xíu và đáng yêu… bé Zach quấn tã nằm trong chiếc nôi đan bằng liễu gai… bập bẹ học nói… chập chững những bước đầu tiên trong phòng làm việc của Peter. Cái ác nảy nòi nơi một đứa trẻ ngây thơ lớn lên trong gia đình tràn đầy tình thương thực là một trong những nghịch lý của tâm hồn con người. Từ lâu ròi, Peter đã buộc phải chấp nhận rằng mặc dù huyết quản Zach chứa dòng máu Solomon, nhưng trái tim để bơm dòng máu ấy lại là của riêng nó. Duy nhất và khác thường… như thể được lựa chọn rất ngẫu nhiên từ vũ trụ bao la.

Con trai tôi… nó đã giết mẹ tôi, người bạn Robert Langdon của tôi, và có thể cả em gái tôi nữa.

Peter tê tái cõi lòng, gắng tìm kiếm đôi chút thân thương hay quen thuộc trong mắt con trai. Tuy nhiên, đôi mắt của gã đàn ông, mặc dù cũng xám như mắt Peter, lại là mắt một kẻ hoàn toàn xa lạ, chất chứa toàn những oán hờn và cừu hận không hề thấy ở thế giới này.

- Ba vẫn khỏe chứ? - Mal’akh giễu cợt, liếc con dao Akedah nắm chặt trong tay Peter - Ba có thể kết thúc tấn kịch mà chính ba bắt đầu từ nhiều năm về trước không?

- Con trai… - Solomon lạc giọng - Ta… ta đã yêu thương… con.

- Ba đã cố giết tôi hai lần. Lần thứ nhất bỏ tôi trong tù. Lần thứ hai bắn tôi ở cây cầu của Zach. Giờ thì hãy kết thúc đi!

Nhất thời, Solomon cảm thấy như trôi ra khỏi cơ thể của chính mình. Ông không còn nhận ra bản thân nữa: cụt một bàn tay, đầu cạo trọc hoàn toàn, mình mặc tấm áo choàng đen, ngồi trên chiếc xe lăn và đang nắm chặt một con dao cổ.

- Hãy kết thúc đi! - Mal’akh lại gào lên, những hình xăm trên bộ ngực trần của gã phập phồng - Giết tôi là cách duy nhất giúp ông cứu Katherine… cứu hội huynh đệ của mình?

Solomon bất giác liếc mắt về phía máy tính và chiếc modem đặt trên ghế da lợn.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 92%

Ông không thể làm ngơ trước hình ảnh Katherine chảy máu tới chết… hay bỏ mặc các huynh đệ Tam điểm của ông.

- Vẫn còn thời gian đấy - Mal’akh thì thào - ông biết đó là lựa chọn duy nhất mà. Hãy giải thoát tôi khỏi thân xác phàm tục này.

- Ba xin con - Solomon khẩn khoản - Đừng làm thế…

- Nhưng ông đã lầm - Mal’akh rít lên - ông buộc con ông phải thực hiện một lựa chọn bất khả. Ông còn nhớ buổi tối đó không? Tiền bạc hay tri thức? Đó là buổi tối ông đẩy tôi ra xa mãi mãi. Nhưng tôi đã trở về. Thưa ba… và tối nay đến lượt ông phải lựa chọn. Zachary hay Katherine? Sẽ thế nào? Giết con trai để cứu em gái? Giết con trai để cứu hội huynh đệ? Cứu cả đất nước nữa chứ? Hay ông sẽ đợi cho tới khi quá muộn? Cho tới khi cô Katherine chết… cho tới khi đoạn video tung ra công chúng… cho tới khi ông phải sống nốt quãng đời còn lại với nỗi dằn vặt rằng mình đã có thể chấm dứt những thảm kịch này. Thời gian đang cạn dần đấy. Ông biết cần phải làm gì mà.

Tim Peter đau nhói. Mày không phải là Zachary, ông tự nhủ. Zachary đã chết từ lâu, rất lâu rồi. Cho dù mày là thứ gì… và cho dù mày từ đâu đến… thì mày cũng chẳng phải là con tao. Mặc dù không tin vào lời lẽ của chính mình, nhưng Peter Solomon biết ông phải lựa chọn.

Không còn thời gian trì hoãn nữa.

° ° °

Tìm Cầu thang lớn!

Robert Langdon băng qua các hành lang tối om, luồn lách tiến về phía trung tâm toà nhà. Turner Simkins theo sát gót anh. Cuối cùng Langdon cũng vào được thẳng sảnh chính, đúng như anh hy vọng.

Sảnh chính trông giống một ngôi mộ cá lai ghép Hy Lạp - La Mã - Ai Cập với tám cây cột bằng đá hoa cương theo phong cách Doric, với những bức tượng bằng cẩm thạch đen, những bát đèn dầu treo, những cây thập tự kiểu Giéc-manh, những tấm huy chương hình phượng hoàng hai đầu và những chân đèn trang trí đầu thần Hermes.

Langdon rẽ sang đầu kia sảnh chính, chạy về phía cầu thang cẩm thạch rộng thênh thang.

- Cầu thang này dẫn thẳng tới Phòng Thánh lễ. - anh thì thầm. Hai người leo lên nhanh và im lặng hết mức có thể.

- Ở chiếu nghỉ đầu tiên, Langdon gặp bức tượng bán thân bằng đồng của danh nhân Tam điểm Albert Pike, cùng với dòng chữ khắc câu nói nổi tiếng nhất của ông: NHỮNG GÌ CHÚNG TA LÀM RIÊNG CHO BẢN THÂN SẼ CHẾT CÙNG CHÚNG TA; NHỮNG GÌ CHÚNG TA LÀM CHO NGƯỜI KHÁC VÀ THẾ GIỚI THÌ SẼ Ở LẠI VÀ SÔNG MÃI.

° ° °

Mal’akh cảm nhận một sự thay đổi rõ rệt trong không khí tại Phòng Thánh lễ, như thể mọi nỗi thất vọng và đau đớn bấy nay của Peter Solomon đều đang sôi sục… hội tụ lại như một chùm tia la-de nhắm vào gã.

Phải… đến lúc rồi.

Peter Solomon nhổm dậy khỏi chiếc xe lăn và đứng đối diện với bàn thờ, tay nắm chặt lưỡi dao.

- Hãy cứu cô Katherine - Mal’akh ve vãn, dẫn dụ ông tới gần bàn thờ, gã dựa lưng vào đó và cuối cùng nằm hẳn lên tấm vải trắng đã chuẩn bị sẵn - Hãy làm những gì mà ba cần phải làm.

Cứ như thể đang trải qua một cơn ác mộng, Peter nhích lên phía trước.

Giờ đây Mal’akh đã nằm ngửa hẳn ra, đăm đăm nhìn lên mặt trăng mùa đông qua mắt vòm. Bí mật là chết như thế nào. Khoảnh khắc này không thể hoàn hảo hơn được nữa. Trang trí cho mình bằng Từ Còn Thiếu của mọi thời đại, ta hiến thân qua bàn tay trái của cha ta.

Mal’akh hít một hơi thật sâu.

Hãy đón nhận ta, hỡi quỷ sứ, vì đây là cơ thể ta, hiến dâng cho các người.

Peter Solomon nhìn xuống Mal’akh, người run bắn. Đôi mắt đẫm lệ lóe lên tuyệt vọng, do dự và thống khổ. Ông ngó máy tính xách tay và chiếc modem bên kia phòng lần cuối.

- Hãy lựa chọn đi - Mal’akh thì thào - Hãy giải thoát con khỏi thân xác của con. Chúa muốn thế. Ba muốn thế.

Gã đặt hai tay bên sườn và ưỡn cong ngực lên, trương con phượng hoàng hai đầu kiêu hãnh của mình ra. Hãy giúp ta trút bỏ nhục thân trói buộc linh hồn ta.

Ánh mắt đau đớn của Peter như xuyên thấu qua người Mal’akh, thậm chí không nhìn vào gã.

- Con đã giết mẹ của ba - Mal’akh thì thào - Con đã giết Robert Langdon. Con đang giết em gái ba. Con đang huỷ hoại các huynh đệ của ba. Hãy làm những gì ba phải làm đi!

Mặt Peter nhăn nhúm thành chiếc mặt nạ của nỗi thống khổ và ân hận cùng cực. Ông ngửa đầu ra sau và hét lên đau đớn, đồng thời vung con dao lên.

° ° °

Vừa rón rén tới bên ngoài cửa Phòng Thánh lễ. Robert Langdon và đặc vụ Simkins chợt nghe thấy tiếng hét ghê rợn bung ra từ bên trong. Đó là giọng Peter. Langdon biết chắc như vậy.

Tiếng hét của ông là tiếng hét bị thương tột cùng.

Mình đến quá muộn rồi! Mặc kệ Simkins, Langdon chụp lấy tay nắm cửa và mở toang ra.

Cảnh tượng hãi hùng trước mắt đã xác nhận nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất của anh. Ở kia, ngay giữa căn phòng sáng lờ mờ, đứng bên bàn thờ trung tâm là một người đàn ông với cái đầu trọc lốc. Người đó khoác áo choàng đen, tay siết chặt một con dao lớn.

Langdon chưa kịp di chuyển thì kẻ đó đã phóng lưỡi dao xuống thân hình nằm dài trên bàn thờ.

° ° °

Mal’akh nhắm mắt lại.

Thật tuyệt vời! Thật hoàn hảo.

Lưỡi dao Akedah cổ xưa lấp loáng ánh trăng trong lúc lượn thành một đường vòng phía trên gã. Những làn khói xông hương cuộn xoáy bay lên, chuẩn bị sẵn con đường cho linh hồn sắp được giải thoát của Mal’akh. Tiếng thét xót xa và tuyệt vọng của kẻ hạ sát ngân vang khắp không gian thiêng liêng trong khi lưỡi dao cắm xuống.

Ta bị ô uế bởi máu của kẻ hiến sinh và nước mắt của cha mẹ.

Mal’akh chờ đợi tác động tuyệt vời.

Thời điểm biến cải của gã đã đến.

Thật kỳ lạ là gã không hề thấy đau.

Một chấn động mạnh lan khắp người gã, chói tai và thấm sâu. Căn phòng bắt đầu rung chuyển, một quầng sáng trắng chói loà bên trên làm gã loá mắt.

Thiên đường cất tiếng.

Mal’akh biết điều đó đã xảy ra.

Đúng như kế hoạch của gã.

° ° °

Langdon không nhớ mình đã phóng hết tốc lực về phía bàn thờ trong khi chiếc trực thăng xuất hiện trên đầu. Anh cũng chẳng nhớ đã nhảy bổ tới hai cánh tay dang rộng… lao vào kẻ mặc áo choàng đen… cố gắng túm lấy hắn một cách tuyệt vọng trước khi hắn phóng dao xuống lan thứ hai.

Thân hình họ va vào nhau. Một cột sáng chói chang quét qua mắt vòm và soi rõ bàn thờ. Langdon đinh ninh sẽ nhìn thấy cơ thể đẫm máu của Peter Solomon trên đó, nhưng bộ ngực trần phơi ra trong ánh sáng lại chẳng vương chút máu nào… chỉ toàn những hình xăm như một bức tranh thêu. Con dao nằm gãy nát bên cạnh gã, rõ ràng đã đâm mạnh vào bàn thờ đá chứ không phải vào da thịt.

Khi va vào người mặc áo choàng đen trên sàn đá cứng, Langdon phát hiện nùi băng gạc ở đầu cánh tay phải của người ấy, và anh hoang mang nhận ra rằng mình vừa túm trúng Peter Solomon.

Họ lăn tròn trên sàn đá, đèn pha của chiếc trực thăng chiếu xuống sáng rực. Nó ầm ầm rà thấp, nạng chạm cả vào bức tường kính.

Phía đầu trực thăng, một khẩu súng trông rất lạ đang xoay tròn, nhắm xuống qua lớp kính. Chùm tia la-de đỏ rực lia qua cửa sổ trần nhà và nhảy nhót qua sàn phòng, rọi thẳng tới chỗ Langdon và Solomon.

Không! Nhưng không có tiếng súng nổ… chỉ có tiếng phành phạch của cánh quạt trực thăng.

Langdon không cảm thấy gì ngoài một nguồn năng lượng kỳ lạ lăn tăn lan qua các tế bào trong người. Phía sau đầu anh, trên chiếc ghế da lợn, máy tính xách tay bỗng rít lên rất lạ. Langdon nhổm dậy vừa kịp lúc nhìn thấy màn hình của nó đột nhiên sáng lòe rồi tắt phụt. Rủi thay, dòng tin cuối cùng còn lóe lại rất rõ ràng.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 100%

Bay lên!Khốn kiếp!Lên

Phi công cho các cánh quạt của chiếc UH-60 quay hết tốc lực, cố gắng không để nạng máy bay chạm vào bất kỳ phần nào của ô kính trần. Anh ta biết rằng ngót ba tấn lực nâng mà cánh quạt ép xuống đã khiến mặt kính căng gần tới điểm vỡ. Không may, độ nghiêng của kim tự tháp bên dưới trực thăng lại làm cho lực ép trượt sang bên cạnh, khiến anh không có đà nâng lên.

Lên đi nào!

Phi công lật nghiêng mũi máy bay, cố gắng lướt đi, nhưng thanh chống bên trái đã va trúng tâm mặt kính. Việc đó chỉ diễn ra trong chớp mắt, nhưng thế là đủ.

Mắt vòm cực lớn của Phòng Thánh lễ vỡ toang thành trận lốc thuỷ tinh và gió… trút cả một cơn mưa mảnh vỡ tung tóe vào gian phòng phía dưới.

° ° °

Những vì sao đang từ thiên đàng rơi xuống.

Mal’akh trân trân nhìn lên quầng sáng trắng đẹp đẽ và thấy một màn lấp lánh bay về phía gã… rất nhanh… như thể đang hối hả trùm lên gã vẻ tráng lệ của chúng.

Đột nhiên có cảm giác đau nhói.

Khắp mọi nơi.

Nhói buốt. Rát bỏng. Dữ dội. Những lưỡi dao sắc lém xuyên qua thịt mềm. Ở ngực, ở cổ, ở đùi, ở mặt. Cơ thể gã đột ngột căng cứng, giật lên. Gã há cái miệng đầy máu gào rú khi cơn đau kéo gã ra khỏi trạng thái xuất thần. Ánh sáng trắng phía trên đã thay đổi, và đột nhiên, như có phép lạ, một chiếc trực thăng đen xì bay lơ lửng phía trên gã, những cánh quạt ầm ầm của nó đẩy cả một luồng gió giá buốt xuống Phòng Thánh lễ, khiến Mal’akh lạnh thấu đến tận tâm can và làm những làn hương thơm dạt tứ tan ra mọi góc phòng.

Mal’akh xoay đầu và nhìn thấy con dao Akedah nằm gãy nát bên mình, do bị đâm mạnh vào bàn thờ bằng đá granite, giờ đang phủ cả một tấm chăn thuỷ tinh vỡ. Sau ngần ấy bất hạnh ta gây ra cho Peter… lão vẫn ngăn chặn con dao. Lão không chịu làm máu ta đổ.

Với nỗi sợ hãi dâng trào, Mal’akh ngóc đầu dậy, trừng trừng nhìn dọc chiều dài cơ thể mình. Kiệt tác sống này vốn là lễ vật vĩ đại của gã. Nhưng nay nó nằm đó thật thảm hại. Cơ thể đẫm máu… những mảnh kính lớn cắm ngập vào da thịt gã từ mọi hướng.

Mal’akh yếu ớt thả đầu rơi trở lại bàn thờ đá hoa cương và trân trân nhìn qua không gian để ngỏ trên mái. Chiếc trực thăng đã bay đi thế vào chỗ nó là vầng mặt trăng mùa đông lặng lẽ.

Hai mắt mở to, Mal’akh nằm hớp không khí… trơ trọi một mình trên bàn thờ vĩ đại.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 122

Bí mật là chết như thế nào.

Mal’akh biết tất cả đều đã đi sai hướng. Không có ánh sáng rực rỡ.

Không có sự đón nhận tuyệt vời. Chỉ tuyền bóng tối và cơn đau nhức nhối. Thậm chí cả trong mắt gã.

Mal’akh không nhìn được nữa, nhưng vẫn cảm nhận được chuyển động xung quanh mình. Có tiếng nói… tiếng người… lạ thay, một trong số đó chính là tiếng Robert Langdon. Làm sao lại như thế được chứ?

- Cô ấy ổn rồi, - Langdon đang nhắc lại - Katherine rất ổn, Peter ạ. Em gái anh không sao.

Không. Mal’akh nghĩ. Katherine chết rồi. Nhất định phải như thế.

Mal’akh không nhìn được nữa, cũng chẳng chắc liệu mắt mình còn mở hay không, nhưng gã nghe thấy tiếng trực thăng bay đi. Bầu không khí thanh bình đột ngột lan toả trong Phòng Thánh lễ. Mal’akh nhận thấy nhịp đập trơn tru của trái đất đang trở nên rối loạn… y như thể những đợt thuỷ triều tự nhiên của đại dương bị phá vỡ bởi cơn bão đang hình thành.

Chao ab ordo.

Bấy giờ lại có những giọng nói lạ hoắc vang lên, hấp tấp trao đổi với Langdon về máy tính và tệp tin video. Quá muộn rồi, Mal’akh biết như vậy. Sự phá hoại đã thực hiện xong. Giờ này, đoạn video đang lan nhanh ra mọi ngóc ngách, làm thế giới choáng váng và phá huỷ tương lai của hội huynh đệ. Những kẻ có khả năng phổ biến trí tuệ nhất phải bị tiêu diệt. Sự ngu dốt của loài người là yếu tố giúp hỗn loạn phát triển. Sự thiếu vắng ánh sáng trên trái đất sẽ nuôi dưỡng Bóng tối, Bóng tối ấy đang chờ đợi Mal’akh.

Ta vừa lập những kỳ tích vĩ đại và ta sắp được đón nhận như một vị vua.

Mal’akh cảm thấy một người lặng lẽ tiến đến gần. Gã biết đó là ai, nhờ mùi dầu thiêng mà gã đã thoa lên cơ thể cạo nhẵn nhụi của ông.

- Ba không biết liệu con còn nghe được ba nói không, - Peter Solomon thì thầm vào tai gã - Nhưng ba muốn con biết một điều.

Ông chạm ngón tay vào vị trí thiêng liêng trên đỉnh sọ của Mal’akh.

- Những gì con viết lên đây… - ông ngập ngừng - không phải là Từ Còn Thiếu.

Nhất định là nó. Mal’akh nghĩ. Ông đã giúp tôi nhận ra, không nghi ngờ gì nữa.

Theo truyền thuyết, Từ Còn Thiếu được viết bằng một ngôn ngữ cổ và bí truyền đến mức nhân loại đều đã quên cách đọc. Ngôn ngữ bí mật này, như Peter tiết lộ, trên thực tế là thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất trên trái đất.

Ngôn ngữ của biểu tượng.

Trong cách diễn đạt của biểu tượng học, có một biểu tượng ở vị trí tối thượng, vượt lên tất cả các biểu tượng khác. Cực kỳ lâu đời và phổ biến, biểu tượng ấy xuất hiện trong tất cả các tín ngưỡng cổ thông qua hình ảnh duy nhất tượng trưng cho sự chiếu sáng của thần mặt trời Ai Cập, cho việc tạo ra vàng giả kim, cho tri thức của Hòn đá Triết học, cho sự thuần khiết của Hoa hồng Thập tự, cho khoảnh khắc Sáng tạo cho Tất cả, cho sự thống trị của mặt trời chiêm tinh học, và thậm chí là Thấu nhãn thông linh ngự trên đỉnh Kim tự tháp Dang dở.

Bàn huyền điểm. Biểu tượng của Nguồn gốc. Lời nguyền của vạn vật.

Đây chính là điều Peter nói với gã lúc trước. Thoạt đầu Mal’akh sinh nghi, nhưng sau nhìn lại đồ hình, gã nhận ra rằng hình ảnh kim tự tháp chỉ trực tiếp tới biểu tượng duy nhất của Bàn huyền điểm - một vòng tròn với một chấm ở chính giữa. Kim tự tháp Tam điểm là một bản đồ, gã nhớ lại truyền thuyết, dẫn tới Từ Còn Thiếu. Xem ra cha gã đã nói sự thật.

Mọi chân lý vĩ đại đều rất đơn giản.

Từ Còn Thiếu không phải là một từ, nó là một biểu tượng.

Đầy háo hức. Mal’akh đã vẽ biểu tượng vĩ đại của Bàn huyền điểm lên đỉnh đầu. Trong khi vẽ, gã cảm thấy sức mạnh và sự thoả mãn trào dâng. Kiệt tác và lễ vật của ta đã hoàn tất. Các thế lực bóng tối đang chờ đợi. Gã sẽ nhận được phần thưởng cho nỗ lực của mình.

Đây là thời khắc vinh quang của gã…

Nhưng, đến phút cuối cùng, mọi sự lại chẳng đâu vào đâu.

Peter vẫn ở phía sau Mal’akh, tuôn ra những lời mà gã không tài nào hiểu nổi.

- Ba đã nói dối con - ông thú nhận - Con khiến ba không còn lựa chọn nào khác. Nếu ba tiết lộ cho con Từ Còn Thiếu đích thực, con sẽ không chịu tin, con cũng sẽ không chịu hiểu.

Từ Còn Thiếu… không phải là Bàn huyền điểm ư?

- Sự thực là - Peter nói - Từ Còn Thiếu thì ai cũng biết… nhưng rất ít người nhận ra.

Lời ông vang vọng trong tâm trí Mal’akh.

- Con vẫn chưa hoàn chỉnh, - Peter nói, nhẹ nhàng đặt bàn tay mình lên đỉnh đầu Mal’akh - Công trình của con còn dở dang. Nhưng cho dù con sẽ đi tới đâu, xin hãy hiểu điều này… con đã từng được yêu thương.

Không rõ vì sao, cái chạm tay nhẹ nhàng của Peter lại gây cảm giác thiêu đốt khắp người Mal’akh, y như thể một chất xúc tác cực mạnh đang kích hoạt phản ứng hoá học bên trong cơ thể gã. Rất bất ngờ, Mal’akh cảm thấy một luồng năng lượng cực mạnh trào dâng khắp vỏ sinh vật của mình, tưởng chừng từng tế bào trong người gã đang phân huỷ.

Trong khoảnh khắc, mọi nỗi đớn đau đều tan biến.

Biến cải. Nó đang xảy ra.

° ° °

Ta đang đăm đăm nhìn xuống chính mình, một đống da thịt đẫm máu trên khối đá hoa cương thiêng liêng. Cha quỳ phía sau, ôm lấy cái đầu vô hồn của ta bằng bàn tay còn lại.

Ta cảm thấy giận dữ… và bối rối vô cùng.

Đây không phải là lúc thương hại… đây là lúc trả thù, biến cải…nhưng cha vẫn từ chối dâng hiến, từ chối hoàn tất vai trò từ chối truyền nỗi đau và sự phẫn nộ của ông qua lưỡi dao để cắm vào tim ta.

Ta bị mắc kẹt lại đây, lơ lửng… bị buộc vào cái vỏ phàm tục này.

Cha đang nhẹ nhàng đưa bàn tay mềm mại vuốt mắt cho ta.

Dường như sự trói buộc đã được cởi bỏ.

Một tấm màn đang hiện ra quanh ta càng lúc càng dày và che mờ ánh sáng, che khuất thế giới. Đột nhiên, thời gian tăng nhanh, và ta lao vào một vực thẳm tối tăm hơn bất kỳ nơi nào ta từng hình dung.

Ở đây trong khoang trống rỗng trơ trọi, ta nghe thấy tiếng thì thào…

Ta cảm thấy có một thế lực đang tụ lại. Nó bành trướng, tăng trưởng với một tốc độ kinh ngạc, bao vây lấy ta. Hăm doạ và hùng mạnh. Tối tăm và oai vọng.

Ở đây, ta không chỉ có một mình.

Đây là thắng lợi của ta, sự tiếp nhận vĩ đại dành cho ta. Nhưng chẳng hiểu sao, ta không mảy may vui sướng, thay vào đó là nỗi sợ hãi vô bờ.

Mọi sự khác hẳn điều ta kỳ vọng.

Thế lực kìa cứ trào lên xoáy tròn quanh ta với sức mạnh kinh người, đe doạ xé tan ta, đột nhiên, không hề báo trước, bóng tối tụ lại như một con thú tiền sử khủng khiếp và xông thẳng vào ta.

Ta đang đối mặt với những linh hồn tăm tối đã ra đi trước.

Ta kêu thét trong nỗi hãi hùng tột độ… khi bị bóng tối nuốt chửng lấy mình.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 123

Tại Đại Giáo vương Quốc gia, Đức cha Galloway bỗng nhận thấy một sự thay đổi lạ lùng trong không khí. Ông không biết chắc tại sao, chỉ có cảm giác một bóng ma vừa tan biến… như thể một sức nặng vừa được nâng lên… xa dần nhưng vẫn ở ngay đây.

Ngồi một mình bên bàn. Ông chìm vào suy ngẫm. Chẳng biết bao nhiêu phút trôi qua, rồi điện thoại reo vang. Người gọi là Warren Bellamy.

- Peter còn sống, - vị huynh đệ Tam điểm của ông thông báo - Tôi vừa nghe tin. Tôi biết cha muốn hay tin ngay lập tức. Anh ấy sẽ ổn thôi.

- Ơn Chúa - Galloway thở phào - Anh ấy ở đâu rồi?

Galloway nghe Bellamy tường thuật lại câu chuyện dị thường diễn ra sau khi họ rời khỏi Chủng viện Nhà thờ lớn.

- Nhưng tất cả các anh đều ổn cả chứ, Đang phục hồi đây - Bellamy nói - Mặc dù, có một chuyện - ông ngừng lại.

- Sao nào?

- Kim tự tháp Tam điểm… tôi nghĩ có thể Langdon đã giải mã nó rồi.

Galloway mỉm cười. Dù sao ông cũng không hề thấy ngạc nhiên.

- Cho tôi biết, Langdon đã phát hiện ra kim tự tháp giữ đúng lời hứa hay chưa? Nó có tiết lộ những điều mà truyền thuyết luôn nói rằng nó sẽ tiết lộ không?

- Tôi vẫn chưa biết.

Nó sẽ tiết lộ. Galloway nghĩ.

- Anh cần nghỉ ngơi đi.

- Cha cũng thế.

Không, tôi cần cầu nguyện.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 124

Cửa thang máy mở, ánh sáng trong Phòng Thánh lễ hắt ra chói loà.

Katherine Solomon hấp tấp lao vào tìm anh trai, chân vẫn tê cứng.

Không khí trong gian phòng mênh mông này lạnh lẽo và sặc mùi hương. Đón Katherine là một cảnh tượng khiến cô chững lại.

Chính giữa phòng, trên chiếc bàn thờ thấp bằng đá là một cái xác xăm trổ đẫm máu, bị vô vàn mảnh kính vỡ đâm nát. Cao trên trần nhà là một lỗ hổng mở thẳng lên trời.

Lạy Chúa tôi. Katherine lập tức ngoảnh đi, đưa mắt tìm Peter. Anh trai cô đang ngồi ở mé kia căn phòng, trò chuyện với Langdon và Giám đốc Sato trong khi một nhân viên y tế chăm sóc cho ông.

- Peter - Katherine gọi và chạy ngay sang - Anh Peter!

Anh trai cô nhìn lên, nét mặt nhẹ nhõm hẳn đi. Ông đứng ngay dậy, tiến về phía cô, mình bận áo sơ mi trắng giản dị và chiếc quần sẫm màu, có lẽ do ai đó xuống văn phòng dưới nhà mang lên cho ông. Cánh tay phải của Peter đặt trên băng đeo, làm hai anh em ôm nhau có phần vướng víu, nhưng Katherine không chú tâm lắm. Cảm giác an ủi thân thuộc vây kín cô tựa cái kén, luôn luôn như vậy kể từ thời thơ ấu, mỗi lần người anh trai quen bảo bọc ôm lấy cô.

Họ yên lặng trong vòng tay nhau.

Cuối cùng, Katherine thì thầm lên tiếng:

- Anh không sao chứ? Ý em là… thật sự ấy? - Cô buông Peter ra, nhìn xuống băng đeo và chỗ băng bó vốn là bàn tay phải của ông trước kia. Nước mắt cô lại trào lên - Em rất… rất xin lỗi.

Peter nhún vai như thể chẳng có gì đáng kể.

- Da thịt ấy mà. Cơ thể có tồn tại mãi đâu. Điều quan trọng là em vẫn bình an.

Phản ứng vô tư của Peter càng khiến cảm xúc trong lòng Katherine trào dâng, khơi gợi đủ mọi lý do khiến cô yêu thương anh trai mình.

Cô vuốt ve đầu ông, cảm nhận sợi dây gia đình bền chặt thông qua dòng máu chung chảy trong huyết mạch họ.

Thật buồn, Katherine biết rằng tối nay còn một thành viên Solomon nữa ở căn phòng này. Cái xác trên bàn thờ lại hút lấy ánh mắt cô, Katherine rùng mình, cố gắng xua đuổi những bức ảnh đã xem.

Cô ngoảnh đi, đưa mắt tìm Robert Langdon. Anh đáp lại với sự trìu mến, sâu thẳm và nhạy cảm, như thể đọc được suy nghĩ của cô.

Peter đã biết. Khuây khoả, cảm thông, thất vọng… những tình cảm nguyên sơ ấy xâm chiếm cõi lòng Katherine, và rồi, lần đầu tiên trong đời, cô thấy cơ thể Peter bắt đầu rung lên như một đứa trẻ.

- Hãy để mọi việc trôi qua - cô thì thầm - ôn rồi anh ạ. Hãy để nó qua đi.

Người Peter càng rung bần bật.

Katherine lại ôm lấy anh trai, vuốt ve sau gáy ông.

- Anh Peter, anh luôn là người mạnh mẽ… anh luôn có mặt khi em cần. Nhưng lúc này em ở đây là vì anh. Ổn rồi. Em ở đây mà.

Katherine nhẹ nhàng ép đầu anh trai lên vai cô… và Peter Solomon vĩ đại sụp xuống nức nở trong vòng tay em gái.

° ° °

Giám đốc Sato bước ra xa để nghe điện thoại.

Nola Kaye gọi đến. Tin tức của cô khá tốt lành.

- Vẫn không có dấu hiệu phát tán, thưa sếp - Cô thông báo đầy hy vọng - Tôi tin rằng chúng ta sẽ thấy kết quả ngay bây giờ thôi. Có vẻ như sếp đã kiểm soát được tình hình.

- Cảm ơn cô, Nola, Sato nghĩ thầm, liếc xuống chiếc máy tính mà Langdon nhìn rõ là đã hoàn tất quá trình gửi tin. Đúng là thoát nạn trong gang tấc.

Theo gợi ý của Nola, nhân viên đặc vụ lục soát căn nhà của Mal’akh đã kiểm tra các thùng rác trong ga ra để xe và phát hiện bao bì của một chiếc modem mới mua. Với số chủng loại chính xác. Nola có thể tham khảo chéo các nhà cung cấp phù hợp, băng thông rộng và các mạng dịch vụ, cô lập nút truy cập nhiều khả năng nhất của chiếc máy tính, đó là một máy phát tín hiệu nhỏ ngay góc phố 16 và Corcoran, cách Thánh điện ba dãy nhà.

Nola nhanh chóng truyền tin cho Sato, bấy giờ đang ngồi trên trực thăng. Khi tiếp cận Thánh điện, phi công đã thực hiện bay thấp và phóng một đợt phát xạ điện từ, gây chấn động lên nút truyền tin khiến nó tắt phụt chỉ vài giây trước khi máy tính hoàn tất quá trình gửi tin.

- Tối nay cô cừ lắm - Sato nói - Bây giờ đi ngủ một chút đi. Cô xứng đáng được như vậy.

- Cảm ơn sếp - Nola ngập ngừng.

- Còn gì nữa?

Nola im lặng một lúc lâu, rõ ràng đang cân nhắc xem có nên nói hay không.

- Chẳng có gì đâu, thôi cứ để đến sáng mai, sếp ạ. Chúc sếp ngủ ngon.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 125

Trong không khí yên tĩnh của một phòng tắm rất trang nhã ở tầng trệt Thánh điện, Robert Langdon cho nước ấm chảy vào bồn tắm gạch men và ngắm mình trong gương. Ngay dưới làn ánh sáng mờ ảo, anh vẫn nhận ra trông mình mệt lả… đúng như anh cảm nhận.

Langdon lại khoác túi lên vai, nó nhẹ hơn nhiều bởi đã rỗng không ngoại trừ mấy món đồ cá nhân và vài ba ghi chú đã nhàu nát về bài giảng. Anh phì cười. Chuyến đi tới Thủ đô để giảng bài tối nay hoá ra vất vả hơn anh tưởng.

Dù vậy, vẫn có nhiều điều khiến Langdon khoan khoái:

Peter còn sống.

Đoạn video đã bị chặn lại.

Langdon vốc nước ấm vã lên mặt, thấy mình dần dần tỉnh táo. Mọi thứ vẫn còn lờ mờ, nhưng chất adrenaline trong cơ thể cuối cùng cũng giảm đi… Langdon cảm thấy được trở lại chính mình. Anh lau khô tay và nhìn chiếc đồng hồ Chuột Mickey.

Lạ Chúa, muộn rồi.

Langdon ra khỏi phòng tắm và lần theo bức tường cong của Sảnh Biểu chương - một lối đi tạo thành vòm rất trang nhã, hai bên là chân dung các hội viên Tam điểm xuất chúng… các vị tổng thống Hoa Kỳ, các nhà từ thiện, danh nhân, và những người Mỹ đầy ảnh hưởng khác.

Anh dừng lại trước bức tranh sơn dầu vẽ Harry S. Truman và cố hình dung xem người này trải qua các nghi thức, lễ nghi và quá trình nghiên cứu cần thiết để trở thành một hội viên Tam điểm như thế nào.

Có một thế giới bí mật đằng sau tất cả mỗi chúng ta. Cho tất cả chúng ta.

- Anh định chuồn đấy à? - một giọng nói vang lên trong sảnh.

Langdon quay lại.

- Katherine. Tối nay, cô đã phải trải qua địa ngục, nhưng giờ trông cô rạng rỡ bất ngờ… hầu như trẻ lại.

Langdon mỉm cười mệt mỏi.

- Peter sao rồi?

Katherine bước tới, ôm chầm lấy Langdon.

- Em biết cảm ơn anh thế nào đây.

Langdon phá lên cười.

- Em biết anh không làm gì cả mà, phải không?

Katherine ôm anh một lúc lâu.

- Anh Peter sẽ khỏe thôi… - Cô buông tay và nhìn sâu vào mắt Langdon - Và anh ấy vừa cho em biết một chuyện không thể tin nổi…một chuyện tuyệt vời- Giọng cô run lên mong đợi - Em phải tự mình đi xem. Em sẽ trở lại ngay thôi.

- Cái gì? Em định đi đâu?

- Em không đi lâu đâu. Bây giờ Peter muốn nói chuyện với anh đấy, nói riêng. Anh ấy đang đợi trong thư viện.

- Peter có nói là vì chuyện gì không?

Katherine cười khúc khích và lắc đầu.

- Anh thừa hiểu Peter và những bí mật của anh ấy mà.

- Nhưng…

- Lát nữa em sẽ gặp lại anh.

Rồi cô đi khuất.

Langdon thở dài. Đã quá đủ bí mật cho một buổi tối rồi. Dĩ nhiên, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời đáp - Kim tự tháp Tam điểm và Từ Còn Thiếu đều nằm trong số đó - nhưng anh cảm thấy rằng mọi câu trả lời, nếu có tồn tại, đều không phải dành cho anh. Không phải với tư cách một người ngoài Hội Tam điểm.

Cố tập trung hết sức lực còn lại, Langdon lần tìm tới thư viện Hội Tam điểm. Khi anh bước vào, Peter đang ngồi một mình bên bàn.

Kim tự tháp đá đặt trước mặt.

- Robert đấy à? - Peter mỉm cười vẫy anh - Tôi cần một từ.

Langdon gắng nhe răng cười.

- Phải, em nghe nói anh thiếu một từ.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 126

Thư viện của Thánh điện Hội Tam điểm là phòng đọc công cộng lâu đời nhất Thủ đô nước Mỹ. Các giá kê trang nhã chất tới hơn 250.000 cuốn sách, trong đó có những bản hiếm như Ahiman Rezon - Bí mật của một huynh đệ đã sẵn sàng. Ngoài ra, thư viện còn trưng bày nhiều đồ trang sức và tế khí quý giá của Hội Tam điểm, thậm chí có cả một cuốn sách rất hiếm do Benjamin Franklin in thủ công.

Tuy nhiên, báu vật mà Langdon ưa thích trong thư viện này lại là một thứ rất ít người chú ý.

Ảo ảnh.

Trước đây khá lâu, Solomon đã chỉ cho Langdon thấy từ một góc thuận lợi, bàn đọc của thư viện và ngọn đèn bàn bằng vàng sẽ tạo ra một ảo ảnh quang học không lẫn vào đâu được… đó là ảo ảnh một kim tự tháp với chóp vàng rực rỡ. Solomon nói rằng ông luôn coi ảo ảnh này là lời nhắc nhở thầm lặng rằng những bí mật của Hội Tam điểm thường hiện lên rõ ràng trước mặt bất kỳ ai nếu họ biết quan sát từ một góc độ phù hợp.

Tuy nhiên, tối nay, những bí mật của Hội Tam điểm đã tự lộ diện.

Langdon đang ngồi đối diện Đại Huynh trưởng Peter Solomon và Kim tự tháp Tam điểm.

Peter cười.

- "Từ ngữ" mà cậu nhắc đến, Robert ạ, không phải là một truyền thuyết đâu. Nó có thật đấy.

Langdon trợn mắt nhìn qua bàn, cuối cùng cũng bật thành lời.

- Nhưng… em không hiểu. Sao lại như thế được?

- Có gì là khó chấp nhận ở đây?

Tất cả! Langdon muốn nói như vậy. Anh cố tìm kiếm trong mắt người bạn vong niên xem có chút đùa cợt nào không.

- Ý anh là Từ Còn Thiếu tồn tại… và chứa đựng sức mạnh thật sự à?

- Sức mạnh rất lớn, - Peter đáp - Nó có khả năng biến cải con người bằng cách khai mở những Bí ẩn cổ xưa.

- Một từ thôi à? - Langdon thắc mắc - Peter, em không thể tin nổi một từ…

- Cậu sẽ phải tin thôi, - Peter điềm tĩnh nói.

Langdon im lặng.

- Cậu biết đấy - Solomon đứng dậy, đi vòng qua bàn và tiếp - từ lâu người ta đã tiên đoán rằng sẽ có một ngày Từ Còn Thiếu xuất đầu lộ diện… được khai quật… cho nhân loại tiếp cận nguồn sức mạnh bị lãng quên của nó.

Langdon nhớ ngay đến bài giảng của Peter về Khải huyền. Nhiều người hiểu sai khải huyền coi nó như kết cục tang thương của thế giới, nhưng nghĩa đen của từ này lại là "sự tiết lộ". Ở đây là sự tiết lộ tri thức vĩ đại, theo tiên đoán của người cổ đại. Kỷ nguyên khai sáng sắp đến. Mặc dù vậy. Langdon cũng không sao hình dung nổi một từ mà tạo ra thay đổi lớn lao như vậy.

Peter ra hiệu về phía kim tự tháp đá đang nằm trên bàn, bên cạnh chóp vàng của nó.

- Kim tự tháp Tam điểm, - ông nói - Biểu hình huyền thoại. Đêm nay nó hợp nhất… và hoàn chỉnh.

Rất cung kính, ông nâng chóp vàng đặt lên đỉnh kim tự tháp. Khối vàng nặng dễ dàng khớp đúng vị trí của nó.

- Đêm nay, bạn của tôi ạ, cậu đã làm được những việc chưa ai làm trước đây. Lắp ráp Kim tự tháp Tam điểm, giải mã toàn bộ các mật mã của nó, và cuối cùng, khám phá… thứ này.

Solomon rút ra một tờ giấy rồi trải nó lên bàn. Langdon nhận ngay ra đồ hình biểu tượng đã được sắp xếp lại bằng cách sử dụng Ma phương Franklin Bậc tám. Lúc ở trong Phòng Thánh lễ anh đã xem qua tờ giấy này.

Peter nói:

- Tôi tò mò muốn biết liệu cậu có đọc được dãy biểu tượng ở đây không. Nói cho cùng, cậu là một chuyên gia.

Langdon nhìn đồ hình.

Heredom, bàn huyền điểm, kim tự tháp, cầu thang…

Langdon thở dài.

- Chà, Peter, chắc anh cũng thấy, đây là một bức tranh tượng hình trừu tượng. Rõ ràng ngôn ngữ của nó nặng tính ẩn dụ và tượng trưng hơn là nghĩa thật.

Solomon cười.

- Câu hỏi ấy quá dễ dàng đối với một nhà biểu tượng học… Được rồi, hãy nói cho tôi biết cậu nhìn thấy những gì.

Peter thực sự muốn nghe ư? Langdon kéo tờ giấy lại phía mình.

- Chà, lúc trước em đã xem qua, và nói một cách đơn giản, em thấy đồ hình này là một bức tranh… mô tả thiên đường và trái đất.

- Ồ, - Peter nhướng mày, vẻ rất ngạc nhiên.

- Chắc chắn. Trên đầu hình vẽ, chúng ta có từ Heredom, "Thánh thất", em có thể diễn giải là Nhà của Chúa, hoặc thiên đường.

- Được rồi.

Sau chữ Heredom có mũi tên hướng xuống dưới, biểu thị rằng phần còn lại của bức tranh tượng hình này nằm ở vương quốc bên dưới thiên đường… tức là… trái đất - Langdon lướt mắt xuống cuối bức hình - Hai mũi tên dưới cùng, bên dưới kim tự tháp, thể hiện chính trái đất (đất liền, nơi thấp nhất của tất cả các vương quốc. Thích hợp sao, những vương quốc dưới thấp này lại có mười hai biểu tượng chiêm tinh học cổ đại diện cho tôn giáo nguyên thuỷ của những linh hồn đầu tiên bay tới thiên đường và nhìn thấy bàn tay Chúa trời qua chuyển động của các vì sao và hành tinh.

Solomon kéo ghế mình lại gần hơn và xem xét bức hình.

- Được, còn gì nữa không?

- Trên nền tảng chiêm tinh học, - Langdon tiếp tục - Đại Kim tự tháp mọc lên từ trái đất… vươn tới thiên đường như biểu tượng lâu đời của tri thức bị thất truyền. Nó chứa đầy những triết lý và tôn giáo vĩ đại của lịch sử… Ai Cập, Pythagoras, Phật giáo, Hindu, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo - Judeo, v.v, tất cả đều chảy ngược lên, hợp lưu và dồn qua cánh cổng biến cải của kim tự tháp… ở đó chúng hoà vào thành triết lý nhân văn duy nhất, và thống nhất - Anh dừng lại - Một ý thức phổ quát, một hình ảnh toàn cầu chung về Chúa trời… được thể hiện bằng biểu tượng cổ xưa lơ lửng bên trên cái chóp.

- Bàn huyền điểm, - Peter nói - Một biểu tượng chung về Chúa trời.

- Phải. Suốt chiều dài lịch sử, bàn huyền điểm là tất cả đối với con người: là thần mặt trời Ra, là vàng của giới giả kim, là Thấu nhãn, là điểm kỳ dị trước vụ nổ Big Bang, là… Kiến trúc sư Vĩ đại của Vũ trụ.

Langdon gật đầu, đoán chừng lúc ở Phòng Thánh lễ, Peter sử dụng chính luận điểm này để khẳng định ý tưởng bàn huyền điếm là Từ Còn Thiếu.

- Và cuối cùng? - Peter hỏi - Thế còn cái cầu thang?

Langdon nhìn xuống hình cầu thang mé dưới kim tự tháp.

- Peter, em tin chắc anh hiểu rõ hơn bất kỳ ai, đây là biểu tượng cho Cầu thang Xoáy của Hội Tam điểm… dẫn lên trên, từ bóng tối trần ai để ra ánh sáng giống như cái thang Jacob bắc tới thiên đường… đây cũng là xương sống nhiều đốt của con người nối liền tấm thân tạm bợ với trí tuệ vĩnh hằng của họ - Anh ngừng lời một lúc - Những biểu tượng còn lại có vẻ là một tập hợp pha trộn giữa các yếu tố bầu trời, Hội Tam điểm và khoa học! Tất cả nhằm hỗ trợ cho những Bí mật cổ xưa.

Solomon xoa cằm.

- Một bài diễn giải tuyệt vời đấy. Giáo sư ạ. Dĩ nhiên, tôi đồng ý là có thể hiểu bức hình theo hướng phúng dụ, nhưng… - Đôi mắt ông ánh lên bí hiểm - Tập hợp các biểu tượng này còn kể một câu chuyện khác Một câu chuyện chưa hề hé lộ.

- Ô?

Solomon lại rảo bước quanh chiếc bàn.

- Tối nay, ở Phòng Thánh lễ, khi tin rằng mình sẽ chết, tôi quan sát bức hình và ít nhiều đã nhìn thấu qua ẩn dụ, thấu qua phúng dụ, đạt tới tâm điểm ý nghĩa của các biểu tượng này - ông ngừng lại, đột ngột xoay về phía Langdon - Bức hình tiết lộ chinh xác nơi chôn giấu Từ Còn Thiếu.

- Lại nữa rồi? - Langdon bồn chồn nhấp nhổm trên ghế, đột nhiên sợ rằng những chấn động tối nay đã làm Peter bấn loạn và mất phương hướng.

- Robert, truyền thuyết luôn nói Kim tự tháp Tam điểm là một tấm bản đồ, một tấm bản đồ rất cụ thể dẫn những người xứng đáng đi tới vị trí bí mật của Từ Còn Thiếu - Solomon vỗ vỗ đồ hình biểu tượng trước mặt Langdon - Tôi quả quyết với cậu, những biểu tượng này là bản đồ, đúng như truyền thuyết lâu nay về chúng. Nó là sơ đồ vị trí cầu thang dẫn xuống chỗ Từ Còn Thiếu.

Langdon cười khan, tỏ ra thận trọng.

- Cho dù em tin vào truyền thuyết về Kim tự tháp Tam điểm thì đồ hình biểu tượng này cũng không thể là bản đồ được. Hãy nhìn xem. Trông nó không có vẻ gì là một bản đồ.

Solomon mỉm cười.

Nhiều khi chỉ cần điều chỉnh góc nhìn, ta có thể tiếp cận một thứ quen thuộc qua lăng kính hoàn toàn mới.

Langdon nhìn lại nhưng vẫn chẳng phát hiện điều gì mới mẻ.

- Tôi hỏi cậu một câu - Peter nói - Cậu có biết khi đặt đá móng, tại sao Hội Tam điểm lại chọn góc đông bắc của mỗi toà nhà không?

- Em biết chứ, bởi vì góc đông bắc đón nhận những tia nắng đầu tiên của buổi sớm. Nó tượng trưng cho sức mạnh kiến trúc vươn từ lòng đất ra ánh sáng.

- Đúng - Peter nói - Vì thế có lẽ cậu nên nhìn ở đó để thấy những tia ánh sáng đầu tiên - ông trỏ bức hình - ở góc đông bắc ấy.

Langdon lại đưa mắt sang tờ giấy, dõi tới góc bên phải, phía trên, tức là góc đông bắc. Biểu tượng tại đó là â

- Mũi tên chỉ xuống dưới - Langdon nói, cố gắng nắm bắt gợi ý của Solomon - Có nghĩa là… bên dưới Heredom.

- Không, Robert, không phải bên dưới - Solomon đáp - Hãy nghĩ đi! Bức hình này không phải là một mê cung ẩn dụ. Nó là một bản đồ.

Và trên bản đồ, mũi tên hướng xuống dưới có nghĩa là…

- Phía Nam, - Langdon giật mình kêu lên.

- Chính xác! - Solomon đáp và cười toe toét vì phấn khởi - Chính Nam! Trên bản đồ, phía dưới là phương nam. Hơn nữa, trên bản đồ, từ Heredom không phải ẩn dụ về thiên đường, mà là một địa danh.

- Thánh điện ư? Ý anh là tấm bản đồ chỉ tới… hướng chính nam của toà nhà này ư?

- Đội ơn Chúa? - Solomon cười vang - Cuối cùng thì cũng thấy ánh bình minh.

Langdon chăm chú nghiên cứu bức hình.

- Nhưng, Peter… cứ cho là anh đúng, thì chính nam của toà nhà này có thể là bất kỳ chỗ nào trên kinh độ chạy dài hơn 38.600 kilomet.

- Không, Robert. Cậu quên mất truyền thuyết rồi, truyền thuyết nói rằng Từ Còn Thiếu được chôn giấu tại Thủ đô nước Mỹ. Như thế quãng đường sẽ được rút ngắn kha khá. Thêm nữa, truyền thuyết cũng cho biết có một hòn đá lớn toạ lạc trên đầu lối vào cầu thang… trên đá khắc một thông điệp bằng ngôn ngữ cổ, như một dạng đánh dấu để những người xứng đáng có thể tìm ra nó.

Langdon cảm thấy khó khăn khi phải coi câu chuyện này là nghiêm tức vả chăng không đủ thông thuộc về Thủ đô để hình dung xem chính nam của địa điểm hiện tại là ở đâu, anh càng chắc chắn rằng không hề có tảng đá chạm khắc nằm trên chốc một cầu thang ngầm.

- Bức thông điệp được khắc trên đá, ngay đây, trước mắt chúng ta - Peter trỏ dòng thứ ba của bức hình - đây là dòng chữ khắc, Robert ạ! Cậu đã giải được câu đố rồi.

Langdon ngơ ngác nhìn bảy biểu tượng.

Giải rồi ư? Langdon không rõ bảy biểu tượng rời rạc này có ý nghĩa gì và anh dám quả quyết rằng chúng không được khắc ở bất kỳ đâu tại thủ đô đặc biệt lại ở một tảng đá nằm trên một cầu thang.

- Peter - anh nói - em không thấy sáng tỏ hơn chút nào cả. Em chẳng biết hòn đá nào ở Thủ đô có khắc… thông điệp này.

Solomon vỗ vai anh.

- Cậu đã đi qua nó mà chưa bao giờ nhìn thấy nó cả. Tất cả chúng ta đều thế. Nó nằm ngay trước mắt, như chính các bí mật. Đêm nay, khi nhìn bảy biểu tượng, tôi lập tức nhận ra truyền thuyết là có thật. Từ Còn Thiếu được chôn giấu tại Thủ đô… và nó thực sự nằm dưới đáy một cầu thang dài bên dưới một tảng đá lớn có khắc chữ.

Langdon vẫn im lặng, hoàn toàn bối rối.

- Robert, tới giờ thì tôi tin cậu đã có quyền để biết sự thật.

Langdon đăm đăm nhìn Peter, cố gắng lý giải những điều vừa nghe.

- Anh sẽ nói cho em biết chỗ chôn Từ Còn Thiếu ư?

- Không, - Solomon nói, và mỉm cười đứng lên - Tôi sẽ chỉ cho cậu.

° ° °

Năm phút sau, Langdon đã ngồi trên băng ghế sau chiếc Escalade, bên cạnh Peter Solomon. Anh đang thắt dây an toàn thì Simkins leo lên tay lái. Sato băng ngang bãi đỗ xe đến chỗ họ. Tới nơi, bà châm điếu thuốc và gọi:

- Ông Solomon! Tôi vừa thực hiện cuộc điện thoại như ông yêu cầu.

- Và? Peter hỏi thêm qua ô cửa sổ mở.

- Tôi ra lệnh cho họ để các ông vào. Phải nhanh nhé.

- Cảm ơn!

Sato chăm chú nhìn ông, vẻ tò mò.

- Tôi phải nói rằng, đó là một đề nghị hết sức kỳ quặc.

Solomon nhún vai một cách bí hiểm.

Sato quay đi, vòng sang phía Langdon và dùng tay gõ cửa.

Langdon hạ kính xuống.

- Giáo sư, - Sato nói, chẳng mảy may thân thiện - Sự hỗ trợ của ông tối nay, cho dù miễn cưỡng, rất quan trọng cho thành công của chúng ta… và vì điều đó, tôi xin cảm ơn ông.

Bà rít một hơi thuốc dài và phả sang bên.

- Tuy nhiên, có một lời khuyên cuối cùng. Lần sau, khi một quan chức cao cấp của CIA bảo ông rằng họ đang gặp vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia… - Mắt bà ánh lên - Thì hãy mặc xác những chuyện vớ vẩn ở Cambridge nhé?

Langdon máy môi, nhưng Giám đốc Inoue Sato đã quay đi và băng qua bãi đỗ xe về phía chiếc trực thăng đang chờ sẵn.

Simkins liếc qua vai, mặt lạnh tanh.

- Các quý ông đã sẵn sàng chưa?

- Thật tình là sắp. - Solomon nói. Ông rút ra một mảnh vải tối màu đã gấp gọn và đưa cho Langdon - Robert, tôi muốn cậu đeo cái này trước khi chúng ta lên đường.

Langdon ngơ ngác xem xét mảnh vải bằng nhung đen. Khi mở nó ra, anh nhận ra đây là dải khăn bịt mắt của Hội Tam điểm, khăn bịt mắt truyền thống dành cho người nhập môn ở cấp độ thứ nhất. Quái quỷ gì vậy.

- Tôi không muốn cậu nhìn thấy chúng ta đi lối nào.

Langdon quay sang Peter.

- Anh muốn bịt mắt em trước khi bắt đầu hành trình à?

Solomon cười.

- Bí mật do tôi tiết lộ, nên phải tuân theo quy tắc của tôi.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 127

Trụ sở CIA ở Langley. Nola Kaye theo chuyên gia an ninh hệ thống Rick Parrish băng qua khoảnh sân giữa đầy ánh trăng, gió lạnh làm cô rùng mình.

Rick đưa mình đi đâu đây?

Họ đã chặn đứng việc phát tán đoạn phim video về Hội Tam điểm, ơn Chúa, nhưng Nola vẫn cảm thấy không an tâm. Tệp tin lọc nội dung tại phân vùng của giám đốc CIA vẫn là một bí ẩn, nó cứ bám riết lấy cô. Sao và cô có cuộc thẩm vấn vào sáng mai, và Nola muốn tìm biết tất cả sự thật. Cuối cùng, cô gọi Rick Parrish, yêu cầu anh ta giúp đỡ.

Giờ đây, theo Rick ra ngoài tới nơi nào chưa rõ, Nola không sao ngăn được những cụm từ kỳ quái cứ gợn lên trong trí:

Vị trí bí mật dưới lòng đất… đâu đó ở Washington D.C., thì toạ độ phát hiện ra một cánh cổng cổ xưa dẫn tới… cảnh báo rằng kim tự tháp chứa đựng những hậu quả nguy hiểm… giải mã cái đồ hình được chạm khắc này để hé mở…

- Chắc cô cũng nhất trí với tôi - Parrish nói trên đường đi - gã hacker truy nguồn mấy từ khoá nọ chắc đang tìm kiếm thông tin về Kim tự tháp Tam điểm.

Hiển nhiên, Nola nghĩ.

- Tuy nhiên, gã ta lại vấp ngay vào một vấn đề liên quan đến bí mật của Hội Tam điểm mà tôi cho rằng gã không lường trước được.

- Ý anh là sao?

- Nola, cô biết giám đốc CIA tài trợ cho một diễn đàn thảo luận nội bộ để các nhân viên của Cục chia sẻ ý tưởng về tất cả mọi thứ chứ?

- Dĩ nhiên.

Trong khi tạo ra một nơi an toàn cho nhân viên Cục Tình báo Trung ương chuyện phiếm trên mạng về đủ loại chủ đề, các diễn đàn cũng đồng thời cung cấp cho giám đốc CIA một loại cổng ảo để chặn chính những nhân viên ấy.

- Các diễn đàn của giám đốc đều nằm trên phân vùng riêng. Để nhân viên ở mọi cấp độ truy cập bình thường, người ta đặt các diễn đàn đó bên ngoài tường lửa mật của giám đốc.

- Ý anh là sao? - Nola gặng hỏi.

Vừa lúc ấy họ vòng qua một góc rẽ gần quán cà phê của Cục, Parrish liền trỏ vào bóng tối:

Nói tóm lại… thì đấy.

Nola ngước nhìn lên. Trước mặt họ, bên kia khoảnh sân, là một tác phẩm điêu khắc kim loại đồ sộ lấp lánh dưới trăng.

Tấm điêu khắc có tên Kryptos này thực tế còn vượt xa những tác phẩm danh tiếng nhất trong số hơn năm trăm tác phẩm nghệ thuật nguyên bản, vốn là niềm tự hào của CIA. Kryptos, có nghĩa là "ẩn giấu" theo tiếng Hy Lạp, là tác phẩm của nghệ thuật gia James Sanborn, nay đã trở thành một huyền thoại tại trụ sở CIA.

Đó là một bảng đồng hình chữ S rất lớn, dựng đứng trên gờ như một bức tường kim loại uốn cong. Bề mặt rộng rãi của nó khắc gần hai nghìn chữ cái sắp xếp thành một bức mật mã rắc rối. Cứ như thể vẫn chưa đủ khó hiểu, người ta còn cẩn thận bố trí nhiều thành tố điêu khắc khác quanh bức tường chữ S đã mã hoá ấy, chẳng hạn mấy phiến đá hoa cương đặt theo những góc độ kỳ quái, một ký hiệu la bàn, một viên đá nam châm, và một bức điện mã Morse nói đến "trí nhớ sáng láng" và "thế lực bóng tối". Hầu hết những người hâm mộ đều tin rằng các thành tố này là đầu mối tiết lộ cách giải mã bức điêu khắc.

Kryptos là nghệ thuật… đồng thời là một ẩn số.

Việc cố gắng phá giải bí mật mã hoá của Kryptos đã, trở thành nỗi ám ảnh đối với giới chuyên gia mật mã cả trong và ngoài CIA, vài năm trước, họ khám phá được phần nào nội dung mật mã, và tạo nên một tin thời sự gây xôn xao cả Liên bang. Đến nay, mặc dù đại bộ phận mật mã của Kryptos vẫn nằm trong vòng bí ẩn, nhưng những phần đã phá giải lại kỳ lạ đến mức khiến bức điêu khắc càng thêm bí hiểm. Nó nhắc đến những địa điểm dưới lòng đất, đến cánh cổng dẫn tới ngôi mộ cổ, đến những kinh độ và vĩ độ…

Nola vẫn còn nhớ nội dung của mấy phần đã được giải mã; Thông tin được thu thập và truyền xuống lòng đất tới một địa điểm chưa biết… Nó hoàn toàn vô hình… sao có thể như vậy… họ sử dụng các từ trường trái đất…

Cô vốn không chú ý lắm đến Kryptos và cũng chẳng quan tâm xem nó đã được giải mã hết hay chưa. Nhưng bây giờ cô muốn có câu trả lời.

- Tại sao anh lại dẫn tôi đi xem Kryptos?

Parrish mỉm cười bí hiểm, và điệu bộ moi trong túi ra một tờ giấy gấp gọn.

- Voilà, tài liệu khó hiểu mà cô quan tâm đấy. Tôi đã truy cập được nội dùng hoàn chỉnh.

Nola nhảy dựng lên.

- Anh chui được vào phân vùng mật của giám đốc à?

- Không. Đó chính là ý tôi định nói lúc nãy. Xem đi! - Anh ta đưa cho cô tờ giấy.

Nola, giật lấy và mở ra xem. Trông thấy dòng tiêu đề CIA ở đầu trang, cô nghiêng đầu ngạc nhiên.

Đây không phải là tài liệu mật. Thậm chí không hạn chế.

KHU THẢO LUẬN CỦA NHÂN ViêN: KRYPTOS

LƯU TRỮ NÉN: MẠCH #2456282.5

Ở đây, cả loạt đầu mục nhập dữ liệu đã được nén vào nguyên một trang giấy để lưu trữ hiệu quả hơn.

- Tài liệu chính của cô - Rick nói - là một dạng mật mã đề cập đến Kryptos.

Nola xem lướt cho tới khi nhận ra một câu cò chứa cụm từ khoá quen thuộc.

Jim, bức điêu khắc cho biết nó đã được truyền tới một

vị trí bí mật DƯỚI LÒNG ĐẤT nơi cất giấu thông tin.

- Văn bản này lấy từ diễn đàn Kryptos trực tuyến của giám đốc, - Rick giải thích - Diễn đàn đã mở được vài năm rồi. Có hàng nghìn đầu mục đưa lên mạng, và tôi không ngạc nhiên khi một trong số đó hình như có chứa tất cả các từ khoá.

Nola lướt tiếp xuống dưới và nhận ra một đầu mục khác có chứa các từ khoá.

Cho dù Mark nói phương vị của mật mã chỉ rõ một

địa điểm đâu đó ở WASHINGTON D.C.: thì toạ độ

anh ấy sử dụng cũng lệch 1 độ - về cơ bản Kryptos

chỉ ra phía sau.

Parrish bước lại gần Kryptos và đưa tay xoa khắp lượt những chữ cái bí ẩn.

Mật mã này hầu như vẫn chưa được phá giải, rất nhiều người nghĩ rằng thông điệp trên đây có thể liên quan đến các bí ẩn cổ xưa của Hội Tam điểm.

Nola sực nhớ lại những lời đồn đại về mối liên hệ giữa Hội Tam điểm và Kryptos. Cô vốn không lưu tâm đến những đối tượng quá khích, song khi nhìn lại các tác phẩm điêu khắc được bố trí quanh toà nhà, cô nhận ra rằng Kryptos chính là một biểu hình, tức một mật mã được chia thành nhiều phần, giống Kim tự tháp Tam điểm.

Kỳ quái.

Chỉ thoáng chốc. Nola nhận ra Kryptos là một Kim tự tháp Tam điểm hiện đại, một mật mã gồm nhiều phần làm bằng các chất liệu khác nhau, mỗi phần đóng một vai trò.

- Anh có cho rằng Kryptos và Kim tự tháp Tam điểm che giấu cùng một bí mật không?

- Chịu! - Parrish nhìn Kryptos vẻ ngán ngẩm - Tôi ngờ rằng chẳng bao giờ chúng ta biết hết toàn bộ thông điệp, trừ phi có ai đó đủ sức thuyết phục giám đốc mở két an toàn của ông ấy và hé lộ lời giải.

Nola gật đầu, sực nhớ lại nhiều chuyện liên quan. Khi dựng công trình điêu khắc này, Sanborn gửi kèm theo nó một phong bì dán kín chứa lời giải hoàn chỉnh cho các mật mã. Giám đốc CIA hồi ấy là William Webster đã tiếp nhận lời giải niêm phong và khoá kín nó trong két an toàn tại văn phòng mình. Bao nhiêu năm qua, chắc chắn tài liệu vẫn nằm nguyên ở đó, được chuyển giao lần lượt từ giám đốc này sang giám đốc khác.

Có điều lạ là, khi nhớ đến William Webster, Nola lại hồi tưởng một phần nội dung đã được giải mã của Kryptos

ĐƯỢC CHÔN LÂU ĐÂU ĐÓ NGOÀI KIA.

AI BIẾT VỊ TRÍ CHÍNH XÁC?

CHỈ CÓ WW.

Chẳng ai rõ cái gì được chôn giấu ngoài kia, nhưng đa số đều tin WW là chỉ William Webster. Mặc dù chưa bao giờ thật sự bận tâm đến câu chuyện, Nola cũng từng nghe đồn rằng thực ra hai chữ viết tắt này ám chỉ William Whiston, chuyên gia thần học của Hiệp hội Hoàng gia.

Rick lại lên tiếng.

- Phải thừa nhận rằng tôi không quan tâm mấy đến giới nghệ sĩ, nhưng tôi nghĩ cái tay Sanborn này quả là một thiên tài. Tôi vừa xem trên mạng dự án Máy chiếu Cyrillic của ông ta. Nó trình chiếu những chữ cái tiếng Nga to tướng lấy từ một tài liệu của KGB về kiểm soát trí não. Quái đản?

Nola không còn lắng nghe nữa. Cô chăm chú xem tờ giấy, và tìm thấy cụm từ khoá thứ ba trong một đầu mục nhập dữ liệu khác.

Phải, toàn bộ phần đó đúng nguyên văn nhật ký

của một nhà kháo cổ học nổi tiếng, kể về lúc ông

đào xuống và phát hiện ra một CÁNH CỔNG

CỔ XƯA dẫn tới mộ Tutankhamen.

Nola biết nhà khảo cổ học được trích dẫn trên Kryptos chính là nhà Ai Cập học lừng danh Howard Carter. Đầu mục nhập dữ liệu tiếp theo nhắc hẳn đến tên ông ấy.

Tôi vừa xem lướt trên mạng phần còn

lại những ghi chép hiện trường của Carter.

Hình như ông ấy đã tìm thấy một thẻ

ất sét cảnh báo rằng KIM TỰ THÁP chứa

đựng những hậu quá nguy hiểm cho bất kỳ

ai phá rối sự bình yên của pharaoh.

Một lời nguyền! Chúng ta có nên lo lắng không nhỉ?

Nola cau mày.

Vì Chúa, Rick, phần nói về kim tự tháp của thằng ngốc này không đúng. Tutankhamen không yên nghỉ trong kim tự tháp. Ông được an táng tại Thung lũng các Vua. Bọn chuyên gia giải mã không xem kênh Discovery à?

Parrish nhún vai.

- Dân kỹ thuật mà.

Nola đọc cụm từ khoá cuối cùng.

Các bạn, các bạn biết tôi không phải

là một nhà lý luận theo thuyết âm mưu,

nhưng Jim và Dave tốt hơn cả là nên giải

mã cái ĐỒ HÌNH ĐƯỢC CHẠM KHẮC

này để hé mở bí mật cuối cùng của nó

trước khi thế giới chấm hết vào năm 2012…

Chào nhé!

- Nói gì thì nói, - Parrish nói - tôi nghĩ cô nên tìm hiểu về diễn đàn Kryptos trước khi buộc tội giám đốc CIA chứa chấp tài liệu mật về một truyền thuyết Tam điểm cổ xưa. Tôi đồ rằng một nhân vật quyền thế như giám đốc CIA không có thời gian dành cho loại công việc đó đâu.

Nola nhớ đến đoạn video về Hội Tam điểm và hình ảnh các, nhân vật có ảnh hưởng tham gia vào nghi lễ cổ xưa. Nếu Rick biết…

Nói cho cùng, cô hiểu, dẫu Kryptos hé mở bất kỳ điều gì thì bức thông điệp cũng đều có những hàm ẩn huyền bí. Cô ngước nhìn tác phẩm nghệ thuật đang toả sáng lấp loá, nhìn bức mật mã ba chiều đứng thầm lặng giữa khuôn viên của một trong những cơ quan tình báo hàng đầu quốc gia, và tự hỏi liệu có bao giờ nó tiết lộ bí mật tối hậu của nó hay không.

Khi cùng Rick quay trở vào trong, Nola không khỏi mỉm cười.

Nó được chôn giấu đâu đó ngoài kia.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 128

Đúng là điên rồ!

Chiếc Escalade phóng vun vút về phía nam, dọc theo đường phố vắng hoe. Robert Langdon bị bịt mắt nên chẳng trông thấy gì. Trên chỗ ngồi bên cạnh anh, Peter Solomon vẫn một mực im lặng.

- Ông ấy đưa mình đi đâu thế nhỉ?

Sự tò mò của Langdon là một dạng pha trộn giữa thích thú và e ngại. Trí tưởng tượng của anh hoạt động ráo riết để cố gắng chắp nối các tình tiết với nhau. Peter vẫn kiên định giữ vững quan điểm của ông. Từ Còn Thiếu? được chôn dưới chân thang, còn trên đầu cầu thang là một tảng đá chạm khắc rất lớn? Nghe thật hoang đường.

Tâm trí Langdon vẫn quan quanh tảng đá khắc… Bảy biểu tượng, theo như anh còn nhớ, chẳng hợp thành ý nghĩa gì cả.

Thước vuông thợ nề, biểu tượng của lòng trung thực và sự thật.

Hai chữ cái Au: ký hiệu hoá học của nguyên tố vàng.

Sigma: chữ cái S trong tiếng Hy Lạp, ký hiệu toán học của tổng các thành phần.

Kim tự tháp: biểu tượng Ai Cập cho người vươn lên thiên đàng.

Delta: chữ cái D trong tiếng Hy Lạp, biểu tượng toán học của sự thay đổi.

Thuỷ ngân: mô tả bằng biểu tượng giả kim cổ nhất của nó.

Hàm vĩ xà: tượng trưng cho chỉnh thể và nhất thể.

Solomon khăng khăng bảo rằng bảy biểu tượng này là một "thông điệp, Nếu đúng thế thì đó là một thông điệp mà Langdon không tài nào đọc được.

Chiếc Escalade đột ngột giảm tốc và ngoặt phải rất gấp, lao lên một bề mặt khác hẳn, như thể vào lối xe chạy hoặc đường dẫn.

Langdon ngẩng mặt, chăm chú lắng nghe xem có nhận biết được mình đang ở đâu không. Xe mới chạy gần mười phút, dù đã cố ngầm theo dõi nhưng anh vẫn mau chóng mất phương hướng. Theo mọi dấu hiệu anh thu nhận được, thì họ đang quay trở về Thánh điện Hội Tam điểm.

Chiếc Escalade dừng lại. Langdon nghe tiếng cửa sổ xe hạ xuống.

- Đặc vụ Simkins, CIA, - tài xế của họ báo danh - Tôi nghĩ chắc anh biết chúng tôi đến.

- Vâng, thưa ông - giọng một quân nhân nhanh nhẹn đáp - Giám đốc Sato đã gọi điện trước. Chờ một chút để tôi bỏ rào chắn an ninh.

Langdon lắng nghe, càng lúc càng bối rối. Anh có cảm giác mình đang tiến vào một căn cứ quân sự. Chiếc xe tiếp tục di chuyển theo một cung đường lượn êm khác thường, Langdon mò mẫm xoay đầu về phía Solomon.

- Chúng ta đang ở đâu thế, Peter? - anh gặng hỏi.

- Chớ gỡ khăn bịt mắt - Giọng Peter kiên quyết.

Chiếc xe tiếp tục chạy một đoạn ngắn và lại giảm tốc để rồi dừng hẳn. Simkins tắt máy. Có thêm vài tiếng nói. Quân nhân. Ai đó đòi xem giấy tờ tuỳ thân của Simkins. Anh chàng đặc vụ chui ra và nói với mấy người kia bằng giọng rất nhỏ.

Cánh cửa bên phía Langdon đột ngột bật mở. Những bàn tay khỏe mạnh giúp anh chui ra khỏi xe. Không khí khá lạnh, gió thổi mạnh.

Solomon đến bên cạnh Langdon.

- Robert, cứ để đặc vụ Simkins dẫn cậu vào trong nhé.

Langdon nghe tiếng chìa kim loại tra vào ổ khoá… sau đó là tiếng ken két khi cánh cửa sắt nặng nề mở ra. Nghe chừng là một gian buồng cũ. Họ đang đưa mình đi chỗ quái nào thế này?

Simkins dắt Langdon về hướng cửa sắt. Họ bước qua ngưỡng cửa.

- Đi thẳng, Giáo sư.

Xung quanh chìm vào tĩnh lặng. Im phăng phắc. Vắng tanh vắng ngắt. Không khí như được khử trùng.

Simkins và Solomon kèm hai bên Langdon, dẫn anh dò dẫm đi xuống một hành lang, âm thanh phát ra ở đây đều có tiếng dội lại.

Qua đế giày mềm. Langdon có cảm giác nền nhà bằng đá.

Anh giật nảy mình khi cánh cửa sắt sập mạnh sau lưng, khoá cũng vào ổ. Mồ hôi rịn ra dưới lớp băng bịt mắt, Langdon chỉ muốn giật tung nó đi.

Rồi họ dừng bước.

Simkins buông tay Langdon. Một tràng bíp bíp điện tử vang lên, tiếp theo là tiếng ầm ầm bất ngờ ở ngay trước mặt, Langdon đoán chắc là một cánh cửa an ninh đang tự động mở ra.

- Ông Solomon, hai ông tự đi tiếp nhé. Tôi sẽ đợi ở đây, - Simkins nói - Cầm lấy đèn pin của tôi này.

- Cảm ơn anh, - Solomon đáp - Chúng tôi sẽ đi nhanh thôi.

Đèn pin à? Tim Langdon bắt đầu đập thình thịch.

Peter nắm lấy cánh tay Langdon và tiến lên phía trước.

- Đi theo tôi nào, Robert.

Họ di chuyển thật chậm qua một ngưỡng cửa khác. Cánh cửa an ninh lại đóng sập phía sau.

Peter dừng chân.

- Có gì không ổn à?

Langdon đột nhiên cảm thấy buồn nôn và mất thăng bằng.

- Em cần tháo bỏ băng bịt mắt.

- Chưa được, chúng ta sắp tới nơi rồi.

- Sắp tới đâu? - Langdon nghe trong dạ mỗi lúc một trĩu nặng.

- Tôi đã bảo là đưa cậu tới chỗ cầu thang dẫn xuống Từ Còn Thiếu mà.

- Peter, không phải chuyện đùa đâu.

- Tôi không đùa. Nó giúp mở mang đau óc cậu đấy, Robert ạ. Nó sẽ nhắc nhở cậu rằng trên đời có rất nhiều bí ẩn mà chính cậu thậm chí chưa hề để mắt tới. Trước khi đi tiếp, tôi muốn nhờ cậu một việc.

- Tôi muốn cậu tin… chỉ một lát thôi… tin vào truyền thuyết. Hãy tin rằng cậu sắp tận mắt nhìn thấy một cầu thang xoáy ốc dài hàng trăm thước chạy sâu xuống một trong những kho báu vĩ đại nhất mà thất lạc đã lâu của nhân loại.

Langdon phát chóng mặt. Anh rất muốn tin người bạn quý của mình, nhưng không thể.

- Còn xa lắm không? - Dải vải nhung bịt mắt đã đẫm mồ hôi.

- Không. Chỉ vài bước chân nữa thôi. Qua cánh cửa cuối cùng. Tôi mở nó ngay đây.

Solomon buông anh ra một lát, thấy người chao đảo, đầu nhẹ hẫng, Langdon loạng choạng quờ tay tìm chỗ bám. Peter nhanh chóng trở lại bên anh. Một cánh cửa tự động nặng nề rít lên trước mặt họ. Peter nắm cánh tay Langdon và tiến lên phía trước.

Đường này.

Họ nhích qua một ngưỡng cửa nữa, và cánh cửa lại đóng kín phía sau.

Lặng yên. Lạnh giá.

Langdon lập tức cảm thấy rằng nơi này, cho dù nó là ở đâu, cũng chẳng hề liên quan đến cái thế giới ở phía bên kia những cánh cửa an ninh. Không khí ẩm ướt và lạnh lẽo như một nấm mồ. Âm thanh vang lên thì trầm trầm và tù túng. Nỗi sợ giam cầm lại trào lên.

- Vài bước chân nữa thôi - Solomon dẫn anh dò dẫm vòng qua một chỗ rẽ và đặt anh đứng thật ngay ngắn. Cuối cùng, ông bảo - Gỡ băng bịt mắt ra.

Langdon túm vội dải băng nhung và dứt tung khỏi mặt mình. Anh nhìn xung quanh để xem mình đang đứng ở đâu, nhưng không nhìn thấy gì cả. Anh dụi mắt. Vẫn mù tịt.

- Peter, tối như hũ nút ấy!

- Phải, tôi biết. Tiến thẳng lên trước. Có lan can đấy. Nắm lấy!

Langdon sờ soạng trong bóng tối và tìm thấy một lan can sắt.

- Giờ nhìn xem!

Peter sờ soạng gì đó, và đột nhiên luồng sáng đèn pin chói loà xuyên qua bóng tối, chiếu xuống nền nhà. Langdon chưa kịp ngó nghiêng xung quanh thì Solomon đã hướng đèn pin ra mé ngoài lan can và rọi thẳng xuống dưới.

Langdon nhìn sững vào đường hầm không đáy vừa hiện ra trước mắt… đó là một cầu thang xoáy vô tận dẫn sâu xuống lòng đất. Lạy Chúa! Đầu gối anh gần như nhũn ra, và anh phải bám chặt lấy lan can. Cầu thang này là loại xoắn trôn ốc truyền thống, trong tầm ánh sáng của ngọn đèn pin, Langdon nhìn thấy ít nhất ba mươi chiếu nghỉ hạ dần xuống lòng đất, chưa kể phần khuất trong bóng tối. Mình không nhìn thấy đáy đâu cả?

- Peter… - anh lắp bắp - Sao lại có nơi như thế này chứ!

- Lát nữa tôi sẽ dẫn cậu xuống đáy cầu thang, nhưng trước đó, cậu cần trông thấy một thứ khác.

Quá choáng váng đến nỗi không phản đối nổi. Langdon để Peter dẫn mình rời khỏi cầu thang và băng qua gian phòng kỳ quái. Peter chĩa đèn pin xuống sàn đá mòn nhẵn dưới chân họ, Langdon không tài nào nhận biết hết không gian xung quanh… ngoại trừ chi tiết là nó rất nhỏ.

Một gian phòng đá bé xíu.

Họ nhanh chóng đi sang bức tường đối diện, trên tường gắn một ô vuông thuỷ tinh. Langdon đoán là ô cửa sổ mở sang căn phòng sát vách, nhưng từ chỗ đứng hiện tại, anh thấy mé bên kia tối mù mù.

- Đi nào, - Peter nói - Xem một chút…

- Có gì ở đó vậy? - Langdon chợt nhớ tới Gian phòng Suy niệm dưới đáy Điện Capitol, nhớ cả việc anh đã tin, dù chỉ nhất thời, rằng nơi đó chứa cánh cổng dẫn tới một cái hang ngầm khổng lồ.

- Xem nhé. Robert - Solomon nhích lên phía trước - Và trụ cho vững, bởi vì cảnh tượng này sẽ khiến cậu sốc đấy.

Chẳng hiểu nổi mình sắp nhìn thấy gì, Langdon tiến về phía ô cửa kính. Khi anh tới gần cánh cổng. Peter tắt đèn pin, khiến cả gian buồng nhỏ bé chìm trong bóng tối hoàn toàn.

Khi mắt đã thích nghi, Langdon bắt đầu sờ soạng, hai tay anh lần tìm bức tường, tìm ô kính, mặt anh nhích lại gần khung cửa trong suốt.

Phía trước vẫn là bóng tối.

- Anh ghé sát hơn nữa… áp hẳn mặt vào kính.

Và anh đã nhìn thấy.

Cơn chấn động và chới với tràn qua người Langdon, chạy suốt vào trong và làm chiếc la bàn nội thể của anh lộn ngược. Anh gần như ngã ngửa khi trí não căng ra để tiếp nhận cảnh tượng bất ngờ ngay trước mắt. Trong những giấc mơ dị thường nhất. Robert Langdon cũng chẳng bao giờ hình dung nổi hiện thực đang nằm ở mé ngoài tấm kính.

Quả là một cảnh tượng tuyệt vời.

Trong bóng tối, một cột sáng trắng rực rỡ toả rạng như món đồ trang sức lộng lẫy.

Langdon đã hiểu ra tất cả: rào chắn trên lối vào… lính gác ở cửa chính… cổng sắt nặng nề bên ngoài… cửa tự động rền rĩ mỗi khi đóng mở… cảm giác nặng trịch trong dạ dày… cảm giác nhẹ hẫng trong đầu… và giờ là một gian phòng bằng đá nhỏ xíu.

- Robert - Peter thì thầm phía sau anh - nhiều khi thay đổi góc độ chính là yếu lĩnh để nhìn thấy ánh sáng.

Không nói lên lời, Langdon sững sờ nhìn qua cửa sổ. ánh mắt anh du ngoạn trong bóng tối của trời đêm, băng qua hơn một dặm đường trong không gian trống trải, rồi hạ thấp xuống… thấp xuống nữa… qua bóng tối… cho tới khi dừng lại trên đỉnh mái vòm màu trắng được chiếu sáng rực rỡ của Điện Capitol.

Chưa bao giờ Langdon ngắm Điện Capitol từ góc độ này. Anh đang lơ lửng trên độ cao 166,5 mét, tại đỉnh cột tháp Ai Cập vĩ đại của nước Mỹ. Đêm nay, lần đầu tiên trong đời, anh theo cầu thang máy lên tới vọng lâu nhỏ xíu… trên đỉnh Đài tưởng niệm Washington.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 129

Robert Langdon đứng trước khuôn cửa thuỷ tinh, ngây ngất chiêm ngưỡng mãnh lực của cảnh quan bên dưới. Được đưa lên cao hàng trăm thước mà không biết trước, giờ đây anh đang ngắm nhìn một trong những khung cảnh ấn tượng nhất từng thấy trong đời.

Mái vòm toả sáng của Điện Capitol nổi bật như một trái núi ở đầu phía đông Công viên Quốc gia. Hai bên toà nhà là hai hàng đèn song song chạy vươn dài về phía anh… Kế đó là phần mặt tiền được chiếu sáng của các bảo tàng Smithsonian - những dấu mốc nghệ thuật, lịch sử khoa học và văn hoá.

Tới giờ, Langdon ngạc nhiên nhận ra rằng rất nhiều điều Peter khẳng định có thật… thì trên thực tế quả là sự thật. Đúng là có một cầu thang xoáy dài hàng trăm thước nằm dưới một tảng đá lớn. Cái chóp khổng lồ của cột tháp đang ngự ngay phía trên đầu anh đây, Langdon sực nhớ ra rằng mình đã quên một chi tiết tầm phào xem chừng có ý nghĩa kỳ lạ trong trường hợp này, đó là: chóp Đài tưởng niệm Washington nặng đúng 3.300 pound 1.

Lại là con số 33.

Gây sửng sốt hơn nữa là chi tiết sau đây: đỉnh cao nhất của chóp, tức thiên đỉnh của cột tháp, có đội một đầu mút bằng nhôm, nhỏ xíu và sáng loáng, vào thời hoàng kim của nó, nhôm là thứ kim loại quý giá chẳng kém gì vàng. Đầu mút sáng chói ấy chỉ cao khoảng 0,3 mét, kích cỡ đúng bằng Kim tự tháp Tam điểm. Kỳ lạ thay, kim tự tháp nhôm này mang một dòng chữ khắc nổi tiếng: Laus Deo. Langdon đột nhiên hiểu ra. Đây chinh là bức thông điệp đích thực của phần đế kim tự tháp đá.

Bảy biểu tượng là một hình thức chuyển tựl

Một dạng mật mã đơn giản nhất.

Các biểu tượng ám chỉ những chữ cái.

Thước vuông thợ nề - L

Nguyên tố vàng – AU

Chữ cái Hy Lạp Sigma = S

chữ cái Hy Lạp Delta – D

Thuỷ ngân giả kim – E

Hàm vĩ xà - O

- Laus Deo, - Langdon thì thầm. Cụm từ tiếng Latin nổi tiếng này mang nghĩa "đội ơn Chúa", được khắc trên đầu mút Đài tưởng niệm Washington bằng những chữ cái viết tay chỉ cao khoảng 2,5 centimet. Hiện ra trọn vẹn, nhưng chẳng ai nhìn thấy.

Laus Deo.

- Đội ơn Chúa. - Giọng Peter vang lên đằng sau Langdon. Ông bật đèn sáng trong buồng - Mật mã cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm.

Langdon quay lại, người bạn của anh đang cười rạng rỡ. Langdon chợt nhớ Peter đã nhắc đến cụm từ "đội ơn Chúa" từ trước, lúc còn ở trong thư viện Tam điểm. Mà mình vẫn không để ý.

Langdon phát ớn lạnh khi nhận ra Kim tự tháp Tam điểm huyền thoại đã khéo léo dẫn anh tới đây, tới cột tháp vĩ đại của nước Mỹ, biểu tượng của tri thức bí mật cổ xưa đang vươn lên trời cao ở ngay trái tim đất nước.

Với tâm trạng thảng thốt, Langdon bắt đầu di chuyển ngược chiều kim đồng hồ quanh gian phòng vuông nhỏ xíu để rời sang cửa sổ khác.

Phía bắc.

Qua ô cửa mở ra hướng bắc, Langdon chăm chú ngắm đường nét quen thuộc của toà Bạch Ốc. Anh đưa mắt về phía chân trời, phố 16 như một đường thẳng chạy lên chính bắc về phía Thánh điện Hội Tam điểm.

Mình ở chính nam của Heredom.

Anh tiếp tục đi quanh gian phòng tới cửa sổ tiếp theo. Nhìn sang hướng tây, mắt Langdon lướt theo chiều dài bể nước hình chữ nhật ở Đài tưởng niệm Lincoln, công trình này xây dựng theo phong cách kiến trúc Hy Lạp cổ điển, lấy cảm hứng từ đền Parthenon ở Athens. Parthenon là đền thờ Athena - nữ thần của những chiến công oai hùng.

Annuit Coeptis 2 Langdon nghĩ. Chúa ủng hộ chiến công của chúng ta.

Tiếp tục đi tới cửa sổ cuối cùng, Langdon phóng ánh mắt về phía nam, ngang qua vùng nước tối om của Tidal Basin sang Đài tưởng niệm Jefferson toả sáng rực rỡ trong đêm. Đỉnh vòm thoai thoải bên ấy lấy theo mẫu đền Pantheon, ngôi nhà nguyên thuỷ của các vị thần La Mã vĩ đại trong truyền thuyết.

Quan sát xong cả bốn mặt, Langdon nghĩ đến những bức không ảnh chụp Công viên Quốc gia mà anh từng xem, bốn "cánh tay" của nó toả ra từ Đài tưởng niệm Washington và chạy về bốn hướng.

Mình đang đứng ngay giao lộ của nước Mỹ.

Langdon vòng trở lại chỗ Peter. Người bạn vong niên của anh cười tươi.

- Chà, Robert, nó đây. Từ Còn Thiếu. Đây là nơi nó được chôn giấu. Kim tự tháp Tam điểm đã dẫn chúng ta tới đây.

Langdon sực tỉnh. Anh đã thấy tất cả nhưng lại quên mất Từ Còn Thiếu.

- Robert, tôi biết không còn ai đáng tin cậy hơn cậu. Sau một đêm như đêm nay, tôi tin rằng cậu xứng đáng được biết tất cả mọi chuyện. Đúng như lời hứa hẹn trong truyền thuyết, Từ Còn Thiếu quả thực được chôn dưới đáy một cầu thang xoáy - ông ra hiệu về phía cửa cầu thang của đài tưởng niệm.

Cuối cùng Langdon cũng trở về với thực tại, nhưng lòng anh ngập tràn băn khoăn.

Peter nhanh nhẹn thò tay vào túi và rút ra một món đồ nhỏ.

- Cậu còn nhớ thứ này không?

Langdon đón lấy cái hộp mà Peter gửi gắm cho anh nhiều năm về trước.

- Có nhưng em sợ rằng mình đã không hoàn thành trách nhiệm bảo vệ nó.

Solomon cười.

- Hẳn đã đến lúc cho nó nhìn thấy ánh sáng ban ngày rồi.

Langdon ngắm hộp đá, không hiểu tại sao Peter lại trao nó cho anh.

- Đối với cậu thứ này trông giống cái gì? - Peter hỏi.

Langdon nhìn ký hiệu 1514 và lục lại ấn tượng đầu tiên của mình khi Katherine mở gói bọc ra.

- Một viên đá đặt móng.

- Chính xác - Peter xác nhận - Về đá đặt móng, có vài điểm chắc cậu còn chưa rõ. Thứ nhất, khái niệm đặt đá móng bắt nguồn từ Kinh Cựu ước.

Langdon gật đầu.

- Thánh thi.

- Rất đúng. Một viên đá đặt móng đích thực luôn được chôn dưới nền, tượng trưng cho bước đầu tiên đưa toà nhà lên ánh sáng thiên đường.

Langdon liếc ra phía Điện Capitol, hòn đá đặt móng của toà nhà ấy được chôn sâu đến mức tới nay các cuộc khai quật cũng không sao tìm ra nó.

- Thứ hai - Solomon nói - cũng như cái hộp trên tay cậu, nhiều viên đá đặt móng là những gian hầm nho nhỏ, có khoang rỗng để cất giữ các vật báu bí mật. Nếu muốn, cậu có thể gọi chúng là những lá bùa. Chúng tượng trưng cho niềm hy vọng về tương lai của toà nhà sắp xây dựng.

Langdon biết rất rõ truyền thống này. Ngày nay. Hội Tam điểm vẫn đặt những viên đá móng rỗng ruột chứa các đồ vật có ý nghĩa như hộp thời gian, ảnh chụp, tuyên ngôn, thậm chí là tro xương của các yếu nhân.

- Tôi nói cho cậu biết điều này là có mục đích rất rõ ràng - Solomon vừa nói vừa đưa mắt về phía cầu thang.

- Anh nghĩ Từ Còn Thiếu được chôn trong viên đá móng của Đài tưởng niệm Washington à?

- Tôi không nghĩ, Robert ạ. Tôi biết rõ. Từ Còn Thiếu được chôn trong viên đá móng của đài tưởng niệm này vào ngày 4 tháng Bảy năm 1848, trong một nghi lễ Tam điểm hoàn chỉnh.

Langdon đăm đăm nhìn ông.

- Các bậc tiền bối Tam điểm đã chôn một từ à?

Peter gật đầu.

- Đúng vậy. Họ hiểu sức mạnh đích thực của thứ họ chôn giấu.

Suốt buổi tối, Langdon đã cố bắt tâm trí mình làm quen với nhiều khái niệm lộn xộn, cao siêu… Nào là Bí ẩn cổ xưa, Từ Còn Thiếu, các bí mật của thời đại. Song anh muốn một thứ chắc chắn hơn. Mặc dù Peter khẳng định chìa khoá của vấn đề cất trong một viên đá móng nằm sâu dưới đất, cách họ 166.5 mét. Langdon vẫn thấy khó lòng chấp nhận giả thuyết này. Con người dành cả đời nghiên cứu các bí mật, nhưng cuối cùng vẫn không tiếp cận được sức mạnh họ tưởng là cất giấu trong đó. Langdon vụt nhớ lại bức Melencolia I của Durer, tác phẩm miêu tả một hiền nhân chán chường giữa ngổn ngang các công cụ của những nỗ lực bất thành nhằm khai mở bí mật về thuật giả kim. Chúng ta có thể khám phá nhiều bí mật, nhưng không bao giờ tìm được tất cả các bí mật ấy ở cùng một nguồn.

Langdon luôn tin rằng, câu trả lời, nằm rải rác khắp thế giới trong hàng nghìn cuốn sách, được mã hoá trong những trước tác của Pythagoras, Hermes, Heraclitus, Paracelsus và hàng trăm tác giả khác. Câu trả lời bị lãng quên dưới lớp bụi mờ trong những bộ sách về giả kim, thuyết thần bí, ma thuật và triết học. Câu trả lời ẩn náu trong thư viện cổ Alexandria, trên những thẻ đất sét của người Sumer và chữ tượng hình của người Ai Cập.

- Peter, xin lỗi anh - Langdon khẽ nói và lắc lắc đầu - Để hiểu được những Bí ẩn cổ xưa thì phải mất cả đời. Em không hình dung nổi một từ thì làm sao chứa được chiếc chìa khoá giải đáp mọi điều.

Peter đặt tay lên vai Langdon.

- Robert. Từ Còn Thiếu không phải là một từ đâu - ông mỉm cười hiền hậu - Chúng ta gọi nó là "Từ ngữ" chỉ bởi đó là cách gọi của người cổ đại… lúc ban đầu.

--- ------ ------ ------ -------

1 Cũng giống như đơn vị foot đã có chú thích ở các phần trước, chi hết này liên quan đến nội dung nên người dịch phải giữ nguyên đơn vị pound, không đổi sang kilogram như ở các chi tiết khác. Nguyên tác là "thirty-three hundred pounds", nhằm nhấn mạnh con số "33".

2 Annuit coeptis là một trong hai khẩu hiệu bằng tiếng Latin ở mặt trái của Quốc ấn Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Nghĩa đen của nó là "Ngài chấp thuận chiến công của chúng ta".
 

hoahongden12

Active Member

Lúc bắt đầu là Từ ngữ.

Đức cha Galloway quỳ bên cây Thập giá lớn của Đại Giáo đường Quốc gia và cầu nguyện cho nước Mỹ. Ông cầu mong đất nước mến yêu này sẽ sớm nắm bắt được sức mạnh đích thực của Từ ngữ. Từ ngữ là tập hợp tri thức của tất cả các bậc thầy thời cổ đại được trình bày lại dưới dạng văn bản, là bài giảng của các hiền triết vĩ đại về chân lý tinh thần.

Lịch sử ban cho nhân loại nhiều vị tông sư vô cùng thông tuệ, chẳng hạn Phật tổ, Jesus, Muhammad, Zoroaster và vô số người khác. Họ là những linh hồn được khai sáng mà kiến thức về bí ẩn tinh thần và trí óc vượt xa mọi sự hiểu biết. Trong suốt tiến trình lịch sử, luận thuyết quý giá của các nhà thông thái ấy được truyền vào những mạch máu cổ xưa nhất và quý giá nhất, đó là sách vở.

Mọi nền văn hoá trên trái đất đều có cuốn sách thiêng của riêng mình, người ta gọi nó là Từ. Mỗi Từ mỗi khác, lại mỗi giống. Với tín đồ Thiên Chúa giáo, Từ ngữ là Kinh thánh, với người Hồi giáo là kinh Koran, với người Do Thái là Torah, với người Hindu là kinh Vệ Đà… vân vân.

Từ ngữ sẽ soi sáng con đường.

Với những bậc tiền nhân Tam điểm của nước Mỹ, Từ ngữ chính là Kinh thánh, song trước giờ rất ít người thấu hiểu bức thông điệp đích thực trong nó.

Đêm nay, quỳ một mình nơi Đại Giáo đường. Galloway đặt hai tay lên Từ - cuốn Kinh thánh Tam điểm sờn rách của ông. Giống như tất cả các cuốn Kinh thánh Tam điểm khác, cuốn sách quý báu này chứa cả kinh Cựu ước, kinh Tân ước, và những văn bản giá trị về triết lý Tam điểm.

Tuy không đọc được nữa, nhưng Galloway vẫn nhớ nằm lòng phần mở đầu. Bức thông điệp tuyệt vời này từng vang lên bằng vô số ngôn ngữ trên thế giới, qua giọng hàng triệu huynh đệ của ông.

Lời văn như sau:

THỜI GIAN LÀ MộT DÒNG SÔNG. SÁCH VỞ LÀ NHỮNG CON THUYỀN. NHIỀU CUỐN SÁCH XUÔI THEO DÒNG SÔNG ẤY CHỈ ĐỂ BỊ ĐÁNH ĐẮM VÀ MAI MộT KHÔNG AI NHỚ ĐẾN TRONG LỚP CÁT. CÒN MỘT SỐ ÍT, RẤT ÍT, CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC THỬ THÁCH VÀ SỐNG ĐỂ BAN PHÚC CHO CÁC THẾ HỆ TIẾP THEO.

Có một lý do khiến cho những cuốn sách này tồn tại, trong khi số khác thì biến mất. Là một học giả giàu đức tin, Cha Galloway luôn lấy làm lạ là những văn bản tinh thần cổ xưa, những cuốn sách được nghiên cứu nhiều nhất trên trái đất trên thực tế lại ít được hiểu rõ nhất.

Giữa những trang sách này, còn ẩn chứa một bí mật diệu kỳ.

Một ngày nào đó không xa, ánh sáng sẽ toả rạng, và cuối cùng nhân loại cũng sẽ bắt đầu nắm bắt chân lý đơn giản nhưng mang tính biến cải trong những lời dạy cổ xưa, và tạo được bước nhảy vọt trên con đường tìm hiểu bản chất cao quý của chính mình.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 131

Cầu thang xoáy chạy dọc theo xương sống Đài tưởng niệm Washington gồm 896 bậc đá xoáy tròn quanh một đường thông của thang máy. Langdon và Solomon đang đi xuống. Tâm trí Langdon vẫn miên man về sự thật gây sửng sốt mà Peter vừa chia sẻ với anh:

Robert, các bậc tiền bối đã đặt một cuốn Từ - Kinh thánh - vào lòng viên đá móng của đài tưởng niêm này. Nó đang chờ đợi trong bóng tối dưới chân cầu thang.

Trên đường đi xuống, Peter bất thần dừng lại ở một chiếu nghỉ và quét đèn pin lên, soi tỏ một tấm huy chương bằng đá rất lớn gắn trên tường.

Cái gì thế nhỉ? Langdon giật nảy mình khi nhìn thay tác phẩm đó.

Trong tấm huy chương, một nhân vật bận tà áo choàng rất khủng khiếp đang cầm lưỡi hái quỳ bên cạnh một chiếc đồng hồ cát. Nhân vật ấy giơ tay, với ngón trỏ duỗi ra, chỉ thẳng tới một cuốn Kinh thánh mở rộng như muốn nói: "Câu trả lời nằm ở đây!"

Langdon chăm chú nhìn bức chạm rồi quay sang Peter.

Đôi mắt người bạn vong niên ánh lên bí hiểm.

- Tôi muốn cậu xem xét vài điều, Robert ạ - Giọng ông vang vọng trong giếng cầu thang trống rỗng - Theo cậu, vì sao Kinh thánh tồn tại được qua hàng nghìn năm lịch sử đầy biến động? Vì sao nó vẫn hiện hữu? Phải chăng những câu chuyện của nó quá hấp dẫn? Dĩ nhiên là không… nhưng có một lý do khác. Có một lý do khiến các giáo sĩ Thiên Chúa giáo dành cả đời cố giải mã Kinh thánh. Có một lý do khiến các thuật sĩ Do Thái và Kabbalah miệt mài với Kinh Cựu ước Và lý do đó, Robert ạ, là có những bí mật rất hùng mạnh ẩn giấu trong các trang của cuốn sách cổ này, có một tập hợp tri thức nguyên vẹn đang chờ khám phá.

Langdon không lạ gì luận thuyết cho rằng Kinh thánh chứa đựng một tầng nghĩa bí mật, một thông điệp được giấu kín bằng phúng dụ, biểu tượng và những lời ngụ ý.

- Các nhà tiên tri cảnh báo chúng ta - Peter nói tiếp - rằng ngôn ngữ họ dùng để chia sẻ bí mật là thứ ngôn ngữ khó hiểu. Phúc âm Mark nói: "Các ngươi sẽ được biết điều bí mật thông qua hàm ngôn". Sách Cách ngôn cũng lưu ý rằng lời lẽ của các bậc trí giả là "những câu đố", dân Corin thì hé lộ về một thứ "tri thức ẩn kín". Phúc âm John dự báo: "Ta sẽ trao đổi với các con bằng ngụ ý… và dùng hắc ngôn.

Hắc ngôn. Langdon lầm bầm, nhớ lại rằng cụm từ lạ lùng này đã tạo ra vô khối câu kỳ quặc trong sách Cách ngôn cũng như Thánh thi 78. Ta sẽ mở miệng bằng ngụ ý và diễn đạt bằng hắc ngôn cổ. Khái niệm "hắc ngôn", theo như Langdon biết, không đồng nghĩa với "xấu xa", ý nghĩa thực sự của nó là được che giấu hoặc không rõ ràng.

- Nếu cậu còn nghi hoặc - Peter nói thêm - thì hãy nhớ dân Corin đã công khai dặn chúng ta rằng hàm ngôn có hai tầng nghĩa: "sữa cho trẻ sơ sinh và thịt cho người lớn" trong đó sữa là thứ kiến thức loãng toẹt dành cho những bộ óc ấu trĩ, còn thịt là thông điệp đích thực dành riêng cho những trí tuệ trưởng thành.

Peter lại nâng đèn pin lên, soi vào bức chạm khắc nhân vật mặc áo choàng đang trỏ lên Kinh thánh.

- Tôi biết cậu là người hoài nghi, Robert ạ, nhưng hãy xem tác phẩm này. Nếu Kinh thánh không chứa ý nghĩa ẩn giấu thì tại sao lại có nhiều bộ óc xuất sắc nhất của lịch sử, kể cả các nhà khoa học lỗi lạc thuộc Hiệp hội Hoàng gia, bị ám ảnh với việc nghiên cứu nó đến vậy? Chính Isaac Newton đã viết hơn một triệu từ để cố gắng giải mã ý nghĩa đích thực của Kinh thánh, bản viết tay năm 1704 cho biết ông đã hiểu ra thông tin khoa học ẩn giấu trong Kinh thánh!

Langdon thừa nhận điều này hoàn toàn đúng.

- Còn Tử tước Francis Bacon - Peter nói tiếp - một nhân vật đầy uy tín được Vua James vời đến để biên soạn Kinh thánh Vua James, lại quả quyết rằng Kinh thánh chứa đựng nhiều ý nghĩa khó hiểu, ông đã ghi chép chúng dưới dạng mật mã của riêng ông, mật mã ấy hiện vẫn đang được nghiên cứu? Dĩ nhiên, cậu biết đấy, Bacon là một hội viên Thập tự Hoa hồng, là người chấp bút cuốn Trí tuệ của cổ nhân - ông mỉm cười - Thậm chí nhà thơ bài trừ thánh tượng William Blake cũng gợi ý rằng chúng ta nên đọc kỹ.

Langdon khá quen thuộc với mấy câu thơ:

DÙ ĐỌC KINH THÁNH CẢ NGÀY LẪN ĐÊM,

NHƯNG BẠN ĐỌC THẤY ĐEN CÒN TÔI ĐỌC LẠI TRẮNG.

- Không chỉ các danh nhân châu Âu thôi đâu - Peter tiếp tục, bước xuống nhanh hơn - Chính ở đây, Robert ạ, ngay tại trung tâm của nước Mỹ trẻ trung này, các tiền nhân sáng suốt nhất của chúng ta như John Adams, Ben Franklin, Thomas Paine… đều cảnh báo về những nguy hiểm tiềm tàng của việc diễn giải Kinh thánh thuần tuý theo nghĩa đen. Trên thực tế, chính Thomas Jefferson là người tin vào thông điệp đích thực được giấu kín của Kinh Thánh đến mức ông đã cắt rời từng trang và biên tập lại cuốn sách, một hành động mà theo lời ông là "cố gắng gỡ bỏ cái cốt nhân tạo và phục hồi học thuyết đích thực".

Langdon biết rất rõ câu chuyện lạ lùng này. Cuốn Kinh thánh Jefferson hiện vẫn được in ấn và chứa đựng nhiều nội dung sửa đổi gây tranh cãi, trong đó có cả việc loại bỏ chi tiết trinh nữ hoài thai và phục sinh. Thật lạ là, suốt nửa đầu thế kỷ XIX, Kinh thánh Jefferson từng được đem tặng cho tất cả các thành viên của Quốc hội.

- Peter, anh thừa biết là chủ đề này rất hấp dẫn đối với em. Em có thể hiểu được rằng các bộ óc sáng láng bị cám dỗ với ý tưởng Kinh thánh chứa đựng nhiều tầng nghĩa, nhưng em thấy nó không hề logic. Bất kỳ giáo sư có trình độ nào cũng sẽ nói với anh rằng không bao giờ họ dạy học bằng mật mã cả.

- Tôi chưa hiểu?

Công việc của giáo viên là giảng dạy, Peter ạ. Bọn em nói một cách công khai. Tại sao các nhà tiên tri, những bậc thầy vĩ đại nhất trong lịch sử, phải che giấu ngôn ngữ của họ? Nếu muốn thay đổi thế giới, tại sao họ lại dùng mật mã? Sao không nói thẳng ra để cả thế giới dễ lĩnh hội?

Chân vẫn bước xuống, Peter ngoái nhìn qua vai, vẻ khá ngạc nhiên vì câu hỏi.

- Robert, Kinh thánh không trình bày công khai là bởi cùng nguyên nhân khiến các trường phái Bí ẩn cổ xưa phải ẩn tích, khiến người nhập đạo phải khai tâm trước khi học hỏi những kiến thức bí mật của mọi thời đại, khiến các nhà khoa học thuộc Hiệp hội hoàng gia từ chối chia sẻ kiến thức của họ với những người khác. Thông tin này rất nhiều quyền năng, Robert ạ. Không thể oang oang rao giảng về những bí ẩn cổ xưa cho khắp bàn, dân thiên hạ được. Bí mật là bó đuốc đang rực cháy, mà, nếu nằm trong tay một bậc thầy, có thể soi sáng đường đi, nhưng nếu nằm trong tay một kẻ tâm thần, có thể thiêu rụi cả trái đất.

Langdon dừng phắt lại. Ông ấy nói gì thế nhỉ?

- Peter, em đang đề cập đến Kinh thánh cơ mà. Tại sao anh lại kéo Bí mật cổ xưa vào đây?

Peter quay nhìn lại.

- Robert, cậu vẫn chưa hiểu ư? Bí mật cổ xưa và Kinh thánh là một thôi.

Langdon sững sờ.

Peter im lặng vài giây, đợi cho Langdon thâm thấu được ý niệm vừa rồi.

- Kinh thánh là một trong những cuốn sách mà qua đó, bí ẩn được truyền lại cho các thế hệ. Từng trang của nó đều cố gắng hé mở bí mật cho chúng ta. Cậu không hiểu sao? "Hắc ngôn", trong Kinh thánh là những lời thì thầm của cổ nhân, lặng lẽ chia sẻ với chúng ta nguồn tri thức bí mật của họ.

Langdon chẳng nói chẳng rằng. Bí mật cổ xưa, theo như anh hiểu, là một loại cẩm nang hướng dẫn cách khai thác sức mạnh tiềm tàng của trí tuệ con người - một công thức cho quá trình trở thành thần thánh của cá nhân. Anh chưa bao giờ công nhận sức mạnh cửa những bí ẩn đó, và càng không thể tiếp thu được ý tưởng Kinh thánh chứa đựng chiếc chìa khoá khai mở chúng.

- Peter ạ? Kinh thánh và Bí ẩn cổ xưa hoàn toàn đối lập nhau. Các Bí ẩn đều quả quyết chân chúa ở ngay bên trong chúng ta, qua đó khẳng định tư cách thần thánh của con người. Còn Kinh thánh chỉ nói về đức Chúa bên trên chúng ta, và con người là sinh vật tội lỗi bất lực.

- Phải? Rất chính xác! Cậu đã tiếp cận đúng vấn đề rồi đấy! Thời điểm con người tách bản thân ra khỏi Chúa, thì ý nghĩa đích thực của Từ đã biến mất. Tiếng nói của các bậc thầy trước kia giờ đây bị chìm lấp thất lạc giữa tiếng la ó lộn xộn của những kẻ tu tập tự phong luôn huênh hoang rằng chỉ riêng họ hiểu được Từ… rằng Từ được viết bằng ngôn ngữ của họ chứ không của ai hết.

Peter tiếp tục đi xuống cầu thang.

- Robert, chúng ta đều biết rằng cổ nhân sẽ vô cùng kinh hãi nếu chứng kiến tri thức của mình bị xuyên tạc, thấy tôn giáo trở thành một thứ nhà tù của thiên đường, thấy các chiến binh xung trận với niềm tin rằng Chúa ủng hộ họ. Chúng ta đã để mất Từ, nhưng ý nghĩa đích thực của nó thì vẫn vẹn nguyên, ngay trước mắt chúng ta. Nó tồn tại trong tất cả các văn bản lâu đời, từ Kinh Thánh, Bhagavad Gita, đến kinh Koran và nhiều thứ khác nữa. Những văn bản này đều được tôn kính trên bàn thờ của Hội Tam điểm, bởi Hội thấu hiểu những điều mà thế giới dường như đã lãng quên… rằng mỗi văn bản này, bằng cách riêng của nó, đang âm thầm chuyển tải cùng một thông điệp - Giọng Peter lạc đi vì xúc động - "Các ngươi không biết mình là thần thánh ư?"

Langdon chững lại, nhớ ra rằng câu ngạn ngữ cổ nổi tiếng này đã xuất hiện vài lần trong buổi tối nay. Anh từng chỉ trích nó trong lúc trò chuyện với Galloway và cả khi cố gắng giải thích bức Sự phong thánh của Washington ở Điện Capitol.

Peter hạ giọng gần như thì thào.

- Đức Phật dạy "Chúng sinh là Phật sẽ thành". Đức Jesus dạy rằng Vương quốc của Chúa ở ngay bên trong các con,, thậm chí còn hứa hẹn với chúng ta "Những gì ta làm được, các con cũng làm được, và còn vĩ đại hơn". Ngay cả vị Giáo hoàng đối cử đầu tiên. Thánh tử đạo Hippolytus của thành Rome, cũng trích dẫn chính thông điệp ấy từ miệng vị thầy ngộ đạo Monoimus: "Hãy thôi tìm kiếm Chúa, thay vào đó, hãy bắt đầu từ chính mình".

Langdon vụt nhớ lại chiếc ghế bành ở Thánh điện Hội Tam điểm, mặt trước lưng tựa có khắc hai từ chỉ dẫn: BIẾT MÌNH.

- Một trí giả từng nói với tôi rằng - giọng Peter nhẹ hẫng - sự khác nhau duy nhất giữa chúng ta và Chúa là chúng ta quên mất mình rất siêu phàm.

- Peter, em đang nghe anh nói đây, em nghe đây. Thực lòng em cũng muốn tin rằng chúng ta chính là thần linh, nhưng em không gặp vị thần nào ngao du trên mặt đất này, cũng không thấy bậc siêu nhân nào cả. Anh có thể nói đến những phép lạ của Kinh Thánh, hoặc bất kỳ văn bản tôn giáo nào khác, nhưng ý nghĩa của chúng chỉ giới hạn ở những câu chuyện cổ xưa do con người biên soạn và phóng đại qua thời gian.

- Có lẽ vậy - Peter nói - Hoặc có lẽ chúng ta chỉ cần khoa học của mình bắt kịp với tri thức của cổ nhân - ông dừng lại - Rất ngộ là… tôi tin nghiên cứu của Katherine đang sẵn sàng để thực hiện việc đó.

Langdon chợt nhớ rằng Katherine đã vội vã rời khỏi Thánh điện.

- A cô ấy đi đâu rồi nhỉ?

- Lát nữa cô ấy sẽ sang đây - Peter cười nói - Cô ấy đi xác nhận một vận may tuyệt vời.

° ° °

Bên ngoài, dưới chân đài tưởng niệm, Peter Solomon hít thở làn không khí lành lạnh ban đêm và cảm thấy như được tiếp thêm sinh lực ông thích thú theo dõi Langdon, anh đang dán mắt xuống đất, gãi đầu gãi tai và ngó quanh quất dưới chân cột tháp.

- Giáo sư - Peter đùa vui - hòn đá đặt móng chứa cuốn Kinh Thánh nằm ở trong lòng đất cơ. Thực tế là cậu không thể tiếp cận cuốn sách, nhưng tôi cam đoan với cậu rằng nó ở đó.

- Em tin mà - Langdon nói, vẻ đang theo đuổi một suy nghĩ nào đó Chỉ hiềm… em chú ý đến một điều.

Anh bước lùi lại và xem xét quảng trường rộng lớn, nơi dựng Đài tưởng niệm Washington. Khu vực bùng binh hình tròn này lát toàn đá trắng, ngoại trừ hai hàng gạch trang trí bằng đá đen, tạo thành hai vòng tròn đồng tâm xung quanh đài tưởng niệm.

- Một vòng tròn bên trong một vòng tròn - Langdon trầm ngâm - Em chưa bao giờ nhận ra Đài tưởng niệm Washington lại đứng chính giữa một vòng tròn bên trong một vòng tròn.

Peter phì cười. Anh chàng này không bỏ sót điều gì cả.

- Phải, một bàn huyền điểm khống lồ… biểu tượng phổ thông của Chúa ngay tại giao lộ nước Mỹ - ông nhún vai - Tôi chắc đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Langdon dường như đang nghĩ ngợi đẩu đâu. Anh đưa mắt nhìn lướt lên, dọc theo ngọn tháp được chiếu sáng rực, toả ra thứ hào quang màu trắng tương phản với bầu trời đêm đen đặc mùa đông.

Peter cảm thấy Langdon bắt đầu nhận ra bản chất thực sự của Công trình này, nó là một lời nhắc nhở thầm lặng về tri thức cổ xưa, là biểu tượng của con người được khai sáng ở nơi trái tim của một đất nước vĩ đại. Mặc dù không thể nhìn thấy đầu mút bằng nhôm bé xíu trên đỉnh tháp, nhưng ông biết nó vẫn nằm ở đó, như bộ óc được khai sáng của con người đang hướng lên trời.

Lau Deo.

- Peter? - Langdon tiến lại, trông y như người vừa trải qua một hình thức khai tâm bí truyền - Suýt nữa thì em quên.

Nói đoạn, anh thò tay vào túi lấy chiếc nhẫn vàng Tam điểm của Peter.

- Suốt từ chập tối em đã muốn trả cái này cho anh.

- Cảm ơn cậu, Robert - Peter chìa tay trái ra nhận chiếc nhẫn và ngắm nghía nó - Cậu biết đấy, tất cả những bí mật và bí ẩn xung quanh chiếc nhẫn này và Kim tự tháp Tam điểm đã gây ảnh hưởng lớn đối với cuộc đời tôi. Hồi tôi còn trẻ, kim tự tháp đã hứa hẹn với tôi rằng nó đang mang trong mình bao nhiêu bí mật. Sự tồn tại của nó khiến tôi tin rằng trên thế giới có những điều huyền bí lớn lao. Nó khêu gợi trí tò mò, tiếp sức tìm tòi và mang lại cho tôi cảm hứng để mở mang đầu óc trước những Bí mật cổ xưa - ông mỉm cười lặng lẽ và thả chiếc nhẫn vào túi - Giờ tôi nhận ra rằng mục đích thực sự của Kim tự tháp Tam điểm không phải hé mở câu trả lời, mà là truyền sự đam mê đối với những câu trả lời ấy.

Hai người đàn ông đứng lặng một lúc lâu dưới chân đài tưởng niệm.

Cuối cùng, Langdon lên tiếng, giọng anh khá nghiêm túc.

- Mong anh giúp em một việc, Peter… như một người bạn.

- Dĩ nhiên rồi. Bất kỳ điều gì.

Langdon đưa ra một đề nghị, rất dứt khoát.

Solomon gật đầu, hiểu rằng đề nghị đó hoàn toàn hữu lý.

- Tôi sẽ làm.

- Ngay bây giờ - Langdon nói thêm, ra hiệu về phía chiếc Escalade đang đợi sẵn.

- Được nhưng có một điều báo trước.

Langdon đảo mắt, cười.

- Kiểu gì thì anh cũng "chốt hạ" mà.

- Phải, và có một điều cuối cùng tôi muốn cậu và Katherine biết.

- Lúc này ư? - Langdon xem đồng hồ.

Solomon mỉm một nụ cười ấm áp với người bạn cũ.

- Đó là kho báu ấn tượng nhất của Washington. Rất, rất ít người từng trông thấy nó.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 132

Lòng nhẹ nhõm, Katherine Solomon hăm hở leo lên đồi, tiến về phía Đài tưởng niệm Washington. Đêm nay cô đã chịu đựng những cú sốc và bi kịch nặng nề, nhưng lúc này, dù tạm thời, suy nghĩ của cô lại tập trung vào thông tin tuyệt vời mà Peter báo lúc trước, và cô vừa tận mắt xác nhận.

Nghiên cứu của mình vẫn an toàn. Toàn bộ.

Các ổ đĩa sao lưu tại phòng thí nghiệm đã bị phá huỷ hồi tối, nhưng vừa rồi tại Thánh điện Hội Tam điểm, Peter lại báo với cô rằng ông đã bí mật giữ phần sao lưu toàn bộ nghiên cứu Lý trí học của cô trong văn phòng điều hành SMSC. Em biết là anh rất quan tâm đến công việc của em, ông giải thích, và anh muốn theo dõi tiến bộ của em mà không làm phiền em.

- Katherine? - một giọng nói trầm trầm vang lên.

Katherine ngước mắt nhìn.

Một bóng người lẻ loi đứng dưới chân đài tưởng niệm sáng trưng.

- Robert! - Katherine chạy vội tới và ôm chầm lấy Langdon.

- Anh nghe được một tin vui, - Langdon thì thầm - Chắc là em nhẹ cả người.

Giọng cô run run vì xúc động.

- Quá tuyệt vời.

Nghiên cứu mà Peter lưu giữ được là một thành tựu khoa học, một tập hợp đồ sộ các thí nghiệm chứng minh tư duy con người là một sức mạnh có thật và định lượng được. Những thí nghiệm của Katherine đã chứng minh ảnh hưởng của tư duy con người lên mọi thứ từ các tinh thể băng đến những cỗ máy tạo biến cố ngẫu nhiên và chuyển động của các phân tử hạ nguyên tử. Kết quả rất thuyết phục và không thể phủ nhận được, có khả năng biến những người hoài nghi thành những người đầy tin tưởng và tác động đến cả ý thức của toàn thế giới trên một quy mô cực lớn.

- Mọi thứ sẽ thay đổi, Robert ạ. Mọi thứ.

- Chắc chắn Peter cũng nghĩ như vậy.

Katherine liếc quanh để tìm anh trai mình.

- Anh ấy tới bệnh viện rồi - Langdon nói - Anh vừa nài nỉ anh ấy tới đó coi như giúp anh một việc.

Katherine thở phào nhẹ nhõm.

- Cảm ơn anh.

- Anh ấy dặn anh đợi em ở đây.

Katherine gật đầu, ngước mắt lên cột tháp màu trắng đang toả sáng.

- Peter nói sẽ đưa anh tới đây. Có gì đó về Laus Deo ư? Anh ấy không nói rõ với em.

Langdon mỉm cười mỏi mệt.

- Anh không chắc mình đã hoàn toàn hiểu chưa - Anh ngước nhìn đỉnh đài tưởng niệm - Tối nay anh trai em nói khá nhiều điều mà anh không thể nắm bắt hết được.

- Để em đoán xem nào, - Katherine nói - Bí mật cổ xưa này, khoa học này, và cả Kinh thánh nữa phải không?

- Hết sảy!

- Xin mời anh đến với thế giới của em - Katherine nháy mắt - Peter dẫn dắt em vào lĩnh vực này khá lâu rồi. Nó truyền cảm hứng cho rất nhiều nghiên cứu của em.

- Về trực giác, có vài điều anh ấy nói rất có ý nghĩa - Langdon lắc đầu - Nhưng về mặt tri thức…

Katherine mỉm cười và vòng tay ôm lấy anh.

- Anh biết không, Robert, em có thể giúp anh chuyện đó.

° ° °

Sâu bên trong Điện Capitol, Kiến trúc sư Warren Bellamy đang bước dọc theo một hành lang vắng vẻ.

Chỉ còn lại một việc phải làm tối nay, ông nghĩ thầm.

Về đến văn phòng mình, ông lấy trong ngăn kéo bàn một chiếc chìa khoá cũ kỹ. Chiếc chìa khoá bằng sắt đen, dài và thanh mảnh với những dấu vết đã mờ. Ông bỏ nó vào túi và sau đó sửa soạn chào đón các vị khách của mình.

Robert Langdon và Katherine Solomon đang trên đường tới Điện Capitol. Theo đề nghị của Peter, Bellamy sẽ cho họ một cơ hội rất hiếm hoi, cơ hội tận mắt nhin thấy bí mật tuyệt vời nhất của toà nhà này, một điều chỉ Kiến trúc sư mới tiết lộ được.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 133

Tít trên trần Nhà tròn Điện Capitol, Robert Langdon lo lắng nhích từng bước quanh lối đi vòng cung nhô ra ngay bên dưới vòm trần. Anh ngập ngừng nhìn qua lan can và cảm thấy chóng mặt vì độ cao. Thật không sao tin nổi rằng mới mười tiếng trôi đi kể từ lúc bàn tay Peter xuất hiện ở chính giữa nền nhà bên dưới. Cũng tại nền nhà đó lúc này là Kiến trúc sư Điện Capitol, trông chỉ như một đốm nhỏ xíu khi nhìn từ độ cao 54 mét. Bellamy khoan thai băng ngang qua Nhà tròn và biến mất. Ông vừa hộ tống Langdon và Katherine lên đến ban công này, để họ lại đây với những chỉ dẫn rất cụ thể.

Chỉ dẫn của Peter.

Langdon xem xét chiếc chìa khoá sắt cũ kỹ mà Bellamy vừa đưa, đoạn liếc cái giếng cầu thang tù túng từ đây chạy lên cao, và cao hơn nữa. Xin Chúa giúp con! Theo lời Kiến trúc sư, những bậc thang chật hẹp này dẫn tới một cánh cửa thép nhỏ, chiếc chìa khoá sắt sẽ mở được cánh cửa đó. Đằng sau cửa có một thứ mà Peter nhấn mạnh rằng Langdon và Katherine nên xem. Ông không giải thích cụ thể, chỉ để lại lời hướng dẫn tỉ mỉ liên quan đến thời điểm chính xác mở khoá cánh cửa ấy. Phải đợi mới được mở cửa cơ à? Tại sao thế nhỉ?

Langdon lại xem đồng hồ và lầm bầm.

Thả chiếc chìa khoá vào túi, anh nhìn qua khoảng không trước mặt sang bên kia ban công. Katherine đi trước, chẳng hề lộ vẻ sợ sệt và rõ ràng là không ngại độ cao. Giờ cô đã băng qua một nửa quãng đường, đang ngắm nghía từng li từng tí bức tranh Sự phong thánh của Washington ngay phía trên đầu họ. Từ vị trí thuận lợi này, có thể quan sát rõ ràng các nhân vật cao tới 4,5 mét trên diện tích vòm trần rộng gần 465 mét vuông.

Langdon xoay lưng lại Katherine, quay mặt ra bức tường mé ngoài và thì thầm rất khẽ:

- Katherine, lương tâm của em đang lên tiếng đây. Tại sao em lại bỏ mặc Robert chứ?

Rõ ràng là Katherine rất quen thuộc với đặc điểm âm thanh kỳ lạ của mái vòm, bởi vì bức tường lập tức dội âm trở lại.

- Bởi vì Robert nhát như cáy. Anh ấy nên tiến lên đây với em. Từ bây giờ đến lúc được phép mở cánh cửa đó, thời gian còn rất rộng dài.

Biết rằng Katherine nói đúng, Langdon miễn cưỡng đi vòng theo ban công, vừa đi vừa bám lấy bức tường.

- Trần nhà thật kỳ lạ - Katherine nhận xét, cố dưới lên để chiêm ngưỡng toàn bộ vẻ lộng lẫy của bức Sự phong thánh - Thần linh trong truyền thuyết xen lẫn với các nhà phát minh khoa học cùng những sáng tạo của họ… Mà nó lại là hình ảnh ở trung tâm Điện Capitol nữa chứ…

Langdon đưa mắt nhìn Franklin, Fulton, và Morse đang đứng bên các sáng chế công nghệ. Một chiếc cầu vồng sáng rực vươn ra từ nhóm này, dẫn ánh mắt anh tới chỗ George Washington đang cười mây bay lên thiên đường. Hình ảnh hứa hẹn rằng con người sẽ trớ thành Thần thánh.

Katherine tiếp:

- Cứ như thể bản chất của những Bí ẩn cổ xưa đều đang lơ lửng ngay trên trần Nhà tròn vậy.

Langdon cũng phải thừa nhận, trên thế giới chẳng có mấy bức bích hoạ kết hợp giữa sáng chế khoa học với thần linh trong truyền thuyết hay quá trình trở thành thần thánh của con người. Thực ra, toàn cảnh đầy ấn tượng trên trần nhà này là một thông điệp về những Bí ẩn cổ xưa, và nó hiện diện tại đây là có lý do của nó. Các bậc tiền bối lập quốc nhìn nhận nước Mỹ như một tấm toan còn nguyên vẹn, một cánh đồng màu mỡ có thể gieo nhiều hạt mầm bí mật. Ngày nay, hình tượng cao vời mô tả cảnh cha đẻ của đất nước đang bay lên thiên đường vẫn âm thầm bao trùm lên các nhà làm luật, các nhà lãnh đạo và các vị tổng thống… như lời nhắc nhở mạnh mẽ, như tấm bản đồ hướng tới tương lai, như lời hứa hẹn về một thời đại mà con người sẽ tiến hoá để hoàn thiện quá trình trưởng thành về mặt tinh thần.

- Robert, - Katherine thì thầm, mắt vẫn dán chặt vào hình ảnh các nhà phát minh vĩ đại của nước Mỹ đang đứng bên cạnh thần Minerva. - Bức tranh này thật có tính tiên tri: Ngày nay, các sáng chế tiên tiến nhất của con người vẫn đang được dùng để nghiên cứu những ý tưởng cổ xưa nhất của chính họ. Lý trí học có lẽ còn mới mẻ, nhưng thực tế nó lại là môn khoa học lâu đời nhất trên trái đất, chuyên nghiên cứu suy nghĩ của con người.

Cô quay lại phía Langdon, mắt ánh lên kinh ngạc.

- Cổ nhân hiểu về tư duy còn sâu sắc hơn chúng ta hiện nay nhiều.

- Đúng đấy - Langdon đáp - Trí tuệ con người là công nghệ duy nhất mà cổ nhân có trong tay. Các triết gia cố đại đã nghiên cứu nó không mệt mỏi.

- Phải! Các tài liệu xa xưa đều trăn trở về sức mạnh của tư duy con người. Kinh Vệ Đà miêu tả dòng năng lượng tư duy. Cuốn Phúc âm đối thoại Pistis Sophia 1 đề cập đến ý thức vũ trụ. Zohar khám phá bản chất của tinh thần trí tuệ. Các văn bản của trường phái. Shaman thì tiên tri được cả thuyết "ảnh hưởng từ xa" của Einstein khi ghi chép về cách chữa bệnh không tiếp xúc. Cái gì cũng có! Đấy là em còn chưa nói đến Kinh thánh.

- Lại cả em nữa sao? - Langdon bật cười - Peter đã cố thuyết phục anh rằng Kinh thánh chứa những thông tin khoa học được mã hoá.

- Chắc chắn là thế - Katherine khẳng định - Nếu anh không tin Peter, hãy đọc một số tài liệu riêng của Newton về Kinh thánh. Khi bắt đầu lĩnh ngộ nội dung bí ẩn trong đó, anh sẽ nhận ra nó đúng là một công trình nghiên cứu về tư duy con người.

Langdon nhún vai.

- Thế thì tốt hơn là anh nên quay ngay về và đọc lại.

- Để em hỏi anh một chuyện - Katherine nói, rõ ràng là không hài lòng với thái độ hoài nghi của Langdon - Khi Kinh thánh dạy "hãy xây đền thờ của các con"… hãy "xây dựng mà không dùng công cụ và không gây ra tiếng ồn", anh nghĩ nó đang nói về ngôi đền nào vậy?

- Chà, theo sách thì ngôi đền đó là cơ thể chúng ta.

- Phải, Corin 3:16. Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Thánh linh - Katherine mỉm cười - Phúc âm John cũng nói đúng những điều ấy. Robert ạ, Kinh thánh hiểu rất rõ sức mạnh tiềm ẩn trong con người, và nó giục giã chúng ta phát huy sức mạnh ấy, thôi thúc chúng ta xây dựng những ngôi đền của tư duy.

- Tiếc thật, anh lại nghĩ nhiều đến việc thế giới tôn giáo cần xây dựng một đền thờ thực sự. Đó là một phần Lời Tiên tri Cứu thế.

- Phải, nhưng Lời Tiên tri bỏ sót một điểm quan trọng. Ngày Thiên Chúa tái lâm chính là lúc con người xuất hiện, là thời điểm nhân loại xây nên đền thờ tư duy của mình.

- Anh không biết - Langdon xoa cằm - Anh không phải là một học giả chuyên về Kinh thánh, nhưng anh dám chắc rằng ngôi đền cần xây được mô tả chi tiết trong Kinh thánh là một đền thờ vật chất. Kết cấu của nó gồm hai phần: đền thờ bên ngoài gọi là Thánh địa và điện thờ bên trong gọi là Vương cung thánh đường. Hai phần tách biệt với nhau bởi một tấm rèm mỏng.

Katherine cười tươi.

- Luôn hoài nghi Kinh thánh mà nhớ được như thế thì quả là tài. Nhân tiện, anh đã bao giờ trông thấy một bộ não người thực sự chưa? Nó cũng gồm hai phần: phần bên ngoài gọi là màng cứng và phần bên trong gọi là màng mềm. Hai phần tách biệt với nhau nhờ màng nhện, đây là một tấm rèm giống như cái lưới.

Langdon nghiêng đầu ngạc nhiên.

Rất nhẹ nhàng, Katherine tiến lại gần và khẽ chạm vào thái dương anh.

- Người ta có lý do riêng để gọi đây là thánh đường 2, Robert ạ.

Trong lúc cố gắng phân tích những điều Katherine vừa nói, Langdon bất ngờ nhớ lại Phúc âm Mary Magdalene về sự ngộ đạo:

Trí tuệ của các ngươi ở đâu, thì kho tàng nằm ở đó.

Katherine nhẹ nhàng nói:

- Có lẽ anh chàng từng nghe đến chuyện chụp cắt lớp não của các nhà Du già khi họ ngồi thiền nhỉ? Khi bộ não con người ở trong trạng thái tập trung cao độ, về mặt vật lý, tuyến yên sẽ sản sinh ra một chất giống như sáp. Quá trình tiết não này không giống bất kỳ quá trình nào khác trong cơ thể. Nó có tác dụng chữa bệnh phi thường, có thể tái tạo tế bào, và có lẽ là một trong những nguyên nhân giúp các nhà Du già sống lâu đến vậy. Đây là khoa học thực sự, Robert ạ. Chất này có những thuộc tính kỳ lạ và chỉ sinh ra khi tư duy ở trạng thái tập trung cực sâu.

- Hình như anh đọc tin ấy cách đây vài năm.

- Ừ, nhân nói về chủ đề này. anh có nhớ phần "lộc trời" trong Kinh thánh không?

Langdon ngơ ngác, chưa hiểu sự liên hệ nằm ở đâu.

- Ý em là cái chất diệu kỳ từ trên trời rơi xuống để cứu giúp những người chết đói ấy hả?

- Chính xác. Chất đó chữa lành bệnh cho người ốm, đem lại sự sống vĩnh hằng, và kỳ lạ hơn nữa là vào trong cơ thể rồi thì không đào thải ra qua đường bài tiết nữa - Katherine ngừng lời, như muốn cho Langdon thời gian lĩnh hội. Rồi cô thúc anh - Robert! Một loại thực phẩm từ trên trời rơi xuống - Cô gõ vào thái dương mình - Có phép lạ chữa lành bệnh tật, lại không chuyển hoá thành chất bã. Anh không hiểu sao? Đây là những ngôn từ mã hoá. Robert ạ! Đền thờ là mã hoá của "cơ thể". Thiên đường là mã hoá của "tư duy". Chiếc thang của Jacob là cột sống. Còn lộc trời là quá trình tiết não rất hiếm hoi kể trên. Khi gặp các ngôn từ mã hoá này trong Kinh thánh, hãy chú ý. Chúng thường là vỏ ngoài của nhiều lớp nghĩa thâm thuý hơn.

Katherine hào hứng tuôn một tràng liên tu bất tận, kể rằng chất kỳ diệu này đã xuất hiện trong tất cả các Bí ẩn cổ xưa như Quỳnh tương, Tiên đan, Suối nguồn tươi trẻ, Hòn đá triết học, thức ăn của thần thánh, cam lồ, khí lực, phần sinh dưỡng. Sau đó, cô chuyển sang giải thích tuyến yên của não người đại diện cho Thấu nhãn của Chúa.

Theo Phúc âm Matthew 6:22, "Nếu mắt ngươi sáng sủa thì thân thể ngươi sẽ sáng láng theo". Khái niệm này được biểu hiện bằng chakra Ajnai 3 và nốt ruồi trên trán tín đồ Hindu giáo, qua đó…

Đang sôi nổi nói, Katherine chợt ngừng một thoáng, vẻ bẽn lẽn.

- Xin lỗi… em biết mình hơi huyên thiên, song em vừa nhận thấy vấn đề này rất thú vị. Đã nhiều năm qua, em nghiên cứu nhận định của cổ nhân về sức mạnh tinh thần vĩ đại của con người, và giờ đây khoa học đang chứng tỏ rằng tiếp cận sức mạnh đó là một quá trình vật chất thật sự. Nếu được sử dụng đúng đắn, não chúng ta có thể phát huy tiềm lực siêu nhân theo đúng nghĩa đen. Kinh thánh, cũng như nhiều văn bản cổ, đã phân tích chi tiết về một cỗ máy phức tạp nhất trên đời, ấy là tư duy con người - Cô thở dài - Không thể tưởng được là khoa học chỉ mới chạm tới bề mặt của trí tuệ nhân loại mà thôi.

- Nghe chừng nghiên cứu về Lý trí học của em sẽ đạt được bước nhảy vọt đấy.

- Cũng có thể phải thụt lùi, - Katherine nói - Cổ nhân đã nắm vững rất nhiều chân lý khoa học mà giờ đây chúng ta đang tái khám phá. Chỉ vài năm nữa thôi, con người hiện đại sẽ buộc phải chấp nhận những điều mà hiện nay họ còn chưa có khả năng nghĩ tới, đó là: tư duy của chúng ta có thể tạo ra năng lượng để biến cải vật chất - Cô ngập ngừng - Các phân tử phản ứng lại với những suy nghĩ của chúng ta, điều đó đồng nghĩa với việc suy nghĩ của chúng ta đủ sức mạnh làm thay đổi thế giới.

Langdon chỉ cười.

- Nghiên cứu khiến em phải tin vào điều này Chúa có thật, Chúa là nguồn năng lượng tinh thần lan toả lên mọi thứ, và chúng ta, những con người, được tạo ra theo hình ảnh đó…

- Xin lỗi! - Langdon xen vào - Được tạo ra theo hình ảnh của… nguồn năng lượng tinh thần ư?

- Chính xác. Cơ thể vật chất của chúng ta biến đổi theo năm tháng, nhưng tư duy lại mô phỏng đúng như hình ảnh của Chúa. Loài người toàn đọc Kinh thánh theo nghĩa đen. Chúa tạo ra chúng ta theo hình ảnh của ngài thật, nhưng không phải hình ảnh vật chất mà là hình ảnh tư duy kia.

Langdon im lặng, chú ý lắng nghe.

- Đây là món quà rất lớn, Robert ạ, và Chúa đang đợi chúng ta hiểu điều đó. Trên khắp thế giới, loài người cứ ngước lên nhìn trời, chờ đợi Chúa, mà chẳng bao giờ nhận ra rằng Chúa đang đợi chúng ta - Katherine dừng lại, để lời nói của mình thấm vào người nghe - Chúng ta là đấng sáng tạo, nhưng chúng ta cứ ngây thơ đóng vai trò "sản phẩm". Chúng ta tự coi mình là bầy chiên vô dụng do vị Chúa sáng tạo chăn dắt. Chúng ta quỳ rạp như đám con cái sợ hãi, cầu xin giúp đỡ, xin tha thứ, xin ban phước lành. Nhưng một khi nhận ra rằng mình thực sự được hình thành theo khuôn mẫu của Đấng Sáng tạo chúng ta sẽ hiểu ra bản thân cũng phải là những Đấng Sáng tạo. Khi con người thấu hiểu chân lý đó, những cánh cửa sẽ mở toang cho tiềm năng của họ.

Langdon nhớ lại một đoạn văn cứ đeo đẳng anh, trích từ tác phẩm của triết gia Manly P. Hall: Giá như Thương đế đừng kỳ vọng con người thông minh thì Ngài đã không phải ban cho họ khả năng hiểu biết. Langdon lại ngước nhìn bức tranh Sự phong thánh của Washington, một điển hình về sự vươn lên thành thần. Kẻ bị sáng tạo, trở thành Đấng Sáng tạo.

- Phần đáng ngạc nhiên nhất - Katherine nói - là ở chỗ chừng nào con người bắt đầu khai thác được sức mạnh đích thực của bản thân thì họ sẽ kiểm soát được thế giới, sẽ hoạch định được thực tại chứ không chỉ phản ứng lại nó.

Langdon nhìn xuống.

- Chuyện đó nghe… nguy hiểm quá.

Katherine hơi giật mình, và tỏ ra thán phục.

- Ừ, rất đúng! Nếu tư duy tác động lên thế giới thì chúng ta phải rất cẩn thận với luồng suy nghĩ của mình. Những suy nghĩ có hại sẽ gây ảnh hưởng xấu. Ai nấy đều biết phá huỷ dễ dàng hơn xây dựng nhiều.

Langdon nghĩ đến ý thức về sự cần thiết phải bảo vệ tri thức cổ trước những kẻ không xứng đáng và chỉ đem nó chia sẻ với những người được khai sáng, nghĩ đến Hiệp hội Hoàng gia, nhớ lại lời Isaac Newton đề nghị Robert Boyle phải "hết sức giữ im lặng, về nghiên cứu bí mật của họ, đừng truyền bá nó", Newton viết vào năm 1676, kẻo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến thế giới.

- Có một chi tiết pha trộn thú vị ở đây, - Katherine nói - Điều hài hước là nhiều thế kỷ nay, mọi tôn giáo trên thế giới đều thúc giục tín đồ của mình nắm bắt các khái niệm về tín điều và niềm tin. Khoa học vốn chế giễu tôn giáo là mê tín, nay lại phải thừa nhận rằng mặt trận lớn tiếp theo của mình chính là khoa học tín điều và niềm tin… sức mạnh của sự hội tụ giữa tin tưởng và ý định. Khoa học vốn làm xói mòn niềm tin của chúng ta vào những điều kỳ diệu, nay lại bắc cây cầu ngang qua vực thẳm mà nó tạo ra.

Langdon nghe và cân nhắc những lời ấy một lúc lâu. Anh chậm rãi đưa mắt lên bức Sự phong thánh lần nữa, rồi quay lại Katherine:

- Anh có một câu hỏi. Cứ cho rằng anh chấp nhận, dù chỉ trong khoảnh khắc, rằng anh có sức mạnh thay đổi được vật chất bằng tư duy của mình, và bộc lộ mọi ao ước… Nhưng mà chẳng điều gì trong đời khiến anh tin mình gom đủ sức mạnh như thế.

Katherine nhún vai.

- Vậy là do anh nhìn nhận chưa nghiêm túc.

- Thôi nào, đó là câu trả lời của một thầy tu. Anh muốn có một câu trả lời thực sự, một câu trả lời của nhà khoa học kia.

- Anh muốn có một câu trả lời thật sự à? Thì nó đây thôi. Giả sử em đưa cho anh một cây vĩ cầm và bảo anh có khả năng sử dụng nó để tạo ra âm nhạc tuyệt vời, thì tức là em đang nói sự thật. Anh thật sự có khả năng ấy, nhưng anh sẽ phải tập luyện rất nhiều mới thể hiện được. Điều này tương tự với học cách sử dụng tư duy, Robert ạ. Phải rèn luyện thì mới hình thành được kỹ năng suy nghĩ có định hướng. Để thể hiện một ý định thì cần phải tập trung cao độ cảm nhận hoàn toàn bằng hình ảnh, và tin tưởng sâu sắc. Chúng ta đã chứng minh được điều này trong phòng thí nghiệm. Tương tự chơi vĩ cầm, có những người thể hiện khả năng thiên bẩm xuất sắc hơn hẳn những người khác. Hãy nhìn lại lịch sử. Hãy nhìn lại câu chuyện về những trí tuệ khai sáng đã làm nên nhiều điều kỳ diệu.

- Katherine, đừng nói với anh rằng em thật sự tin vào những phép màu nhé. Chẳng hạn, nói một cách nghiêm túc, có thể biến nước thành rượu vang hay chữa bệnh bằng cách chạm tay ư?

Katherine hít một hơi dài và từ từ thở ra.

- Em đã chứng kiến người ta biến tế bào ung thư thành tế bào khỏe mạnh chỉ đơn giản bằng cách nghĩ về chúng. Em đã chứng kiến tư duy con người ảnh hưởng đến thế giới vật chất bằng vô số cách, và một khi anh nhìn thấy điều đó xảy ra, Robert ạ, khi nàơ điều này trở thành một phần thực tế của anh, thì những phép màu mà anh từng nghe nói đến sẽ chỉ đơn giản là vấn đề mức độ mà thôi.

Langdon trầm ngâm.

- Đó là một cách nhìn nhận thế giới đầy cảm hứng. Katherine ạ, nhưng với anh, nó chỉ như một bước nhảy không thể thực hiện của tín điều. Và em biết đấy, anh không quen chấp nhận tín điều một cách dễ dàng đâu.

- Vậy đừng coi nó như tín điều. Hãy nghĩ đơn giản là nó đang làm thay đổi tầm nhìn của anh, hãy chấp nhận rằng thế giới không hoàn toàn như anh nghĩ. Về mặt lịch sử, mọi đột phá khoa học chủ yếu đều bắt đầu từ một ý tưởng giản dị luôn đe doạ lật nhào toàn bộ niềm tin của chúng ta. Người ta từng chỉ trích luận điểm giản dị trái đất hình tròn, bởi tin rằng điều đó không thể là sự thật, vì các đại dương sẽ chảy tuột khỏi hành tình ngay. Thuyết nhật tâm từng bị xem là dị giáo. Những tư duy hèn kém luôn tìm cách bôi nhọ mọi điều họ không hiểu. Có người sáng tạo… lại có những người phá hoại. Hiện thực đó thời nào cũng diễn ra. Nhưng cuối cùng phe sáng tạo sẽ tìm được tín đồ của mình, số lượng tín đồ sẽ tăng lên mạnh mẽ, và đột nhiên thế giới trở thành hình tròn, hoặc hệ mặt trời trở thành trung tâm. Quan niệm biến cải, và một thực tế mới ra đời.

Langdon gật đầu, dòng suy tư bỗng trở nên lan man.

- Mặt anh ngộ lắm - Katherine nói.

- Ồ anh không biết nữa. Chẳng hiểu vì cơn cớ gì, tự dưng anh nhớ lại lần mình đi ca nô ra giữa hồ nước vào lúc đêm muộn, nằm dưới trời sao và nghĩ về những việc như thế này.

Katherine gật đầu vẻ thấu hiểu.

- Mọi người đều có ký ức liên tưởng. Giữa việc nằm ngửa ngắm bầu trời và… mở mang trí tuệ - Cô ngẩng nhìn trần nhà rồi bảo Langdon - Cho em mượn áo khoác của anh.

- Sao cơ? - Anh cởi áo đưa cho cô.

Katherine gấp áo làm bốn và đặt xuống hành lang như một chiếc gối dài.

- Hãy nằm xuống đây.

Langdon nằm ngửa ra. Katherine chỉnh đầu anh dịch sang một nửa cái áo khoác gấp. Sau đó cô nằm xuống bên cạnh. Hai con người, vai kề vai trên hành lang hẹp, đăm đăm nhìn lên bức bích hoạ khổng lồ của Brumidi.

- Được rồi - Katherine thì thầm - Hãy đặt mình vào những bối cảnh - tư duy tương tự… một đứa trẻ nằm dài trên ca nô… nhìn lên các vì sao… tâm trí rộng mở và chan chứa nhiều điều kỳ diệu.

Langdon cố gắng tuân theo, mặc dù vừa duỗi người ra, anh đột nhiên cảm thấy kiệt sức. Mắt bỗng nhoà đi, rồi anh sực tỉnh vì nhận ra một hình dạng câm lặng trên trần. Có lẽ đâu thế? Không hiểu sao trước đây anh chẳng mảy may chú ý đến sự thực là các nhân vật trong bức Sự phong thánh của Washington rõ ràng được bố trí thành hai vòng tròn đồng tâm - một vòng tròn bên tròng một vòng tròn. Bức Sự phong thánh cũng là một bàn huyền điểm ư? Langdon tự hỏi không biết tối nay anh còn bỏ sót những gì.

- Có một chuyện quan trọng em muốn nói với anh, Robert. Còn một chi tiết nữa về tất cả sự việc… một chi tiết thuộc loại kỳ diệu nhất trong các nghiên cứu của em.

Vẫn còn nữa ư?

Katherine chống khuỷu tay nhổm dậy.

- Và em đảm bảo… nếu con người biết nắm bắt chân lý đơn giản này… thì thế giới sẽ thay đổi chỉ sau một đêm.

Langdon tập trung chú ý.

- Có lẽ em nên bắt đầu bằng cách nhắc anh câu thần chú của Hội Tam điểm, đó là "thu thập những thứ tản mát"… để lập lại "trật tự từ trong hỗn loạn"… để tìm ra "nhất thể".

- Em nói tiếp đi - Langdon hào hứng giục.

Katherine mỉm cười nhìn xuống anh.

- Về khoa học, chúng ta đã chứng minh được rằng sức mạnh của tư duy con người tăng lên theo đường cong hàm mũ với các tư duy cùng luồng.

Langdon vẫn im lặng, tự hỏi Katherine định đi đến đâu với ý tưởng này.

- Ý em là, hai bộ óc sẽ tốt hơn một, và không chỉ tốt gấp đôi mà gấp nhiều, nhiều lần. Càng nhiều tư duy cộng hưởng thì hiệu ứng của một suy nghĩ càng tăng mạnh theo đường cong hàm mũ. Đây là sức mạnh vốn có của các nhóm cầu nguyện, các vòng tròn chữa bệnh, của việc hát đồng thanh, và của việc thờ cúng tập thể. Ý tưởng về ý thức vũ trụ không phải là một khái niệm của Kỷ nguyên Mới. Nó là một thực tế khoa học cốt lõi, và việc nắm bắt nó kéo theo tiềm năng biến cải thế giới chúng ta. Đây là phát hiện cơ bản của Lý trí học. Thêm nữa, nó đang xảy ra ngay lúc này. Anh có thể cảm nhận được nó ở quanh anh. Công nghệ đang liên kết chúng ta bằng những phương thức chưa bao giờ chúng ta hình dung được: Twitter 4, Google, Wikipedia, và nhiều thứ khác, tất cả hoà trộn để tạo ra một mạng lưới những bộ óc kết nối với nhau - Cô cười vang - Và em bảo đảm với anh, ngay khi em công bố công trình của mình, cư dân Twitter sẽ tới tấp tweet "học Lý trí học" và môn khoa học này sẽ gây nên một trào lưu quan tâm mạnh mẽ.

Langdon thấy mí mắt nặng trĩu.

- Em biết đấy anh vẫn chưa học được cách gửi một twitter.

- Một tweet 5- Katherine đính chính và bật cười.

- Anh không hiểu?

- Không sao. Hãy nhắm mắt lại. Em sẽ đánh thức anh khi đến giờ.

Langdon nhận ra anh đã có tất cả nhưng lại quên mất chiếc chìa khoá cũ mà Kiến trúc sư đưa cho, và quên mất tại sao họ lại mò lên tận đây. Một cơn mệt mỏi mới xâm chiếm lấy anh, Langdon nhắm mắt lại. Trong bóng tối tư duy. anh thấy mình đang nghĩ về ý thức vũ trụ, về những bài viết của Plato xoay quanh "tư duy thế giới" và "tập hợp Chúa trời"… về "vô thức tập thể" của Jung. Khái niệm ấy đơn giản đến kinh ngạc.

Người ta tìm thấy Chúa ở tập hợp Nhiều người, chứ không phải chỉ trong Một người.

- Elohim - Langdon bật thốt, anh mở bừng mắt vì nhớ đến một mối liên hệ bất ngờ.

- Sao cơ? - Katherine vẫn chăm chú nhìn xuống anh.

- Elohim - Langdon nhắc lại - Từ ngữ trong tiếng Do Thái cổ để chỉ Chúa trời trong Kinh Cựu ước! Anh đã luôn băn khoăn về nó.

Katherine mỉm cười.

- Đúng. Từ ấy là số nhiều.

Chính xác! Langdon chưa bao giờ hiểu tại sao những đoạn đầu tiên của Kinh thánh lại nói đến Chúa như một thực thể số nhiều. Elohim. Đấng Toàn năng trong Sáng thế ký được mô tả không phải như Một… mà là Nhiều.

- Chúa là số nhiều - Katherine thì thầm - bởi vì những bộ óc của con người là số nhiều.

Dòng suy tưởng của Langdon bắt đầu quay tròn… những giấc mơ, những ký ức, những hy vọng, những sợ hãi, những phát hiện… tất cả cuộn xoáy phía trên anh trong vòm Nhà tròn. Khi nhắm mắt lại, anh thấy mình đang nhìn ba chữ cái tiếng Latin vẽ trên bức Sự phong thánh.

E PLURIBUS UNUM.

- Một, trong rất nhiều - anh nghĩ thầm, và chìm vào giấc ngủ.

--- ------ ------ ------ -------

1 Pistis Sophia (Đức tin trí huệ) là quyển Phúc âm lớn nhất từng được tìm thấy được mang từ Ai Cập tới London và được A. Askew, một bác sĩ kiêm chuyên gia sưu tầm tài liệu cổ mua vào năm 1772.

Nhiều cuộc đàm thoại hấp dẫn giữa Chúa và những đồng tư được ghi lại trong tài liệu này, dài khoảng 11 năm! Quyển Pistis Sophia cũng gồm nhiều bản thánh ca hay và lời cầu nguyện. Đặc biệt, Pistis Sophia đề cập đến thuyết luân hồi, với mục đích giải thoát linh hồn ra khỏi những trói buộc của vật chất, khỏi bánh xe luân hồi. Sự vô minh về thế giới tâm linh được thay thế bằng sự tự do về tâm linh và linh hồn được ban cho khả năng du hành từ trái đất lên thiên đàng, bằng Dòng ánh sáng Thánh thần. "Tất cả các con, hãy đi tìm ánh sáng, để lực lượng linh hồn trong các con sống dậy. Ngày đêm tìm kiếm chớ ngừng nghỉ, kiếm cho tới khi các con thấy những bí ẩn của Thế giới Hào quang, nó sẽ làm các con trong sạch, làm các con thành ánh sáng tinh khiết, và đưa các con vào Thế giới Hào quang". Thể nghiệm này xảy ra trong lúc ngồi thiền một mình và suy tưởng - ND.

2 Nguyên tác là "temple", vừa có nghĩa là "thánh đường, đền thờ", vừa có nghĩa là "thái dương" - ND.

3 Trong Ấn Độ giáo và một số nền văn hoá châu Á, một chakra được cho là một nexus của năng lượng tâm linh hay (và) sinh lý ẩn trong cơ thể con người. Trong tiếng Phạn, chakra nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", và đôi khi được dùng để chỉ đến "bánh xe của luân hồi", đôi khi còn được gọi là luân xa. Các tín ngưỡng khác nhau miêu tả có từ 5 đến 8 chakra. Các chakra xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu. Mỗi chakra liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, một phần tủ cổ điển (nước, lửa, khí, đất), một màu sắc nào đó và nhiều đặc điểm khác. Chúng thường được hình tượng hoá bằng các hoa sen với số cánh khác nhau. Các chakra được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng cửa cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người: Chúng được xem là các điểm chứa năng lượng sống, hay prana (hay khí), lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy gọi là nadis. Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào Năng lượng sống từ vũ trụ để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.

Ajna hay là con mắt thứ ba được nối với tuyến tùng. Ajna là chakra của thời gian và nhận thức về ánh sáng, được hình tượng hoá bởi một bông sen hai cánh. Màu sắc: chàm (xanh đậm) - ND.

4 Twitter là dịch vụ mạng xã hội miễn phí cho phép người sử dụng đọc, nhắn và cập nhật các mẩu tin nhỏ gọi là tweet, một dạng tiểu blog. Những mẩu tweet được giới hạn tối đa 140 ký tự, có thể chỉ là dòng tin vặt cá nhân hoặc những cập nhật thời sự tại chỗ kịp thời và nhanh chóng hơn cả truyền thông chính thống. Giới hạn về độ dài của tin nhắn có tính tương thích với tin SMS (Short Message Service), mang đến cho cộng đồng mạng một hình thức tốc ký đáng chú ý, đã được sử dụng rộng rãi đối với SMS. Giới hạn về ký tự cũng giúp thúc đẩy các dịch vụ thu gọn địa chỉ wchsite như tinyurl, bit.ly và tr.im, hoặc các dịch vụ nội dung tên miền như là Twitpic và NotePub nhằm thu thập các thông tin đa phương tiện và những đoạn dài hơn - ND.

5 Twitter là dịch vụ mạng xã hội miễn phí cho phép người sử dụng đọc, nhắn và cập nhật các mẩu tin nhỏ gọi là tweet, một dạng tiểu blog. Những mẩu tweet được giới hạn tối đa 140 ký tự, có thể chỉ là dòng tin vặt cá nhân hoặc những cập nhật thời sự tại chỗ kịp thời và nhanh chóng hơn cả truyền thông chính thống. Giới hạn về độ dài của tin nhắn có tính tương thích với tin SMS (Short Message Service), mang đến cho cộng đồng mạng một hình thức tốc ký đáng chú ý, đã được sử dụng rộng rãi đối với SMS. Giới hạn về ký tự cũng giúp thúc đẩy các dịch vụ thu gọn địa chỉ wchsite như tinyurl, bit.ly và tr.im, hoặc các dịch vụ nội dung tên miền như là Twitpic và NotePub nhằm thu thập các thông tin đa phương tiện và những đoạn dài hơn - ND.

Đoạn Kết

Robert Langdon gần thức giấc.

Nhiều khuôn mặt đang chăm chú nhìn xuống anh. Mình ở đâu đây?

Nhìn bức tranh trần một lát mới nhớ ra, anh từ từ ngồi dậy, lưng tê dại vì nằm trên hành lang cứng.

Katherine đâu nhỉ?

Langdon giơ chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình lên xem. Gần đến giờ rồi. Anh tự đứng dậy, thận trọng nhìn qua lan can xuống khoảng không phía dưới.

- Katherine? - Langdon gọi to.

Nhà tròn vắng ngắt. Tiếng anh gọi vang vọng trong không gian im ắng.

Langdon nhặt chiếc áo khoác dưới sàn lên, rũ sạch bụi, khoác vào người rồi sờ túi. Chiếc chìa khoá Kiến trúc sư đưa cho đã biến mất.

Anh lần bước trở lại đường đi, tiến ra phía lối thoát mà Kiến trúc sư đã chỉ. Những bậc thang dốc đứng dẫn lên khoảng tối chật chội.

Langdon bắt đầu trèo, càng lúc càng cao. Dần dần, cầu thang trở nên hẹp và dốc hơn. Langdon vẫn nhích lên.

° ° °

Chỉ thêm một chút nữa thôi.

Các bậc thang gần như trở thành một cái thang, lối đi hẹp kinh khủng. Cuối cùng, cầu thang kết thúc, và Langdon bước lên một Chiếu nghỉ nhỏ. Trước mắt anh là cánh cửa sắt nặng nề. Chìa đã nằm trong ổ khoá, và cánh cửa hơi hé ra. Langdon đẩy mạnh, cửa ken két mở rộng. Không khí bên trong khá lạnh. Langdon bước qua ngưỡng cửa và tiến vào khoảng tối mịt mùng, tới đây anh mới nhận ra mình đang ở ngoài trời.

- Em vừa định quay lại đón anh, - Katherine mỉm cười đánh tiếng - Gần đến giờ rồi.

Khi nhận ra không gian xung quanh, Langdon hít một hơi sững sờ. Anh đang đứng trên lối đi lộ thiên nhỏ xíu bao quanh đỉnh mái vòm Điện Capitol. Trên đầu anh, tượng đồng Thần tự do chăm chắm nhìn qua thành phố đang say ngủ, dõi mắt về hưởng đông, nơi những vệt màu tía đầu tiên của buổi bình mình bắt đầu hửng lên ở đường chân trời.

Katherine dẫn Langdon đi vòng quanh ban công cho tới khi nhìn ra phía tây, thẳng hướng Công viên Quốc gia. Đằng xa, bóng Đài tưởng niệm Washington hiện rõ trong ánh sáng ban mai: Từ góc độ này, cột tháp cao vút trông càng ấn tượng hơn.

- Hồi thi công - Katherine thì thầm - đó là công trình cao nhất hành tinh.

Langdon nhớ tới những bức ảnh ngả vàng chụp thợ nề trên giàn giáo cao hơn 150 mét so với mặt đất, đang lần lượt đặt từng viên gạch.

Chúng ta là những người xây dựng, anh nghĩ. Chúng ta là những đấng sáng tạo.

Từ buổi bình minh của lịch sử, con người đã cảm thấy bản thân mình có điều đặc biệt… hoặc hơn thế. Họ thèm khát những sức mạnh ngoài tầm tay. Họ mơ ước biết bay, biết chữa bệnh, và mơ đủ khả năng biến cải thế giới theo bất kỳ cách nào nghĩ ra được.

Và con người đã làm như vậy.

Ngày nay, những thánh điện dành để tôn vinh chiến công của con người đang tô điểm cho Công viên Quốc gia. Các bảo tàng Smithsonian vươn lên với bao sáng chế, nghệ thuật, khoa học và cả những tư tưởng vĩ đại. Chúng kể về lịch sử của loài người với tư cách là đấng sáng tạo, từ những công cụ bằng đá trong Bảo tàng Lịch sử Mỹ quốc Bản địa tới những chiếc máy bay phản lực và tên lửa trong Bảo tàng Không quân và Vũ trụ Quốc gia.

Nếu tổ tiên mà nhìn thấy chúng ta ngày nay, chắc chắn họ sẽ nghĩ chúng ta là thần thánh.

Langdon nhìn xuyên qua màn sương buổi sớm, sang phía dãy bảo tàng và đài tưởng niệm trước mặt, ánh mắt anh tự động hướng vào Đài tưởng niệm Washington. Anh hình dung ra cuốn Kinh thánh nằm trong hòn đá móng và ngẫm nghĩ về việc Từ ngữ của Chúa chính là từ ngữ của con người.

Langdon nghĩ về bàn huyền điểm vĩ đại, về cách người ta bố trí nó trên quảng trường hình tròn dưới chân Đài tưởng niệm, ngay giao lộ của nước Mỹ. Anh đột nhiên nghĩ đến cái hộp đá nhỏ nhắn mà Peter gửi gắm ngày xưa. Bây giờ cái hộp lập phương đó đã bung bản lề và mở toang để tạo ra chính xác hình một cây thập tự với bàn huyền điểm ở chính giữa. Langdon bật cười. Đến cái hộp bé xíu ấy cũng gợi ý về giao lộ.

- Robert, trông kìa! - Katherine trỏ lên chóp đài tưởng niệm.

Langdon ngước mắt trông nhưng không thấy gì. Sau đó, nhìn kỹ hơn, anh loáng thoáng nhận ra.

Bên kia Công viên, một đốm mặt trời vàng rực nhỏ xíu đang toả rạng từ đỉnh cao nhất của cột tháp vĩ đại. Điểm sáng mỗi lúc một rực rỡ, toả rộng hơn, lấp lánh trên phần đỉnh bằng nhôm của cái chóp. Langdon sững sờ theo dõi, ánh sáng dần dần biến đôi thành một cột đèn hiệu vươn cao bên trên thành phố vẫn chìm trong bóng tối. Langdon nhớ đến dòng chữ khắc nhỏ xíu trên mặt phía đông của cái chóp nhôm và kinh ngạc nhận ra rằng hằng ngày, những tia nắng đầu tiên chạm tới thủ đô của cả nước là chạm lên hai từ đang toả sáng kia:

Laus Deo.

- Robert - Katherine thì thầm - Chưa ai leo lên tận đây vào lúc bình mình. Đây là cảnh anh Peter muốn chúng ta chứng kiến.

Ánh sáng trên đỉnh đài tưởng niệm chói chang dần. Langdon cảm thấy mạch đập của mình rộn ràng theo.

- Peter tin rằng đây là lý do khiến các bậc tiền nhân xây dựng đài tưởng niệm cao đến vậy. Chẳng rõ có đúng không, nhưng có một đạo luật rất cổ quy định rằng ở thủ đô, không được phép xây công trình nào cao hơn đài tưởng niệm nữa. Mãi mãi.

Khi mặt trời từ từ nhô cao ở phía chân trời đằng sau lưng họ, vùng sáng cũng nhích dần xuống cái chóp. Trong lúc đứng ngắm, Langdon gần như cảm nhận được các thiên quyển đang luân chuyển theo quỹ đạo vĩnh hằng của chúng qua vũ trụ mênh mông xung quanh anh.

Anh nghĩ đến vị Kiến trúc sư vĩ đại của Vũ trụ và việc Peter đã nói rất cụ thể rằng kho báu mà ông muốn cho Langdon xem chỉ có thể do Kiến trúc sư tiết lộ mà thôi. Langdon đã tưởng rằng đó là Warren Bellamy. Hoá ra không phải.

Khi những tia nắng kéo dài ra, vầng sáng vàng lan xuống toàn bộ cái chóp nặng đúng 3.300 pound. Trí tuệ con người… đang nhận lấy sự khai sáng. Sau đó, ánh sáng bắt đầu toả rộng khắp Đài tưởng niệm, hệt như mọi buổi sáng khác. Thiên đàng giáng thế… Chúa gắn kết với con người. Langdon nhận ra rằng quá trình này sẽ đảo ngược vào buổi chiều. Mặt trời chìm xuống phía tây, và ánh sáng lại đi từ trái đất ngược lên bầu trời… chuẩn bị cho một ngày mới.

Bên cạnh anh, Katherine rùng mình và nhích tới gần hơn. Langdon vòng tay ôm lấy cô. Hai người im lặng đứng bên nhau, Langdon hồi tưởng mọi điều anh tiếp nhận được từ tối đến giờ. Anh nghĩ đến niềm tin của Katherine rằng mọi thứ sẽ thay đổi. Anh nghĩ đến niềm tin của Peter rằng một kỷ nguyên khai sáng sắp đến, và anh nghĩ đến những lời của một nhà tiên tri vĩ đại từng mạnh dạn tuyên bố: "Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng".

Khi mặt trời lên cao trên Washington, Langdon ngước nhìn bầu trời, nơi những vì sao đêm cuối cùng đang nhạt dần. Anh nghĩ về khoa học, về tín điều, về con người. Anh nghĩ về thực tế là mọi nền văn hoá ở mọi quốc gia và mọi thời đại đều luôn cùng chia sẻ một điều. Tất cả chúng ta đều có Đấng sáng tạo. Chúng ta dùng những tên gọi khác nhau, gương mặt khác nhau, và những lời cầu nguyện khác nhau, nhưng Chúa vẫn là bất biến với con người. Chúa là biểu tượng chung của toàn nhân loại… biểu tượng của tất cả những bí ẩn trong cuộc sống mà chúng ta chưa thể hiểu được. Cổ nhân ca ngợi Chúa như một biểu tượng của tiềm năng con người vô hạn trong chúng ta, nhưng chính biểu tượng cổ xưa đó lại bị thất truyền theo thời gian. Cho tới bây giờ.

Lúc này, đứng trên nóc Điện Capitol, với hơi ấm của mặt trời toả xuống xung quanh, Robert Langdon nhận ra một cảm giác mạnh mẽ trào lên trong mình. Một cảm giác thấm thía chưa từng thấy trong suốt cuộc đời anh.

Đó là Niềm hy vọng.
 
Bên trên