Những Vụ Án Trên Thế Giới

hoahongden12

Active Member

Vào ngày 27/3/2009, cô bé Sandra Cantu, 8 tuổi, đột nhiên bị mất tích. Ban đầu, gia đình cô bé nghĩ đây là một vụ bắt cóc để tống tiền. Tuy nhiên, sự thật đằng sau lại khiến nhiều người phải giật mình, phẫn nộ.

Vụ mất tích bí ẩn

Gia đình bé Cantu sống ở Tracy, Calif - một khu ngoại ô thành phố San Francisco khoảng 60 dặm. Vì bận rộn với công việc nên bố mẹ Cantu đã gửi em cho người hàng xóm làm nghề trông trẻ tên là Huckaby.

Cô Hackaby không chỉ nhận trông bé Cantu mà còn trông trẻ cho nhiều gia đình khác trong vùng và rất được mọi người tin tưởng. Thời gian mà Sandra Cantu mất tích được xác định là sau khi rời nhà cô giáo Huckaby để đi chơi với bạn.

Ngay sau khi nhận được thông tin từ phía gia đình Cantu, các điều tra viên có kinh nghiệm đã được điều tới hiện trường. Tuy nhiên, họ không thể tìm được bất cứ manh mối nào về cô bé mặc dù đã đi tới từng nhà hàng xóm để hỏi chuyện.

Chiếc vali đóng kín

Vì không có bất cứ manh mối nào để tìm ra đứa trẻ, cảnh sát đành quay lại manh mối duy nhất là cô giáo trông trẻ Huckaby. Hầu như tất cả mọi người đều cho rằng sự mất tích này có liên quan tới cô trông trẻ kia. Tuy nhiên, không có bất cứ bằng chứng nào để cáo buộc cô giáo này ngoại trừ thông tin rằng Cantu rời nhà cô trông trẻ rồi mất tích từ đó.

Không bỏ cuộc trong việc tìm kiếm tung tích về Cantu, FBI quyết định điều động thêm những chiếc trực thăng và ôtô để giúp đỡ tìm kiếm trên cao và dưới mặt đất. Sau khi Cantu mất tích 2 tuần, Luis Franco, một người nông dân đã phát hiện một chiếc vali ở khu vực cuối trang trại bò sữa mà ông đang làm.

Linh tính có điều gì bất thường trong chiếc vali này nên ông không dám mở ra ngay mà vội vàng gọi điện cho cảnh sát. Vài giờ sau, một số cảnh sát đã có mặt tại hiện trường. Khi mở khóa vali, tất cả giật mình khi thấy thi thể của một đứa trẻ bên trong. Kết quả khám nghiệm tử thi xác định đó chính là thi thể của cô bé Cantu đang mất tích.

Quá khứ đen của cô trông trẻ

Một ngày sau khi tìm thấy xác của Cantu, cảnh sát đã tới nơi mà Huckaby đang dạy trẻ cùng với lệnh khám xét và tạm giữ Huckaby mặc dù tội danh của cô giáo này chưa được xác nhận. Khi thông tin cô giáo này bị bắt giữ được công bố, hầu hết tất cả mọi người trong khu vực này đều cảm thấy bất ngờ.

Cơ quan điều tra cũng tỏ ra lúng túng và tự hỏi liệu quyết định bắt giữ Huckaby có quá vội vàng bởi cô trông trẻ này chưa hề có bất cứ tiền án nào và còn được nhiều người yêu quý. Gia đình Huckaby cũng bị sốc trước thông tin con gái bị bắt giữ vì nghi là hung thủ giết người.

Tuy nhiên, qua những điều tra sơ bộ, cô giáo trông trẻ này có quá khứ không thực sự "sạch" như nhiều người vẫn nghĩ. Trước đó, cô trông trẻ này từng bị bắt vì tội danh ăn cắp vặt ở Los Angeles và phải nhận mức án là 3 năm thử thách tại nhà.

Kinh hoàng hơn, Huckaby đã từng bị nghi đã đầu độc chết một người đàn ông và một cô bé mới chỉ 7 tuổi. Bé gái 7 tuổi đó cũng chính là đứa trẻ mà cô ta nhận trông nom. Như vậy, nếu cảnh sát thu thập đủ chứng cứ, cô trông trẻ này sẽ phải đối mặt với tội danh giết ba người.

Tại sở cảnh sát, Huckaby khai nhận rằng chiếc vali được tìm thấy chính là của cô nhưng nó đã bị đánh cắp vào đúng ngày mà Cantu mất tích. Trong suốt cuộc thẩm vấn, Huckaby đưa ra những câu trả lời đầy mâu thuẫn khiến điều tra viên đã quyết định bắt giữ cô trông trẻ này đồng thời sẽ khởi tố vụ án.

Khi khám xét máy tính cá nhân của Huckaby, cảnh sát đã tìm thấy được một bằng chứng vô cùng quan trọng - đó là lịch sử lướt web của cô trông trẻ này. Cảnh sát phát hiện ra rằng Huckaby thường xuyên lên mạng tìm kiếm những câu chuyện bệnh hoạn về việc hành hạ và giết hại trẻ em. Trong số đó có những tình tiết giống hệt trường hợp của Cantu.

Cái giá phải trả

Phiên tòa xét xử người phụ nữ trông trẻ diễn ra vào ngày 20/6/2009, ban Bồi thẩm đã tuyên bố cô giáo trông trẻ này bị cáo buộc 5 tội danh bao gồm: Bắt cóc, giết người, quấy rối tình dục trẻ em, quấy rối tình dục một người nước ngoài.

Tại phiên tòa cuối cùng diễn ra vào ngày 24/9/2009, Huckaby đã nức nở khóc và xin lỗi gia đình Sandra. Huckaby nói rằng: "Tôi không được phép cướp đi con gái của anh chị. Tôi nợ anh chị một lời giải thích, nhưng đến giờ tôi vẫn không thể hiểu nổi tại sao tôi lại làm điều đó".

Huckaby, 29 tuổi, đã bị kết án vì tội giết người độ một và tội bắt cóc trẻ em với nhiều tình tiết tăng nặng. Huckaby bị kết án tù chung thân không được giảm án.
 

hoahongden12

Active Member

Một nữ diễn viên xinh đẹp, nổi tiếng với diễn xuất xuất sắc đột ngột mất tích, để lại một chiếc ví với nội dung không rõ ràng, tựa như dòng mật mã: “Kirk, không thể đợi được nữa. Đến gặp bác sĩ Scott”.

Những tưởng như đó là nội dung của một bộ phim nào đó nhưng đáng buồn thay, đây không phải phim ảnh, tiểu thuyết mà là câu chuyện có thật của Jean Elizabeth Spangler - một nữ diễn viên, người mẫu, vũ công đầy tiềm năng, biến mất dấu vết đầy bí ẩn, để lại bao nỗi trăn trở, hoang mang cho mọi người hơn nửa thế kỉ sau.

Spangler sinh ra tại Seattle, Washington, Mỹ vào ngày 2/9/1923. Ở tuổi 26, cô đã có một cuộc sống khá rắc rối. Không lâu sau khi tốt nghiệp trung học, khi được 19 tuổi, Spangler kết hôn với Dexter Benner nhưng chỉ 6 tháng sau ngày cưới, cả hai ly hôn. Tuy nhiên, dù đã nộp đơn ly hôn nhưng Spangler và Benner vẫn tái hợp rồi chia tay liên tục trong vòng 5 năm sau đó. Đến năm 1944, cô con gái Christine Louise Benner ra đời.

Sau khi thủ tục ly hôn hoàn tất, tòa án giao cho Benner quyền chăm sóc cô bé Christine vì Spangler bị Benner cáo buộc không chung thủy trong suốt thời gian hôn nhân và cuộc sống tiệc tùng triền miên của cô sẽ không thể nào hoàn thành tốt vai trò của người mẹ. Nhưng không vì vậy mà Spangler từ bỏ quyền nuôi dưỡng con gái. Sau một trận chiến dài và đầy đau khổ, Spangler cuối cùng đã có thể giành quyền nuôi con từ năm 1948 - một năm trước khi cô mất tích bí ẩn.

Vào khoảng 5 giờ chiều ngày 10/7/1949, Spangler rời khỏi nhà ở Los Angeles - ngôi nhà cô ở cùng mẹ và con gái. Thời điểm đó, mẹ của nữ diễn viên đã đi thăm gia đình ở quê nhà nên cô để con gái ở nhà cùng chị dâu Sophie. Spangler nói với Sophie rằng mình đến gặp Benner để giải quyết khoản tiền cấp dưỡng nuôi con và sau đó là đi đến phim trường.

Trên đường đi, Spangler dừng lại ở một cửa hàng gần nhà và nhân viên trong cửa hàng được biết là người cuối cùng nhìn thấy cô ấy.

Mãi không thấy Spangler trở về, Sophie vội báo cáo với cảnh sát. Cảnh sát tiếp nhận thông tin, lập tức đến những phim trường mà nữ diễn viên đang hợp tác nhưng không ai trong số đó đang có dự án làm cùng Spangler cả. Thậm chí không có studio nào mở cửa vào buổi tối. Nhân viên điều tra cũng có thẩm vấn Benner nhưng anh ta nói rằng đã rất nhiều tuần không gặp nữ diễn viên. Trong khi đó, Lynn - vợ mới của Benner khẳng định - cô đã ở cùng chồng vào thời điểm Spangler mất tích.

Ngày 9/10, túi xách của Spangler được tìm thấy gần lối vào công viên Griffith ở Los Angeles. Một dây treo đã bị đứt và trong túi còn có dòng ghi chú có vẻ như chưa hoàn thành với nội dung: “Kirk, không thể đợi được nữa. Đến gặp bác sĩ Scott”. Cảnh sát nghi ngờ cô bị cướp giật nhưng trong túi không mất thứ gì cả. Và theo Sophie trả lời cảnh sát, Spangler không mang theo tiền khi ra ngoài.

Lập tức, hơn 50 cảnh sát cùng 100 tình nguyện viên tiến hành lục soát công viên rộng 1.740ha để tìm tung tích của Spangler nhưng không tìm thấy gì. Mãi đến khi mẹ Spangler trở về Los Angeles, bà báo cáo với cảnh sát rằng ai đó tên Kirk vài lần đến nhà đón Spangler nhưng lúc nào cũng ngồi trong xe, không bước xuống. Không có gì để tiếp tục nhưng với mảnh giấy ghi chú bí ẩn, cảnh sát đã lục soát Los Angeles để tìm kiếm người tên Kirk - người có thể có quan hệ với Spangler và dò la những bác sĩ ở gần đó có họ là Scott. Kết quả, không bác sĩ nào có nhận bệnh nhân tên Spangler hay Benner (họ của nữ diễn viên khi chung sống với Benner).

Nhưng rồi sau đó, mọi thứ còn kỳ lạ hơn.

Các nhà điều tra phát hiện ra Spangler đã từng lừa dối Benner, qua lại với người đàn ông tên Scotty. Cô đã kết thúc mối quan hệ vụng trộm này khi Scotty tấn công và đe dọa sẽ giết cô. Trong một diễn biến kì lạ khác, nam diễn viên Kirk Douglas đã gọi điện cho cảnh sát Los Angeles trong lúc đang đi nghỉ tại Palm Springs, California để thông báo rằng Spangler có một phần nhỏ trong bộ phim mà anh đang tham gia. Tuy nhiên, anh không biết rõ lắm về Spangler.

Một người bạn của Spangler lại thông báo với cảnh sát rằng thời điểm nữ diễn viên mất tích cô đã bí mật mang thai 3 tháng. Spangler khi đó tìm kiếm một nơi để phá thai bí mật bởi điều đó là bất hợp pháp.

Sau khi nói chuyện với nhân viên và khách quan ở các quán bar, hộp đêm mà Spangler thường xuyên lui tới, cảnh sát bắt gặp một cựu sinh viên y khoa được biết đến với tên Doc, và là người thực hiện những ca nạo phá thai bất hợp pháp. Các nhà điều tra đặt ra giả thuyết rằng Spangler có thể đã chết vì những biến chứng nạo phá thai nhưng vẫn không giải thích được sự có mặt của chiếc túi của cô tại công viên Griffith.

Ngoài ra, cảnh sát còn nhận được báo cáo cho biết Spangler đã được nhìn thấy tại Palm Springs, California cùng với Davy Ogul - người mất tích sau cô 2 ngày. Ogul có quan hệ với gangster Mickey Cohen - người có quan hệ với Eli Lasky. Lasky là chồng cũ của Lynn Benner - vợ mới của Dexter Benner. Dù vậy, vẫn không có lời giải thích hợp lý nào cho những mối liên hệ này có liên quan đến sự mất tích của Spangler hay không.

Cảnh sát Los Angeles vẫn tiếp tục tìm kiếm Spangler trong nhiều năm liền, công bố hình ảnh của nữ diễn viên trên toàn quốc mong tìm ra manh mối về sự mất tích của cô. Suốt những năm sau đó, các cuộc tìm kiếm trải dài khắp California, Arizona, Texas và cả Mexico nhưng chẳng có câu trả lời.

Giờ đây, gần 70 năm sau lần cuối cùng bạn bè, gia đình nhìn thấy Spangler, cảnh sát Los Angeles vẫn xem cô là một người mất tích, hồ sơ vụ việc của cô vẫn còn mở và sự biến mất của cô vẫn là một bí ẩn chưa có lời giải.
 

hoahongden12

Active Member

Cuối tháng 8 năm 1988, bố mẹ của bé gái mất tích tên Mari Konno, 4 tuổi, bỗng nhận được một chiếc hộp trong hòm thư. Bên trong hộp có một lớp bột đỏ mịn kèm theo một chiếc ảnh quần áo của Mari mà cô bé mặc lúc mất tích, vài chiếc răng nhỏ cùng một tấm thiệp có thông điệp: "Mari. Xương. Hỏa táng. Điều tra. Bằng chứng".

Chiếc hộp manh mối kinh hoàng này rồi đây sẽ xuất hiện nhiều hơn ở những gia đình xung quanh thành phố Tokyo, Nhật Bản sau khi họ thông báo tìm con mất tích. Thế nhưng, việc những chiếc hộp được đặt ở hòm thư của các gia đình cũng đồng nghĩa với việc những nạn nhân, hầu hết là bé gái, đều sẽ không bao giờ quay về nữa bởi tất cả đều đã chết tức tưởi dưới tay của tên sát nhân khét tiếng Tsutomu Miyazaki - "Sát nhân Otaku".

Nhân cách méo mó hình thành từ tuổi thơ bất hạnh

Có lẽ những tên sát thủ khét tiếng đều có một tuổi thơ ám ảnh và bị đối xử tồi tệ, chính những tác nhân đó đã góp phần biến chúng trở thành một “con quỷ”. Miyazaki cũng không phải ngoại lệ, hắn bị sinh non vào tháng 8/1962 nên tay bị khuyết tật bẩm sinh, cổ tay không thể uống hay gập hoàn toàn được. Dù vẻ bề ngoài thư sinh, được mọi người xung quanh đánh giá là hiền lành và ít nói nhưng do đôi tay dị dạng nên hắn ta trở nên "khác biệt" với số đông và đây cũng là điều khiến hắn trở thành nạn nhân của bạo lực học đường.

Bị bắt nạt và có phần tự ti bởi ngoại hình nên Miyazaki luôn hiếm khi tham gia các sự kiện xã hội hoặc kết bạn. Trong những bức ảnh, người ta chẳng bao giờ nhìn thấy đôi tay của Miyazaki vì hắn luôn giấu đi do xấu hổ. Ở nhà một mình, hắn thích vẽ và đọc truyện tranh.

Mặc dù không phải là một học sinh quảng giao nhưng bù lại Miyazaki khá là suôn sẻ trong học tập, luôn nằm trong top 10 của lớp những năm tiểu học. Đến khi chuyển lên trung học ở Nakano, Tokyo hắn vẫn duy trì tốt phong độ với thành tích học tập đáng gờm, tất cả đều phục vụ cho một ước mơ trở thành thầy giáo trong tương lai xa. Thế nhưng điều đó đã không thành sự thật khi Miyazaki rớt hạng thảm hại, với thành tích xếp thứ 40/56 của lớp, hắn không được nhận vào trường đại học Meiji. Bởi thế, Tsutomu Miyazaki đã buộc phải theo học một trường cao đẳng ở địa phương để trở thành một kỹ sư ảnh thay vì trau dồi tiếng Anh để làm giáo viên như ước muốn ban đầu.

Dù không rõ nguyên nhân tại sao Miyazaki lại tụt điểm thê thảm như thế nhưng việc này có lẽ cũng ảnh hưởng từ cuộc sống gia đình. Gia tộc Miyazaki có ảnh hưởng khá lớn ở quận Itsukaichi của Tokyo. Cha hắn sở hữu một tờ báo. Tuy được kỳ vọng là sẽ tiếp quản sự nghiệp của cha khi ông về hưu nhưng Miyazaki tỏ ra không hứng thú cho lắm.

Tin chắc rằng mọi người trong gia đình không bao giờ quan tâm đến hạnh phúc của mình mà chỉ nhìn vào thành công về tài chính và vật chất trong cuộc sống nên Miyazaki đã tự xa lánh cả nhà. "Nếu tôi cố gắng nói chuyện với bố mẹ về những vấn đề của mình, họ sẽ gạt ra", hắn khai với cảnh sát sau khi bị bắt.

Miyazaki cảm thấy ngay đến em gái cũng tỏ vẻ coi thường mình. Người duy nhất hắn nghĩ là thực sự quan tâm tới hạnh phúc cá nhân chỉ có ông nội mà thôi. Ngoài ra, mối quan hệ của Miyazaki với chị gái cũng thân thiết hơn tất cả mọi người thân khác.

Ở trường cao đẳng, Miyazaki ngày càng trở nên khác biệt hơn. Hắn thường chụp trộm những người phụ nữ chơi tennis trên sân, xem tạp chí khiêu dâm, tuy nhiên việc này cũng dần trở nên nhàm chán đối với gã. Đến năm 1984, Miyazaki bắt đầu tìm đến phim khiêu dâm trẻ em vì lúc này luật pháp Nhật Bản còn nhiều lỗ hổng nên hắn thoải mái tìm kiếm, sưu tầm những thể loại ưa thích.

Năm 1988, ông nội qua đời, cuối cùng điều khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất trong tâm trí của Tsutomu Miyazaki khi ấy cũng xảy ra. Người duy nhất quan tâm, từng giúp hắn vượt qua ý định tự tử đã qua đời.

Khi nhìn lại toàn bộ quá trình, các chuyên gia tin rằng đây chính là điểm bùng phát, cởi trói cho “con quỷ” đang bị giam cầm bên trong Miyazaki để nó được tự do gieo rắc nỗi ám ảnh.

“Sát nhân Otaku” lộ diện, gieo rắc nỗi khiếp sợ cho bao gia đình

Kể từ sau cái chết của ông nội, gã thanh niên đã biến đổi hoàn toàn. Các thành viên trong gia đình nhìn thấy một con người hoàn toàn khác, không phải là Miyazaki họ vẫn nghĩ nữa. Mọi người kể gã bắt đầu xem các em gái của mình tắm, sau đó còn tấn công khi bọn trẻ có ý định đối đầu, ngay cả mẹ cũng bị Miyazaki gây hấn. "Tôi cảm thấy cô đơn một mình. Và bất cứ khi nào thấy một em nhỏ tự chơi một mình, tôi lại nhìn thấy bản thân qua cảnh tượng ấy", hắn khai báo với cảnh sát.

Tháng 8/1988, chỉ một ngày sau sinh nhật thứ 26 của mình, Tsutomu Miyazaki bắt cóc Mari Konno, 4 tuổi. Theo như Miyazaki khai thì hắn tiếp cận nạn nhân dễ dàng, dẫn cô bé về xe rồi lái đi mất. Tên sát nhân đưa Mari đến một khu vực nhiều cây cối phía Tây Tokyo, đỗ xe dưới gầm cầu, một nơi quá lí tưởng để không bị ai phát hiện ra. Hắn giữ nạn nhân trong xe nửa tiếng đồng hồ.

Sau đó, Miyazaki xuống tay hạ sát bé gái và bắt đầu dở trò đồi bại với nạn nhân. Khi xong xuôi mọi việc, kẻ bệnh hoạn cởi sạch quần áo trên người cô bé, vứt thi thể trong rừng rồi lái xe về nhà cùng bộ quần áo. Trong những tuần tiếp theo, tên sát nhân thường lui tới cánh rừng để kiểm tra cái xác, cuối cùng hắn còn lấy một phần thi thể về cất trong tủ quần áo.

Khi gia đình nạn nhân đang hoang mang không biết tung tích của con gái thì Miyazaki lộ diện, tất nhiên là bằng cách gọi điện nhưng hắn chỉ thở mạnh chứ không nói bất cứ lời nào. Nếu gia đình không nghe máy, hắn sẽ gọi cho đến khi có người trả lời thì thôi. Việc này liên tục lặp đi lặp lại. Cuối cùng, hắn gửi cho gia đình nạn nhân chiếc hộp chết chóc như đã nêu ở trên. Và trong khi mọi người chưa hết bàng hoàng với vụ án bí ẩn thì Miyazaki tiếp tục ra tay.

Tháng 10/1988, tên sát nhân bắt cóc cô bé thứ hai. Cô bé có tên là Masami Yoshizawa, 7 tuổi. Trên đường đi bộ về nhà một mình thì Miyazaki nhìn thấy cô bé, không ngại ngùng, hắn ngỏ ý cho Masami đi nhờ. Đến đây, tình tiết vụ việc cũng xảy ra tương tự với nạn nhân thứ nhất, hắn đưa Masami đến một khu rừng hẻo lánh và xuống tay sát hại, hãm hiếp thi thể rồi lấy hết quần áo mang về nhà.

Lúc này thì tình hình thực sự đã rất căng thẳng ở quận Saitama, nhất là những phụ huynh có con gái nhỏ, họ lại càng hoang mang hơn bao giờ hết. Kẻ bắt cóc và giết người hàng loạt được đặt cho biệt danh "Otaku Killer" (Sát nhân Otaku) hay "Kẻ giết hại những bé gái".

Trong vòng 8 tháng tiếp theo, Miyazaki còn thực hiện thêm hai vụ nữa, nạn nhân cũng là 2 bé gái, bị sát hại theo cách tương tự. Nạn nhân thứ 3 là bé gái 4 tuổi Erika Namba cũng bị gã bắt gặp trên đường khi đang đi bộ về nhà. Lần này, Miyazaki đã ép bé gái lên xe, ra tay luôn trong xe rồi vứt bỏ cô bé nằm lạnh lẽo trong một bãi đỗ xe. Giống như gia đình nạn nhân đầu tiên, gia đình Erika Namba cũng nhận được một tấm bưu thiếp bệnh hoạn với những chữ “Erika. Lạnh. Ho. Họng. Yên nghỉ. Chết” cắt ra từ tạp chí.

Đến tháng 6/1989, Sát nhân Otaku thực hiện phi vụ thứ 4, nạn nhân là bé gái Ayako Nomoto, 5 tuổi. Hắn thuyết phục để được chụp ảnh cho em, rồi liền giết hại và đem thi thể về nhà. Miyazaki cũng hành hạ thân xác nạn nhân như những gì từng làm trước đó, tuy nhiên, chuyện chưa dừng lại bởi sau khi thỏa mãn thú tính bệnh hoạn của mình hắn còn phân thi thể ra làm nhiều phần rồi đem phi tang. Nhưng do lo sợ bị phát giác nên Miyazaki đã thu thập lại toàn bộ rồi giấu trong tủ của mình ở nhà.

Kẻ thủ ác sa lưới vén màn những bí mật kinh hoàng

Cuối cùng, sau bao nhiêu tội ác gây ám ảnh cho người dân Nhật Bản, Miyazaki cũng phải trả giá khi đang cố thực hiện vụ bắt cóc lần thứ 5. Vào 23/7/1989, khi phát hiện có 2 chị em đang chơi trong sân nhà, hắn đã cố gắng tiếp cận tách người em khỏi chị của mình để lôi lên xe. Người chị nhanh trí đã chạy đi tìm bố để giải cứu em. May mắn rằng ông bố đã can thiệp kịp thời trước khi kẻ thủ ác ra tay nên đã cứu được con gái, người này còn đánh nhau với gã sát nhân nhưng không thể làm gì vì hắn đã chạy thoát.

Vì chạy thoát thân nên Miyazaki đã để lại chiếc xe ô tô của mình tại hiện trường. Và sau khi quay lại hòng lấy xe thì hắn đã bị cảnh sát mai phục sẵn từ trước tóm gọn. Tại cơ quan điều tra, hắn đã khai nhận mình là Tsutomu Miyazaki, 26 tuổi, phụ tá tại 1 cửa hàng in ảnh cũ. Qua soát trên xe cũng như khám nhà, cảnh sát đã phát hiện những bí mật kinh hoàng đang chờ lời giải đáp bấy lâu nay, họ tìm thấy 5.763 băng video với nội dung đồi trụy và bạo lực, lẫn trong đó là băng và hình các nạn nhân. Ngoài ra, các nhà điều tra đã phát hiện cả những phần di thể còn sót lại của các nạn nhân đầu tiên và thứ 4. Từ đây hắn đã thừa nhận chính là hung thủ gây ra 4 vụ bé gái mất tích bí ẩn trong suốt khoảng thời gian qua. Phía cảnh sát không khỏi rùng mình khi nghe hắn tường thuật lại toàn bộ sự việc.

Trong phiên tòa xét xử, kẻ thủ ác tỏ ra vô cùng thản nhiên, bình tĩnh và không quan tâm đến việc bị bắt và hoàn toàn lãnh đạm với những tội ác đã gây ra. Khi bị chất vấn về tội ác của mình, Miyazaki đổ tội cho "Rat-Man" - một nhân cách tồn tại bên trong luôn bắt hắn làm những việc bệnh hoạn.

Định nghĩa "Otaku" chỉ người có những sở thích ám ảnh, đặc biệt trong thế giới truyện manga hay anime và cũng chính vì sở thích của mình, Miyazaki đã được truyền thông gán cho biệt danh đó. Ngay lập tức, làn sóng phản đối những người trong giới Otaku xuất hiện, họ cho rằng không có cơ sở nào để kết luận chính manga hay anime đã biến Miyazaki thành một con người như thế.

Qua điều tra, nghiên cứu, các nhà phân tâm học đánh giá bên cạnh việc bị mắc chứng rối loạn đa nhân cách, chính sự thiếu kết nối của gã sát nhân với gia đình đã khiến cho Miyazaki tìm đến một thế giới truyện tranh manga, anime đầy giả tưởng để tự làm vui bản thân. Nhưng thật không ngờ cũng chính vì chịu tác động một phần từ thế giới này mà cuộc đời hắn trượt dài và sa ngã, lún sâu vào tội lỗi.

Cha của Miyazaki, vì không chịu nổi sự thật, đã công khai từ chối con, không trả án phí và đã tự tử vào năm 1994. Ngày 17/3/2008, Tòa án Nhật Bản đã thi hành lệnh tử hình đối với Miyazaki Tsutomu.
 

hoahongden12

Active Member

Khi vụ án lần đầu tiên được công bố, mọi người không khỏi rùng mình trước sự suy đồi đạo đức của con người. Điều đáng nói hơn, nạn nhân trong vụ án lại là người đứng ra bảo vệ bạn thân của mình khỏi kẻ xấu và nhận cái kết không thể đau đớn hơn.

Hai người bạn thân nương tựa lẫn nhau nơi đất khách quê người

Giang Ca, sinh năm 1992 tại Thanh Đảo, Sơn Đông, Trung Quốc trong một gia đình đơn thân. Từ nhỏ chỉ sống với mẹ và được mẹ nuôi dạy ăn học thành tài. Tháng 4/2015, sau khi tốt nghiệp Đại học, Giang Ca quyết định đến Nhật Bản du học, ban đầu cô chỉ học tiếng tại trường Ngoại ngữ. Một năm sau mới bắt đầu theo học Thạc sĩ tại trường Đại học Pháp luật Tokyo.

Trong khoảng thời gian học tập nơi xứ người, Giang Ca đã vô tình quen biết với Lưu Hâm, cũng là một du học sinh đến Nhật Bản học tập. Vì là đồng hương nên Giang Ca và Lưu Hâm nhanh chóng thân thiết với nhau như chị em, đi đâu cũng có nhau và luôn giúp đỡ nhau những lúc gặp khó khăn.

Về phần Lưu Hâm, tại trường Đại học Văn hóa mà cô theo học, có một chàng trai tuấn tú cũng là du học sinh đến từ Trung Quốc tên Trần Thế Phong đã chủ động theo đuổi cô. Mặc dù họ học khác ngành, nhưng dễ dàng gặp nhau trong trường và không lâu sau cả hai nảy sinh tình cảm, bắt đầu hẹn hò.

Thời điểm đó, Lưu Hâm bị cuốn hút bởi sự hiền lành của Trần Thế Phong. Bên cạnh đó sự lịch thiệp của Thế Phong khi nói chuyện với các giáo sư khiến Lưu Hâm ấn tượng và ngưỡng mộ, từ đó tình cảm cô dành cho anh ngày càng nhiều hơn lúc nào không biết. Hẹn hò được 2 tháng, Lưu Hâm quyết định dọn đến sống cùng Trần Thế Phong.

Tháng 6/2016, sau một thời gian sống chung, Lưu Hâm và Trần Thế Phong bắt đầu xảy ra mâu thuẫn và thường xuyên cãi nhau. Đối với Lưu Hâm, hình ảnh thư sinh của Thế Phong mà cô thấy, nay đã biến mất, thay vào đó là sự đáng sợ. Ban đầu họ chỉ tranh cãi về những vấn đề nhỏ như một bữa ăn, một bộ phim… nhưng dần dần Thế Phong ngày càng vô lý và luôn phải nói đúng sai với Lưu Hâm. Khi Thế Phong tức giận, anh ta sẽ nhìn chằm chằm vào mặt bạn gái và không nói chuyện.

Tối ngày 25/8/2016, Lưu Hâm và Thế Phong lại cãi nhau, lần này Lưu Hâm quá sợ hãi vì Thế Phong đã nắm lấy tay cô một cách mạnh bạo. Lúc này, Lưu Hâm nghĩ đến việc chia tay, và quyết định bỏ nhà đi. Thế Phong đuổi theo giật điện thoại và hai người ẩu đả trước khu căn hộ đến mức cảnh sát phải đến can ngăn. Cuối cùng, vì không chịu nổi Lưu Hâm đã dọn đến nhà Giang Ca lánh nạn.

"Cứu vật vật trả ơn, cứu nhân nhân báo oán"

Hai tháng sau, vào sáng ngày 3/11/2016, Trần Thế Phong đến nhà Giang Ca để tìm Lưu Hâm, tuy nhiên Lưu Hâm trốn trong phòng và không ra ngoài. Lúc đó, Giang Ca đã có một cuộc xung đột với Trần Thế Phong để bảo vệ bạn mình. Tưởng đâu mọi chuyện đã yên, không ngờ vào chiều ngày 3, Lưu Hâm vì sợ Thế Phong tìm mình nên đã nhờ Giang Ca chờ cùng đi về nhà. Giang Ca đã đợi ở trạm tàu 2 tiếng đồng hồ, trong khi đó, Lưu Hâm gọi điện thoại nói chuyện với mẹ, thông báo tình hình.

Sau khi về đến nhà, nhìn thấy Trần Thế Phong đứng trước cửa cả hai vô cùng hoảng sợ, thấy tinh thần bạn không ổn, Giang Ca để Lưu Hâm bước vào nhà trước. Điều đáng nói, sau khi bước vào nhà, Lưu Hâm đã khóa trái cửa, một mình Giang Ca ở ngoài chống chọi với sự điên tiết của Trần Thế Phong. Kết quả cuối cùng, Trần Thế Phong đã đâm chết Giang Ca, Lưu Hâm ở trong nhà một mực không mở cửa.

Theo báo cáo điều tra, phần đầu của Giang Ca bị đâm khá sâu, chiều dài vết thương khoảng 10cm. Trước khi xảy ra án mạng, Giang Ca đã gọi cảnh sát địa phương báo rằng ở khu bên ngoài nhà có kẻ tình nghi. Nhưng khi cảnh sát đến hiện trường thì nhìn thấy Giang Ca nằm trên vũng máu. Sau đó, cô được đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng không thể qua khỏi vì vết thương quá nghiêm trọng.

Sau khi nhận được tin, mẹ Giang Ca đã bay đến Tokyo để tiến hành các hoạt động ký tên thỉnh cầu, bao gồm việc đăng tải các tin tức lên mạng xã hội tìm lại công bằng cho con gái xấu số. Bốn ngày sau, Trần Thế Phong bị cảnh sát Tokyo bắt giam, Lưu Hâm cũng bị triệu tập ngay sau đó. Vụ án này được cả hai nước Nhật Bản và Trung Quốc vô cùng quan tâm.

Điều đáng nói, người bạn thân Lưu Hâm khi khai nhận với cảnh sát đã chối bỏ mọi trách nhiệm để bảo vệ quyền lợi của mình. Giang Ca vì bảo vệ bạn thân mà bị kẻ xấu giết hại dã man, Lưu Hâm sau khi bị bắt cũng không hề khai tên hung thủ. Trong suốt quá trình xét xử, Lưu Hâm một mực bảo rằng không nghe thấy tiếng kêu cứu của Giang Ca, nhưng những người hàng xóm xung quanh khi cho lời khai với cảnh sát rằng, họ đã nghe tiếng hét kêu cứu rất lớn.

Vụ án mạng này đã gây chấn động Nhật Bản lúc bấy giờ, truyền thông Nhật khi đó cũng đã chê cười đạo đức của du học sinh Trung Quốc. Ngoài ra, truyền thông Trung Quốc và cộng đồng Hoa kiều ở Nhật cũng đứng về phía mẹ Giang Ca, bằng lòng chung tay giúp đỡ với mọi cách, nhất trí chỉ trích Lưu Hâm và kêu gọi phán quyết xử tử Trần Thế Phong vì hành động tàn ác dã man này.

Sau gần một năm Giang Ca qua đời, mẹ cô được sự giúp đỡ từ những người bạn học cũng như cộng đồng du học sinh bên Nhật tìm được công lý cho con gái. Ngày 20/12/2017, tòa án Tokyo tuyên bố Trần Thế Phong bị kết án 20 năm tù giam vì tội cố ý giết người. Tuy nhiên, mọi chuyện vẫn chưa kết thúc, mặc dù không trực tiếp giết chết Giang Ca, nhưng cách hành xử của Lưu Hâm đã khiến cộng đồng mạng dậy sóng.

Ngày 15/10/2018, mẹ Giang Ca tuyên bố sẽ đệ đơn kiện Lưu Hâm, đòi bồi thường tổn thất tinh thần. Trên thực tế, Lưu Hâm vốn là người bạn mà Giang Ca đã tận tình giúp đỡ, chăm sóc. Nếu như Lưu Hâm và gia đình có lương tâm thăm hỏi mẹ Giang Ca sau khi vụ án xảy ra thì sự tình sẽ không căng thẳng đến mức này. Được biết, sau một năm Giang Ca qua đời, Lưu Hâm không đến gặp mẹ Giang Ca, không một lời xin lỗi. Không những thế, cả Lưu Hâm và gia đình cô đều chặn liên lạc với mẹ Giang Ca. Vì vậy, mẹ Giang Ca cần cả nhà họ Lưu phải chịu trách nhiệm trước sự mất mát này của bà.
 

hoahongden12

Active Member

Vince Weiguang Li, một người nhập cư gốc Hoa đã chặt đầu và ăn thịt một hành khách trên xe buýt ở Canada trước sự chứng kiến kinh hoàng của những hành khách khác bốn năm trước đã lần đầu tiên lên tiếng hôm 22/5. Li, 43 tuổi và bị tâm thần phân liệt chứng hoang tưởng, giải thích rằng ông ta tưởng n‌ạn nhân là một người ngoài hành tinh và đã không bị kết án.

nhân là Tim McLean, 22 tuổi đang đi trên xe buýt Greyhound ở Canada ngày 30/7/2008. Sau phiên tòa, Li bị giam giữ ở một trại tâm thần tại Winnipeg, Manitoba, nơi ông ta được điều trị và giờ đã có thể thỉnh thoảng quay lại với cộng đồng.

Trong một cuộc phỏng vấn với Chris Summerville, người đứng đầu Hiệp hội hỗ trợ những người tâm thần phân liệt Canada, Li nói từ năm 2004, ông ta tin rằng mình đã nghe được “tiếng nói của Chúa trời”.

“Có một giọng nói với tôi rằng tôi là câu chuyện thứ ba của Kinh thánh, là một tái sinh thứ hai của Jesus và tôi muốn cứu mọi người khỏi một cuộc tấn công của người ngoài hành tinh”, Li nói, theo văn bản được truyền thông Canada đăng tải lại. “Tôi rất sợ. Tôi đã c‌ắt đầu người đó. Tôi tin đó là một người ngoài hành tinh. Những giọng nói bảo tôi g‌iết anh ta, rằng anh ta sẽ g‌iết tôi và những người khác. Giờ tôi không tin những chuyện đó nữa”.

Li đã đ‌âm McLean nhiều nhát khi anh này đang ngồi ngủ cạnh ông, c‌ắt đầu, moi nội tạng ra, rồi c‌ắt mũi, lưỡi và một cái tai bỏ vào túi trong sự chứng kiến của người đi đường.

Cảnh s‌át nói trong văn bản tại tòa rằng Li “có vẻ đã ngửi, rồi sau đó ăn những phần t‌hi t‌hể của Tim McLean” và “liếm m‌áu ở cả hai tay” khi họ đang đi trên chiếc xe buýt ở một đường cao tốc vắng vẻ cách Winnipeg, miền tây Canada 90 km về phía tây.

Nhà chức trách tìm thấy những mảnh thi thể vương vãi khắp trong xe, một số gói trong túi nhựa. Đôi mắt của McLean và một phần ba quả tim cũng biến mất, có thể là Li đã ăn, các chuyên gia pháp y nói tại tòa.

Lúc đó, 35 hành khách trên xe bị sốc nặng và hoàn toàn tê liệt trước hiện trường đẫm m‌á_u, nhiều người bỏ chạy, rồi đóng cửa xe nhốt Li bên trong. Li bị cảnh sát bắt giữ sau đó ba tiếng đồng hồ.

McLean, theo lời gia đình anh, đang trên đường về nhà ở Winnipeg sau khi đi làm việc ở tây Canada lúc bị tấn công. Li là một tín đồ Thiên Chúa ngoan đạo làm nghề kỹ sư máy tính, di cư sang Canada từ tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc, cùng vợ vào năm 2001.
 

hoahongden12

Active Member

Án mạng trong đêm

Một đêm hè nóng nực ngày 22/8/1922, đường dây nóng của cảnh sát Los Angeles rung lên từng hồi giữa màn đêm tĩnh mịch. Đầu dây bên kia, giọng một người đàn ông thể hiện rõ sự hoảng hốt. Anh cho biết vừa nghe thấy tiếng súng vang lên từ ngôi nhà khang trang của người hàng xóm Fred Oesterreich, một doanh nhân giàu có trong vùng.

Một nhóm cảnh sát lập tức lên đường. Tới nơi, họ thấy cửa chính của ngôi nhà đang mở toang. Thi thể của ông Fred Oesterreich nằm sõng soài trong vũng máu trên sàn nhà. Trong phòng ngủ của hai vợ chồng nạn nhân, tiếng khóc nức nở của một người phụ nữ vang lên phía sau cánh cửa tủ quần áo đã bị khóa chặt. Cách đó vài bước chân, chiếc chìa khóa tủ bị vứt trên tấm thảm. Đó chính là bà Dolly Oesterreich, vợ của người đàn ông xấu số,

Còn chưa hết bàng hoàng, bà Dolly nói với cảnh sát rằng ngôi nhà của mình vừa bị một tên trộm đột nhập để cướp tài sản, chồng bà bị giết hại sau khi vật lộn với tên cướp còn bà bị nhốt trong tủ quần áo.

Kiểm tra hiện trường vụ án, cảnh sát xác định chiếc đồng hồ đeo tay đính kim cương của nạn nhân đã bị lấy đi. Tuy nhiên, chiếc ví chứa đầy tiền mặt của Fred Oesterreich vẫn còn nguyên trong túi của ông. Dựa theo kinh nghiệm của mình, cảnh sát nghi ngờ rằng đó không hẳn là một vụ trộm bình thường.

“Bà và chồng mình có bao giờ cãi nhau không?”, Cảnh sát trưởng Herman Cline hỏi Dolly Oesterreich. Người phụ nữ lập tức trả lời: “Không bao giờ!”.

Chỉ cần có vậy, Herman Cline biết rằng người phụ nữ trước mặt mình là kẻ dối trá và dường như đang che giấu một điều gì đó.

Cuộc hôn nhân giả tạo

Doll Oesterreich sinh năm 1880. Bà là một người Đức nhưng nhập cư sang Mỹ. Lớn lên trong nghèo khó tại một nông trại cho tới khi gặp Fred Oesterreich – một vị giám đốc vô cùng giàu có. Fred sở hữu và điều hành một nhà máy sản xuất tạp dề rất thành công tại Milwaukee, Wisconsin. Họ yêu nhau và kết hôn không lâu sau đó.

Cặp vợ chồng luôn tỏ ra vô cùng hạnh phúc, nhưng ít ai biết rằng tất cả chỉ là giả tạo và đằng sau vẻ ngoài hào nhoáng đó là một sự thật hoàn toàn khác. Fred luôn bận rộn với công việc, đặc biệt thích tụ tập với bạn bè, uống rất nhiều rượu và thường xuyên trở về nhà với bộ mặt nhăn nhó cáu kỉnh. Fred cũng là một ông chủ khó tính, thường xuyên mắng mỏ người làm. Không ít lần Dolly phải đứng ra an ủi họ.

Cô gái trẻ Doll Oesterreich chẳng có ngày nào cảm thấy hài lòng, từ đời sống thường ngày cho tới chuyện giường chiếu. Những trận cãi nhau nảy lửa, đôi khi là cả bạo lực khiến cho khoảng cách giữa họ cứ thế lớn dần. Hai người không có con, cuộc hôn nhân có dấu hiệu rạn nứt.

Một người bạn thân và cũng là cộng sự kinh doanh của Fred cho biết ông chắc chắn một tên trộm đã giết bạn mình. “Với tính cách của mình, anh ấy có rất nhiều kẻ thù trên thế giới này”, người này cho biết.

Dù vậy, các thám tử dường như vẫn không bị thuyết phục với câu chuyện của Dolly Oesterreich. Họ nghi ngờ Dolly đã giết chồng bởi một khẩu súng cỡ nòng 0,25, tuy nhiên họ không thể giải thích được làm thế nào bà có thể giết chồng và tự khoá trái mình trong tủ quần áo.

Tuy bị nghi ngờ có liên quan đến tai nạn của Fred, Dolly vẫn được thả tự do sau vài ngày thẩm vấn vì không có đủ chứng cứ để kết tội. Vụ án mạng này sau đó được coi là vụ giết người cướp của. Dolly Oesterreich được thừa kế toàn bộ tài sản của chồng.

Cứ như vậy, vụ án chìm vào quá khứ cho tới khi chiếc đồng hồ kim cương mà người ta nghĩ rằng kẻ trộm đã lấy cắp của nạn nhân bất ngờ xuất hiện.

Góa phụ đáng ngờ

Tuy bị nghi ngờ có liên quan đến việc nạn nhân Fred Oesterreich bị bắn chết, Dolly Oesterreich vẫn được thả tự do sau vài ngày thẩm vấn vì không có đủ chứng cứ để kết tội.

Vụ án mạng này được coi là vụ giết người cướp của. Dolly Oesterreich thừa kế toàn bộ tài sản của người chồng xấu số và chuyển tới một căn nhà khác với lý do muốn thoát khỏi ký ức khủng khiếp về cái chết của chồng.

Sau khi chồng chết không lâu, Dolly nảy sinh tình cảm với luật sư phụ trách giải quyết vụ việc của chồng là Herman S. Shapiro. Một ngày, Dolly đã tặng người tình luật sư chiếc đồng hồ kim cương rất giá trị. Shapiro sau đó nhận ra chiếc đồng hồ này chính là chiếc mà người ta nghĩ rằng kẻ trộm đã lấy cắp của Fred. Lúc này, Dolly lại nói đã tìm thấy nó dưới đệm và thấy không cần thiết phải báo cảnh sát về việc đó.

Shapiro bằng lòng với câu trả lời và không hỏi gì thêm. Người đàn ông này đeo nó thường xuyên. Tới một ngày, cảnh sát trưởng Herman Cline đã nhìn thấy. Sau khi nghe câu chuyện mà Shapiro kể lại, ông càng dấy lên sự nghi ngờ.

Cline cầm chiếc đồng hồ đến trước mặt Dolly. Một cách bình thản, người đàn bà này thừa nhận đã mua cho người tình chiếc đồng hồ giống với của người chồng quá cố. Tất nhiên, vị cảnh sát trưởng không tin vào điều đó. Ông đã tìm ra cửa hàng từng bán đồng hồ cho Fred Oesterreich. Sau khi kiểm tra, chủ cửa hàng xác nhận đây chính là chiếc của vị giám đốc này.

Quả phụ Dolly Oesterreich lập tức bị bắt giữ vì tội giết người cấp độ một.

Người đàn ông bí ẩn

Biết tin Dolly Oesterreich phải ngồi tù, một doanh nhân có tên là Roy H. Klumb vội tìm tới cảnh sát trưởng Herman Cline khai báo. Người đàn ông này cho biết Dolly từng có quan hệ yêu đương với mình. Dolly có hai khẩu súng, một khẩu đã nhờ Klumb vứt bỏ còn một khẩu nhờ hàng xóm. Với cả hai người, Dolly đều giải thích rằng mình sở hữu loại súng giống với hung khí đã giết chồng và người phụ nữ này không muốn cảnh sát nghĩ mình là thủ phạm.

Những thông tin này càng khiến các thám tử chắc chắn rằng Dolly Oesterreich có liên quan tới cái chết của Fred Oesterreich. Tuy nhiên, họ vẫn không thể lý giải làm thế nào người phụ nữ này có thể tự khoá mình trong tủ quần áo. Hai khẩu súng, tang vật của vụ án cũng được tìm thấy nhưng chúng đều bị ăn mòn, hư hại nặng nề nên không thể xác định được đâu mới là vũ khí giết người. Do không thể tìm được bằng chứng rõ ràng, tất cả cáo buộc chống lại Dolly Oesterreich cuối cùng đều bị gỡ bỏ.

Thoát án, Dolly tiếp tục sống cùng với Shapiro. Dù còn nhiều nghi ngờ nhưng nhóm điều tra đành phải chấp nhận kết luận cái chết của Fred Oesterreich do một kẻ trộm nào đó gây nên. Vụ án năm xưa tưởng chừng đã bị quên lãng thì bất ngờ đã xảy đến vào 7 năm sau đó, khi Dolly và Shapiro xảy ra mâu thuẫn dẫn đến chia tay.

Shapiro chuyển ra khỏi nhà Dolly nhưng cũng đồng thời đem một bí mật khủng khiếp của Dolly khai báo với cảnh sát. Và kể từ đây, sự xuất hiện của "người em cùng cha khác mẹ" sống ngay trên gác mái ngôi nhà của gia đình Oesterreich suốt nhiều năm trời cùng cuộc tình ngoài luồng với những chi tiết không thể tưởng tượng nổi đã được hé lộ
 

hoahongden12

Active Member

Cánh cửa bí mật

Trong khoảng thời gian Dolly Oesterreich bị giam giữ để điều tra về cái chết của Fred Oesterreich, Shapiro nhiều lần đến thăm Dolly và được người tình kể về một "người em cùng cha khác mẹ" của mình tên là Otto Sanhuber. Sẽ không có gì đáng nói nếu Otto không sống ngay trên gác mái ngôi nhà của gia đình Oesterreich và Dolly đã nhờ người tình giúp mình mang thức ăn tới cho “em trai”.

Dolly cho biết trong ngôi nhà của cô ta sẽ có một cánh cửa nhỏ dẫn lên gác mái. Nó nằm ở trên tầng hai, đằng sau một tủ quần áo. Shapiro chỉ việc ra ám hiệu bằng cách gõ ba lần vào cánh cửa đó, Otto sẽ mở cửa.

Câu chuyện này đã khiến Shapiro vô cùng kinh ngạc nhưng đang trong “men say tình ái”, anh đồng ý giúp người tình cũng như thề sẽ giữ bí mật về người em này. Shapiro thực hiện theo chỉ dẫn và đúng như những gì Dolly nói, cánh cửa căn gác mái mở ra, một người đàn ông có vóc dáng mảnh khảnh xuất hiện, gương mặt tỏ rõ sự bất ngờ.

Shapiro nhanh chóng giới thiệu và nói lý do có mặt ở đây. Sau phút bối rối, Otto dần trở nên vui vẻ. Câu chuyện sau đó đã được Otto chia sẻ hết sức cởi mở. Anh cho biết mình đã sống ở đây suốt 10 năm. Không chỉ có vậy, Otto còn kể hết cho Shapiro về Dolly và mối quan hệ của họ. Shapiro dần hiểu ra mọi chuyện.

Vào mùa thu năm 1913, chiếc máy khâu tại nhà của Dolly bị hỏng. Chồng bà đã gọi Otto Sanhuber, một nhân viên trong nhà máy, khi đó mới 17 tuổi, tới nhà sửa cho vợ. Vẻ trai tráng của Otto nhanh chóng lọt vào mắt xanh của bà chủ. Trước sự tán tỉnh khó cưỡng của người phụ nữ ngoài 30 tuổi, chàng trai này nhanh chóng ngã vào tay bà chủ.

Kể từ đó, Dolly và Otto bắt đầu một mối tình vụng trộm. Ban đầu, họ gặp nhau ở khách sạn hay nhà trọ của Otto, có nhiều hôm là tại chính nhà của bà khi chồng đi vắng. Những người hàng xóm bắt đầu xì xào bàn tán khi thấy Otto xuất hiện tại nhà Dolly ngày càng nhiều.

Lời dị nghị đã đến tai ông Fred và khiến người đàn ông nổi điên. Khi bị chồng chất vấn chuyện ngoại tình, Dolly nói đó chỉ là một tên bán sách, thường xuyên đến gõ cửa làm phiền, nhưng bà đã tìm cách để đuổi anh ta đi. Fred có vẻ xuôi lòng về câu trả lời đó.

Biết rằng không thể che giấu mãi chuyện ngoại tình nếu như Otto cứ ra vào nhà mình thường xuyên, Dolly bàn với nhân tình về việc đưa anh ta lên ở trên gác mái của căn hộ để tiện gặp gỡ. Vì quá si mê bà chủ, Otto đã xin nghỉ việc tại nhà máy, bắt đầu cuộc sống chui lủi trên căn gác nhỏ.

Nơi ở của Otto chỉ có một chiếc nệm, cây đèn dầu và một cái bô. Otto đã mang theo một số sách vở để đọc và viết. Dolly thường xuyên mang sách từ thư viện về nhà cho người tình. Otto đã viết nhiều câu chuyện viễn tưởng, một số được đăng trên tạp chí với bút danh bí mật.

Mỗi ngày, khi ông chủ ra khỏi nhà, Otto lại xuất hiện như người đàn ông thực thụ trong gia đình. Đôi tình nhân cùng nhau nấu ăn, lau sàn, rửa bát, dọn giường và sửa chữa đồ đạc hỏng.

Trong suốt 10 năm, Dolly giữ Otto trên căn gác mái mà chồng không hề hay biết. Khi Fred quyết định chuyển nhà tới Los Angeles, Dolly vẫn mang Otto đi cùng. Dolly kiên quyết đòi ngôi nhà mới phải có căn gác mái giống như nhà cũ. Khi người chồng thắc mắc, bà nói rằng đó là nơi cất giữ chiếc áo choàng lông thú quý giá. Và tất nhiên, Dolly là người nắm giữ chìa khóa căn gác.

Ban đêm, Otto cố gắng giữ yên lặng nhất có thể để Fred không nghi ngờ. Nhưng thỉnh thoảng, Fred cũng nghe thấy những âm thanh lạ trên căn gác mái. Có lúc ông còn phát hiện bị mất vài điếu xì gà nhưng cũng không bận tâm vì chẳng bao giờ nghĩ rằng có thể có ai khác trong nhà mình cho đến ngày 22/8/1922, cũng là ngày mà ông bị bắn chết.

“Vị khách” khó tin

Kể từ khi chuyển tới Los Angeles, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng Fred ngày càng trở nên trầm trọng, hai người thường xuyên to tiếng với nhau. Ngược lại, tình cảm của Dolly và Otto ngày càng mặn nồng.

Vào buổi tối ngày 22/8/1922, vợ chồng Dolly lại tiếp tục xảy ra cãi vã. Trên căn gác mái, Otto nghe thấy tiếng ầm ĩ và chợt Dolly la hét thất thanh. Thực ra Dolly chỉ vừa trượt chân trên tấm thảm nhưng do không nhìn thấy, Otto nghĩ rằng Fred đã đánh người tình của mình. Ngay lập tức, Otto lao xuống với khẩu súng ngắn trên tay.

Nhìn thấy người tình, bà Dolly trở nên hoảng hốt nhưng Fred còn bất ngờ hơn khi có người lạ xuất hiện trong khi cửa nhà đã khóa. Dường như hiểu ra vấn đề, ông cũng vội cầm ngay một khẩu súng. Trong lúc ẩu đả, Otto đã bắn chết Fred bằng 3 viên đạn.

Để che giấu tội ác, Dolly và Otto đã dựng hiện trường giả như một vụ cướp của giết người. Otto giấu đi chiếc đồng hồ đính kim cương của Fred, còn Dolly thì trốn trong tủ quần áo, nhờ Otto khóa lại từ bên ngoài.

Hàng xóm nghe thấy tiếng súng nổ đã báo cảnh sát. Khi cảnh sát đến, Dolly nói với họ rằng những tên trộm đã giết chồng mình.

Thoát tội ngoạn mục

Sau khi giết Fred, Otto vẫn phải ở lại căn gác mái. Nhưng dù đã có Otto, Dolly vẫn qua lại với nhiều người đàn ông khác ở bên ngoài, trong đó có luật sư Shapiro. Trong thời gian bị giam giữ để điều tra nhiều tháng, Dolly buộc phải nghĩ ra một câu chuyện kể cho Shapiro về "người em cùng cha khác mẹ" sống trên gác mái để nhờ mang thức ăn cho Otto.

Khi vị luật sư này gặp Otto, anh ta tỏ vẻ rất vui mừng và háo hức sau nhiều năm sống chui lủi trên căn gác mái và không được trò chuyện với bất cứ ai ngoài Dolly. Otto đã kể hết cho Shapiro về Dolly và mối quan hệ thực sự của họ.

Sau đó, vì không muốn liên lụy khi Dolly đang bị giam giữ, Otto đã bỏ trốn sang Canada, đổi tên thành Walter Klein và kết hôn với một người phụ nữ địa phương. Shapiro tiếp tục sống cùng với Dolly. Tuy nhiên, sau 7 năm chung sống, 2 người lại chia tay. Shapiro sau đó khai với cảnh sát tất cả mọi chuyện về Otto.

Ngay từ khi bắt đầu vụ án, các thám tử đều dành sự nghi ngờ cho người vợ nhưng không thể giải thích làm thế nào bà có thể giết chồng và tự khoá trái mình trong tủ quần áo. Họ không ngờ rằng còn có người thứ ba ở trong nhà.

Dolly và người tình Otto đã bị bắt giữ và bị buộc tội giết người, âm mưu che giấu tội phạm. Sau khi vụ án được lật lại, Otto bị kết án là có tội nhưng vụ án đã hết thời gian xét xử được một năm. Vì thế, người đàn ông này lại được thả.

Dolly với sự hỗ trợ của nhiều luật sư cũng không phải chịu bất cứ hình phạt nào vì không có bằng chứng rõ ràng để buộc tội bà. Otto biến mất kể từ đó còn Dolly lại tìm cho mình một người đàn ông khác và cùng chung sống đến cuối đời. Người phụ nữ này qua đời vào năm 1961 nhưng mối tình ngoài luồng khó tin của bà vẫn thường được nhắc lại nhiều năm sau đó.
 

hoahongden12

Active Member

Những vụ mất tích đột ngột

Tháng 10/1996, cảnh sát thị trấn Lloyd, quận Ulster, New York, Mỹ nhận được tin báo về sự mất tích của một người phụ nữ da trắng 30 tuổi tên là Wendy Meyers. Wendy có dáng người mảnh khảnh, đôi mắt và mái tóc màu nâu. Cô được nhìn thấy lần cuối tại nhà nghỉ Valley Rest ở Highland, một thị trấn nhỏ nằm bên bờ sông Hudson, phía nam thành phố Kingston.

Tháng 12/1996, chỉ hai tháng sau vụ mất tích đầu tiên, Gina Barone (29 tuổi) cũng được gia đình thông báo đã đột ngột biến mất. Gina có dáng người nhỏ nhắn với mái tóc màu nâu và một vết xăm hình đại bàng trên lưng. Ở cánh tay phải của cô có một hình xăm khác với dòng chữ “POP”. Lần cuối người ta trông thấy cô là hôm 29/11 ở thành phố Poughkeepsie trên một góc phố, khi đang cãi cọ với một người đàn ông.

Chưa đầy một tháng sau, ngày 1/1/1997, cảnh sát lại tiếp nhận thêm thông báo về một vụ việc tương tự, đó là Kathleen Hurley, một phụ nữ 47 tuổi. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy cô là khi cô đang đi bộ dọc trên phố Main ở khu vực trung tâm thành phố Poughkeepsie. Cũng giống như các nạn nhân trước đây, Kathleen là người da trắng, có mái tóc màu nâu và dáng người nhỏ nhắn. Trên bắp tay trái của cô có xăm chữ “CJ”. Cảnh sát phỏng đoán, các vụ mất tích của Hurley, Meyers và Barone dường như có liên quan đến nhau.

Hồ sơ về các vụ mất tích ngày càng nhiều. Ngoài sự trùng hợp có thể dễ dàng nhận ra là các cô gái biến mất trong hoàn cảnh tương tự nhau, cảnh sát không hề có thêm bất kỳ thông tin nào.

FBI “bó tay”

Khi quá trình điều tra các vụ mất tích trên chưa có tiến triển gì thì đến tháng 3/1997, thêm một phụ nữ là Catherine Marsh được thông báo bị mất tích. Người ta nhìn thấy cô lần cuối cùng vào hôm 11/11/1996 cũng ở thành phố Poughkeepsie. Bốn tháng đã trôi qua kể từ khi vụ án xảy ra nên công tác điều tra gặp nhiều khó khăn. Giống như các nạn nhân trước, đây cũng là một phụ nữ da trắng, vóc người nhỏ nhắn, mắt màu xanh và tóc nâu. Toàn bộ quần áo và tư trang của cô trong căn hộ vẫn còn nguyên. Vụ án rơi vào bế tắc bởi cảnh sát không thể tìm ra manh mối hoặc kẻ tình nghi nào.

Tháng 4/1997, cảnh sát Poughkeepsie quyết định liên hệ với Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) với mong muốn được hỗ trợ. Tuy nhiên, dù các nhân viên điều tra của FBI rất quan tâm đến các vụ án này nhưng cũng không thể làm gì hơn bởi để tìm ra nghi phạm, họ cần một hiện trường vụ án mà các vụ mất tích này không thể đáp ứng được.

Trong lúc mọi việc đang trở nên phức tạp vì chưa tìm ra manh mối thì ngày 13/11/1997, lại xảy ra một vụ mất tích nữa. Đó là Mary Healy Giaccone, 29 tuổi. Thông tin này lại do chính cảnh sát đưa ra. Mẹ của Mary mất vào tháng 10/1997. Cha của Mary đã đến yêu cầu cảnh sát tìm giúp con gái. Cảnh sát sớm phát hiện ra rằng lần cuối cùng người ta trông thấy Mary là vào tháng 2/1997 cũng ở trên các con phố của thành phố Poughkeepsie như những trường hợp trước đây.

Và cũng giống như tất cả các vụ khác, Mary có dáng người nhỏ nhắn. Cảnh sát đẩy mạnh công tác điều tra vụ này. Các vụ mất tích có nhiều điểm giống nhau đến kỳ lạ. Tất cả các cô gái đều sống ở Poughkeepsie hoặc gần nơi đó, có vóc người giống nhau, không có mối liên hệ với gia đình thường xuyên, vài người trước đây đã từng bị bắt vì tội mại dâm.

Lực lượng cảnh sát đã áp dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau để truy tìm tung tích của những phụ nữ bị mất tích. Tuy nhiên, họ cũng không tìm ra được thêm manh mối nào. Cuộc điều tra đi vào ngõ cụt.

Vụ án bế tắc

Rất nhiều biện pháp nghiệp vụ khác nhau để truy tìm tung tích của những phụ nữ bị mất tích. Máy bay trực thăng, các đội tìm kiếm tỏa đi khắp các khu vực khả nghi. Những nhóm cảnh sát nằm vùng cũng được thành lập để tìm kiếm manh mối. Các đối tượng tình nghi lần lượt bị thẩm vấn. Tuy nhiên, cảnh sát vẫn không thể có được chút thông tin giá trị nào.

Do một vài nạn nhân là gái mại dâm nên công việc điều tra trở nên khó khăn hơn bởi họ thường sẵn sàng lên xe với bất kỳ người khách nào. Cuộc điều tra đi vào bế tắc cho tới một ngày nhóm điều tra cùng phối hợp với Đơn vị phòng chống ma túy (NRU). Các nhân viên NRU dành phần lớn thời gian hoạt động trên đường phố. Công việc đòi hỏi họ hàng ngày phải tiếp xúc với những tên tội phạm, lưu manh và cả gái mại dâm.

Thời điểm này, họ nhận được khá nhiều phàn nàn của một số gái mại dâm về người đàn ông bản địa rất thô thiển và thường có hành vi bạo lực mỗi khi quan hệ tình dục với họ. Đó là Kendall Francois, sống tại số 99 phố Fulton, ngay sát trung tâm thành phố. Khi nhận được thông tin này, nhóm điều tra quyết định theo dõi Francois để tìm hiểu.

Francois thường duy trì một thói quen hàng ngày. Buổi sáng, anh ta thường lấy xe của gia đình đưa mẹ đến làm việc ở một bệnh viện tâm thần. Sau đó anh ta lái xe lượn lờ trên các con phố. Sau vài tuần theo dõi, cảnh sát không phát hiện được gì bất thường.

Đến cuối tháng 1/1998, Kendall Francois bị bắt vì tội tấn công gái mại dâm. Cô gái khai rằng cô đã lên xe cùng với Kendall Francois đến căn phòng của hắn trên tầng hai của tòa nhà ở số 99 phố Fulton. Họ cãi nhau về chuyện giá cả nên Kendall đã đấm vào mặt cô, khiến cô ngã xuống giường. Sau đó hắn bóp cổ cô. Cô gái mại dâm này buộc phải ngoan ngoãn quan hệ tình dục với Kendall và sau khi xong xuôi đã được Kendall lái xe đưa cô trở lại điểm hành nghề. Nạn nhân sau đó đến khai báo với cảnh sát. Kendall bị tòa án thành phố kết tội tấn công người khác và bị giam 15 ngày.

Tội ác chưa dừng lại

Ngày 12/6/1998, một người phụ nữ tên là Sandra Dean cũng được thông báo mất tích. Đây là một phụ nữ da trắng, có đôi mắt màu nâu và dáng người mảnh mai. Người ta tìm thấy chiếc xe ô tô của cô bị bỏ lại ở nơi cách nhà của Kendall chỉ ba con phố.

Sau đó không lâu, vào ngày 26/8/1998, tiếp tục một trường hợp khác đột nhiên biến mất. Đó là Catina Newmaster, 25 tuổi. Trường hợp biến mất của cô cũng tương tự như hầu hết các vụ đã xảy ra trước đây. Áp lực đưa các vụ việc ra ánh sáng ngày một tăng trong khi người dân thật sự hoang mang.

Cuối cùng, ngày 1/9/1998, vào lúc khoảng 8 giờ 30 sáng, một gái mại dâm trẻ và có vóc dáng nhỏ nhắn bị bóp cổ nhưng may mắt thoát chết. Kẻ tìm cách sát hại cô là một gã đàn ông to lớn mà cô đã nhìn thấy đêm hôm trước khi hắn đang lang thang dọc theo khu phố đèn đỏ.

Khi bị hắn siết cổ, cô gái đã cố gắng vùng vẫy để tìm cách thoát thân và van xin hắn tha mạng. Hắn đồng ý và lái xe đưa cô trở về. Họ lên một chiếc xe hơi màu trắng và đến một cây xăng thì cô gái lợi dụng sơ hở đã lao vọt ra ngoài và bỏ chạy. Nạn nhân sau đó đã cung cấp cho cảnh sát những thông tin rất có giá trị.
 

hoahongden12

Active Member

Manh mối đầu tiên

Sáng 1/9/1998, hai điều tra viên Skip Mannain và Bob McCready cùng đi phân phát tờ rơi để kêu gọi sự giúp đỡ của người dân truy tìm manh mối về sự mất tích khó hiểu của Catina Newmaster. Ngày hôm đó họ sẽ phải đi một quãng đường dài nên khi tới gần một trạm xăng, họ liền rẽ vào.

Ngay lập tức, họ trông thấy một người đàn ông to lớn đi chiếc xe Camry màu trắng. Mannain nhận ra đây là người trước đó vừa bị giữ 15 ngày vì tội tấn công gái mại dâm. Đó chính là Kendall Francois. Nhìn thấy người quen, Kendall cũng vẫy tay chào hai điều tra viên rồi đi thẳng.

Vào trạm xăng, một nhân viên liền tiến đến thông báo với Skip Mannain và Bob McCready rằng có một cô gái vừa lao ra khỏi chiếc xe trắng ấy và nói rằng cô bị tấn công trước khi chạy vội đi. Ngay lập tức, các cảnh sát đuổi theo hướng nhân viên trạm xăng chỉ để tìm ra cô gái đó. May mắn là cô chưa đi xa và đã tường trình lại toàn bộ sự việc.

Theo đó, vào khoảng 8 giờ 30 sáng, trong một căn phòng ngủ trên tầng hai ngôi nhà số 99 phố Fulton, sau khi quan hệ tình dục, cô bị bóp cổ nhưng may mắt thoát chết. Kẻ tìm cách sát hại cô là một gã đàn ông to lớn mà cô đã nhìn thấy đêm hôm trước khi hắn lang thang ở khu phố “đèn đỏ”.

Khi bị hắn siết cổ, cô gái đã cố gắng vùng vẫy để tìm cách thoát thân và van xin hắn tha mạng. Hắn đồng ý và lái xe đưa cô trở lại phố Main, nơi hắn đã đón cô trước đó. Họ lên một chiếc xe hơi màu trắng và hắn lái xe đến một cây xăng. Nhưng ngay lúc hắn ta rẽ vào trạm xăng, cô gái lao vọt ra và bỏ chạy. Sau khi được xem ảnh, nạn nhân khẳng định đó chính là Kendall Francois.

Gã đàn ông kỳ lạ

Có được những thông tin giá trị này, cảnh sát lập tức lên đường. Nhận thấy chiếc xe của Kendall Francois đang đi trên phố, các điều tra viên đã áp sát xe và yêu cầu người này đến sở cảnh sát để thẩm vấn. Francois rất bình tĩnh và đồng ý đi theo. Francois tỏ ra rất dễ gần và có thái độ hợp tác với cơ quan điều tra.

Cảnh sát cũng đi cùng hắn về nhà và lục soát căn phòng theo lời khai của cô gái bán dâm bị tấn công. Bên trong căn phòng cực kì bừa bộn. Rác rưởi ở khắp mọi nơi và bốc mùi vô cùng hôi thối kiểu xác chết đang bị phân hủy.

Cảnh sát thẩm vấn hắn vài giờ và hắn trả lời mọi câu hỏi nhưng Francois không thú nhận bất kỳ điều gì và hắn không làm gì nên tội. Tuy nhiên, các điều tra viên vẫn cảm thấy người đàn ông này có gì đó rất đáng ngờ.

Kendall Francois sinh ra và lớn lên ở thành phố Poughkeepsie. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, năm 1990, Kendall gia nhập quân đội. Năm 1993, Kendall theo học chuyên ngành nghệ thuật tự do tại trường Cao đẳng Cộng đồng ở Dutchess.

Trong khoảng thời gian 1996 - 1997, Kendall làm việc tại một trường trung học cơ sở. Các giáo viên ở đây nhận thấy Kendall là một gã kỳ lạ và có thái độ không đúng mực, nhất là đối với các học sinh nữ, thường vuốt ve tóc họ và nói những câu chuyện đùa liên quan đến tình dục.

Phân tích tất cả các chi tiết và bằng chứng có được, nhóm điều tra càng tin rằng Kendall Francois có liên quan tới một số nạn nhân mất tích. Họ liên tục đặt ra cho Kendall những câu hỏi. Bất ngờ, vài giờ sau đó, Francois đã cúi đầu thừa nhận liên quan đến vụ biến mất khó hiểu của Catina Newmaster. Lệnh khám nhà được lập tức ban hành.

Ngày 2/9/1998, ngay trong đêm, một đội điều tra viên, luật sư, các chuyên gia phân tích hiện trường và một nhóm cảnh sát lên đường đến địa chỉ số 99 phố Fulton. Tại đây, họ đã phát hiện nhiều điều kinh hoàng hơn cả những gì có thể tưởng tượng.

Cuộc tìm kiếm lúc 1 giờ sáng

Khi Francois bất ngờ cúi đầu thừa nhận liên quan đến vụ biến mất khó hiểu của nạn nhân Catina Newmaster, lệnh khám căn hộ số 99 phố Fulton được lập tức ban hành.

Ngày 2/9/1998, ngay trong đêm, một đội điều tra viên, luật sư, các chuyên gia phân tích hiện trường và một nhóm cảnh sát lên đường đến địa chỉ số 99 phố Fulton.

1 giờ sáng hôm sau, tất cả được tập hợp bên ngoài nhà của Kendall Francois. Sau những tiếng gõ cửa, ông McKinley Francois - bố của nghi phạm xuất hiện với nét mặt vô cùng ngạc nhiên. Cảnh sát đọc quyết định khám nhà đồng thời yêu cầu cả gia đình họ rời khỏi nhà đến sở cảnh sát thành phố để cuộc tìm kiếm có thể bắt đầu.

Căn nhà ngay lập tức được phong toả toàn bộ. Tuy nhiên sau đó, nhóm tìm kiếm quyết định thay đổi kế hoạch, thay vì tiến hành công việc trong đêm tối, họ sẽ lùi việc khám nghiệm hiện trường sang sáng sớm hôm sau.

Buổi sáng, lực lượng cảnh sát với đầy đủ trang bị cần thiết tiến vào ngôi nhà. Rác rưởi vương vãi khắp nơi, trên sàn nhà, trên các đồ vật dụng, trong chậu rửa và trong tủ đựng quần áo. Quần áo chất lên thành đống trên sàn nhà và ga trải giường vắt lên các cửa sổ. Một mùi hôi thối nồng nặc bốc lên, nhất là trong phòng ngủ của Kendall Francois.

Trong vòng một giờ, hàng trăm người dân hiếu kỳ kéo đến tụ tập bên ngoài toà nhà. Người ta bàn tán rằng Kendall Francois đã bị bắt giam vì tội giết người. Hàng chục phóng viên cũng nhanh chóng kéo đến ghi hình và đưa tin. Gia đình của một vài nạn nhân cũng đến chứng kiến sự việc.

Các nhân viên tiến hành công tác lục soát. Tại đây, lực lượng chức năng đã phát hiện nhiều điều kinh hoàng hơn cả những gì có thể tưởng tượng.

Phát hiện kinh hoàng

Một nhóm tìm kiếm đi xuống khu vực tầng hầm. Những chiếc đèn pin chiếu qua khắp căn phòng tối tăm. Bất ngờ, ở một góc phòng, họ thấy rõ một túi nhựa màu đen. Cách đó không xa lại một cái túi tương tự. Dù đã chuẩn bị trước tinh thần nhưng khi chiếc túi vừa được mở ra, tất cả những người chứng kiến vẫn không khỏi bàng hoàng. Trước mắt họ là những phần thi thể được phân nhỏ.

Trong khi đó, một nhóm tìm kiếm khác cùng lên căn phòng gác mái của ngôi nhà. Bên dưới những thứ rác rưởi, một túi nhựa trong suốt chứa bộ xương được ước tính là của ít nhất một người.

Thế rồi lần lượt từng thi thể khác đã được tìm thấy. ở khắp mọi nơi trong căn nhà. Trong ba ngày tiếp theo, lực lượng chức năng đã đưa 8 thi thể ra ngoài. Các xác chết ở trong những tình trạng phân huỷ khác nhau.

Thi thể đầu tiên được xác định là của Catina Newmaster, người phụ nữ được thông báo mất tích gần đây nhất. Tiếp đó, thi thể của Gina Barone, Sandra French và Catherine Marsh cũng nhanh chóng được xác định. Vài ngày sau là đến lượt thi thể của Wendy Meyers, Kathleen Hurley và Mary Giaccone.

Tại đây, cảnh sát còn phát hiện thấy một thi thể khác, sau này được xác định là của Audrey Pugliese, 34 tuổi, sống ở New Rochelle, bang New York; trường hợp mất tích của cô không được thông báo.

Trong thời gian xảy ra các vụ mất tích, Kendall Francois sống tại gia đình với bố mẹ và em gái. Những người này đều khai rằng, họ không hề hay biết gì các vụ sát hại. Kendall bị cáo buộc tội danh giết người hàng loạt.
 

hoahongden12

Active Member

Tội ác đầu tiên

Các nhân viên khám nghiệm tử thi đã sử dụng các thiết bị quét tia X đặc biệt trong ngôi nhà của Kendall Francois, để tìm các phần xương và bộ phận cơ thể còn được giấu rải rác trong các bức tường hoặc chôn trong ngôi nhà.

Dưới trời mưa như trút nước, việc tìm kiếm vẫn được tiếp tục. Cảnh sát đã đốn hạ một số cây nhỏ và bụi rậm phía trước ngôi nhà. Thân nhân và bạn bè của các nạn nhân đến đặt các bó hoa tưởng niệm dưới một gốc cây gần nhà Kendall Francois.

Tât cả 8 thi thể được đưa ra khỏi ngôi nhà số 99 đường Fulton. Kendall Francois sau đó cũng nhanh chóng khái nhận toàn bộ hành vi của mình.

Vào ngày 24/10/1996, khi cô gái bán dâm Wendy Meyers đang đứng ven đường Jewitt đợi khác thì Francois đi qua. Sau khi thống nhất về giá cả, Wendy lên xe đi theo Kendall về nhà. Tại phòng ngủ trên tầng hai ngôi nhà, Wendy khăng khăng đòi vị khách của mình phải trả tiền trước khi quan hệ tình dục, trong khi Kendall yêu cầu ngược lại.

Hai bên lời qua tiếng lại, Wendy định bỏ đi khiến Kendall vô cùng tức tối, liền xông tới bóp cổ cô. Hai bên giằng co nhau cho tới khi cơ thể Wendy bất động. Đó là lần đầu Kendall giết người. Sau khi bình tĩnh lại, Kendall liền đưa thi thể Wendy vào phòng tắm rồi tìm cách phân xác, trước khi cho vào chiếc túi nhựa màu đen và mang nó lên phòng gác mái.

Ra tay liên tiếp

Lần ra tay tiếp theo diễn ra sau đó chưa đầy 1 tháng. Nạn nhân là Gina Barone. Sau khi quan hệ tình dục, hai bàn tay Kendall bóp chặt cổ họng Gina và không buông ra cho đến khi cô chết. Francois đã giết nạn nhân thứ hai trong chiếc ô tô của mình rồi lái xe trở về nhà, lặng lẽ đưa thi thể nạn nhân lên phòng mình, sáng hôm sau cho nó vào chiếc túi màu đen rồi đặt bên cạnh thi thể Diane trên phòng gác mái.

Hai ngày sau khi giết Gina Barone, Kendall Francois lại siết cổ cô gái điếm 31 tuổi - Cathy Marsh. Một lần nữa, cách phi tang tương tự với hai nạn nhân trước đó được áp dụng.

Ngày 23/1/1998, Kendall Francois đang lang thang trên đường thì lại tiếp tục nhìn thấy cô gái bán dâm Lora Gallagher. Kendall thuyết phục cô tới nhà mình để quan hệ tình dục.

Trong lúc đang “ân ái”, Kendall Francois siết chặt cổ Lora cho tới khi cô bất tỉnh. Tuy nhiên, nạn nhân không từ bỏ dễ dàng và tỉnh lại sau đó. Người phụ nữ tiếp tục dùng hết sức chiến đấu với kẻ muốn giết chết mình và cuối cùng đã khiến Kendall bỏ cuộc. Sau khi bình tĩnh lại, Kendall đồng ý cho nạn nhân đi khỏi với điều kiện cả hai coi như không có cuộc gặp gỡ ngày hôm đó. Tuy nhiên, Lora đã tới trình báo cảnh sát và khiến Kendall bị giam giữ 15 ngày.

Lần giam giữ này không hề làm Kendall Francois sợ hãi. Kẻ sát nhân tiếp tục ra tay với các nạn nhân khác theo cách thường sử dụng.

Audrey đang tìm khách trên đường Noxon khi Kendall tới. Hai người nhanh chóng thương lượng giá cả và cô lên xe. Thật không may cho Audrey khi trở thành nạn nhân tiếp theo của kẻ giết người hàng loạt. Cô không thể xoay sở được với kẻ to lớn hơn mình rất nhiều. Thi thể cô bị vứt vào một cái hố nông trong chuồng bò vì giờ đây, căn phòng gác mái đã trở nên quá chật chội với số lượng xác chết ngày một tăng

Ngày hôm sau, Kendall Francois quyết định mang một số thi thể xuống tầng hầm, đào một ngôi mộ nông và cho tất cả xuống đó.

Ngày 25/8, Kendall thực hiện vụ giết người cuối cùng của mình. Nạn nhân là Catina Newmaster, bị giết chết ngay trong xe của Kendall và chôn trong chuồng bò cùng với Audrey.

Ngày 4/9/1998, Kendall Francois chính thức bị khởi tố.

Gia đình đáng ngờ

Lực lượng chức năng đã kết thúc cuộc tìm kiếm tại nhà của Kendall Francois sau gần 4 tuần lật tung mọi ngóc ngách trong căn nhà.

Trong thời gian xảy ra các vụ mất tích, Kendall Francois sống tại gia đình với bố mẹ và em gái. Những người này đều khai rằng, họ không hề hay biết gì các vụ sát hại. Theo lời khai của Kendall, khi bố mẹ và cô em gái phát hiện trong nhà có mùi hôi thối thì hắn bảo rằng, có những con vật chết trong căn phòng áp mái và hắn không thể vứt những xác thối này đi được.

Từ đây, dư luận đặt câu hỏi, tại sao những người trong gia đình Francois, đặc biệt là bà mẹ vốn làm y tá của một bệnh viện lại có thể dễ dàng chấp nhận cách lý giải này của hắn khi phát hiện ra trong nhà có mùi xác thối đang phân hủy. Ban đầu nhiều người đặt nghi ngờ những người thân của Kendall là đồng phạm của vụ án. Tuy nhiên, Kendall đã tuyên bố rằng không có ai khác giúp mình thực hiện các tội ác. Cuộc điều tra của cảnh sát sau đó cũng cho thấy kết quả tương tự.

Kendall Francois bị khởi tố với tội danh giết người hàng loạt và lần đầu tiên xuất hiện tại phiên tòa ở quận Dutchess để đối diện với các cáo buộc giết người vào ngày 9/9/1998.

Mặc một chiếc quần đen và áo sơ mi trắng, Kendall tỏ ra bình thản, không hề biểu hiện bất kỳ cảm xúc gì và dường như không liên quan gì đến phiên tòa đang diễn ra. Điều này khiến những người có mặt tại phiên tòa đều cảm thấy tức giận.

Bản án gây phẫn nộ

Trong phiên tòa thứ hai diễn ra vào hôm 13/10/1998, bồi thẩm đoàn đã đưa ra một bản cáo trạng với 8 tội giết người cấp độ hai và một tội danh tấn công cấp độ hai dành cho Kendall Francois. Với những hành vi vô cùng man rợ, dư luận mong chờ một kết cục xứng đáng với bản án tử hình cho kẻ sát nhân.

Các luật sư của hắn hoàn toàn nhận thức được điều này nên tại phiên xét xử hôm 23/12 họ đã quyết định để cho thân chủ thú nhận tội giết người và đưa ra một yêu cầu thỏa thuận nhận tội với bản án chung thân. Điều này đã khiến những người có mặt tại phiên tòa và gia đình các nạn nhân hết sức phẫn nộ.

Cuối cùng, tuy Francois tự nhận mức án cao nhất là tử hình nhưng theo luật pháp, rốt cuộc hắn chỉ bị tuyên án chung thân.

Cho rằng mức án này là chưa thỏa đáng, bên nguyên đơn kháng cáo và vụ việc lại được chuyển cho tòa án bang. Ngày 31/3/2000, vụ án được đem ra xét xử lại. Sáng 7/8/2000, phòng xử án ở quận Dutchess đông nghẹt người đến xem. Họ chờ đợi hàng tiếng đồng hồ để nghe phán quyết của tòa án.

Trong suốt phiên tòa, Kendall Francois liên tiếp phải nghe những lời nguyền rủa từ người thân của các nạn nhân. Phiên tòa kết thúc với bản án 25 năm tù cho mỗi tội danh giết người. Với hành vi sát hại tám nạn nhân, tổng mức án Kendall phải là 200 năm tù cùng 3 năm giam giữ vì tội danh tấn công.

Kendall Francois không được đóng tiền bảo lãnh và sẽ bị giam giữ trong xà lim 23 giờ mỗi ngày. Ngày 10/8/2000, Francois được giải đến nhà tù Attica nghiêm ngặt nhất ở New York để thi hành án.
 

hoahongden12

Active Member

Sự biến mất khó hiểu

Đêm ngày 27/7/1993, James King bị đánh thức bởi tiếng tiếng còi inh ỏi của một chiếc xe tải. Khi chiếc xe vừa đi qua nhà mình ở Ellis (bang Texas, Mỹ), nhìn ra cửa sổ, James thấy chiếc ô tô khác đang đậu trước cửa có màu nâu và đã tắt đèn. James liền bước ra khỏi giường và đi ra phía cửa chính.

Lúc này, anh thấy cậu con trai 14 tuổi của mình, Brian King cũng vừa ra khỏi cửa, tiến đến chiếc xe nói chuyện với người ngồi bên trong. James không nhìn rõ mặt người đó mà chỉ nghĩ rằng đó là bạn của Brian.

Sau đó, James King đi vào phòng vệ sinh. Khi quay lại, cả Brian và chiếc xe đều biến mất. James vào phòng tiếp tục ngủ. Sáng sớm hôm sau, hai vợ chồng James dậy và gọi các con xuống ăn sáng. James lên phòng kiểm tra mới biết Brian không có ở nhà. Sang phòng bên cạnh, James nhận thấy con gái riêng 13 tuổi của mình, Christina Benjamin, cũng biến mất.

Vợ chồng James hốt hoảng gọi điện cho người thân và bạn bè hai đứa trẻ nhưng không ai thấy chúng. Cô con gái út của James, ngủ chung với Christina cho biết Brian đã vào phòng gọi Christina ra ngoài.

Mặc dù lo lắng, James và vợ là Donna Benjamin vẫn quyết định chờ đợi vì cho rằng chúng chỉ đi tập thể dục. Nhưng rồi nhiều tiếng trôi qua, biết có chuyện không hay đã xảy ra, James gọi điện cho cảnh sát thông báo hai đứa trẻ mất tích.

Cách ra tay tàn nhẫn

Hai hôm sau, vào ngày 29/7, một chiếc xe tải đang đi thì phụ xe bất ngờ phát hiện một vật gì đó màu trắng trong bụi cây ven đường Cutoff. Linh cảm có gì đó đặc biệt khiến người phụ xe muốn dừng lại để tìm hiểu.

Anh và một người khác trên xe chui qua hàng rào dây kẽm gai vào bên trong phía bụi cây, một mùi hôi thối bất ngờ sộc lên. Họ phát hiện xác một nạn nhân nữ không còn nguyên vẹn trong tình trạng khỏa thân nằm úp sấp. Choáng váng, họ vội gọi điện cho cảnh sát.

Tiến hành thu thập bằng chứng xung quanh hiện trường, cảnh sát bất ngờ hơn khi phát hiện thêm cái xác nguyên vẹn của một thanh niên trẻ khác bên bờ suối cách đó khoảng 300 mét, trên người vẫn nguyên quần áo.

Theo kết quả giám định pháp y, nạn nhân nam còn khá trẻ, khoảng chừng 15-16 tuổi, chết do bị bắn hai phát đạn cỡ 0.22 vào đầu. Nạn nhân nữ cũng bị bắn bởi cùng khẩu súng đó và bị đâm nhiều nhát ở vùng bụng, đùi. Trên người nạn nhân có nhiều vết thâm, đặc biệt vết ở phía cổ tay như vết còng tay.

Cách hung thủ ra tay với nạn nhân nữ thực sự khiến các điều tra viên và bác sĩ pháp y phải sốc. Nhận định ban đầu, có vẻ nạn nhân đã bị lạm dụng tình dục trước khi bị giết chết, quần áo nạn nhân đã bị cởi bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, khám nghiệm pháp y lại kết luận không có dấu hiệu nạn nhân bị lạm dụng.

Tìm kiếm xung quanh hiện trường, khu vực gần dây thép gai, cảnh sát tìm thấy một sợi tóc dài màu vàng, có thể là tóc của nạn nhân nữ hoặc tóc của hung thủ bị vướng lại khi hắn vượt qua phía hàng rào.

Cả hai nạn nhân đã bị giết cách đây khoảng hai ngày. Thời tiết nóng nực ở Ellis khiến cái xác nhanh bị phân hủy cùng việc mất đi một số bộ phận đã gây khó khăn cho việc nhận dạng.

Đúng lúc đó, trong túi quần nạn nhân nam, cảnh sát tìm thấy một chiếc ví màu đen, bên trong có thẻ thư viện ở Terrell, thị trấn bên cạnh Ellis, chủ thẻ là James King. Nhớ đến thông báo mất tích từ phía người nhà hai đứa trẻ gồm một trai một gái, cảnh sát đã liên lạc với James King. Mang theo hy vọng về một sự nhầm lẫn nhưng người cha này đã gần như chết đứng khi nhận ra đây chính là hai đứa con của mình.

Những sợi tóc màu vàng

Cách mà hung thủ ra tay với Christina quá dã man, như thể có một mối thù rất sậu sắc. Tuy nhiên, người thân, bạn bè của Christina đều nhận định đây là một cô bé đáng yêu, ngoan ngoãn nên không thể có kẻ thù. Hơn nữa, James cho biết bản thân Christina còn quá ít tuổi để có kẻ thù như vậy. James cũng cho biết gia đình anh trước giờ luôn hòa đồng, không hề gây hấn với ai.

Theo lời khai của cô con gái út nhà James King, vào buổi tối Brian và Christina biến mất, Christina đã ngủ cùng phòng với cô bé này. Khi chuẩn bị tắt đèn, Brina đứng ở cửa phòng gọi Christina ra ngoài. Christina không nói gì mà chỉ khẽ gật đầu rồi sau đó cả hai cùng rời đi. Cô bé út cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ và chỉ tỉnh dậy khi cha lên phòng gọi vào sáng hôm sau.

James King cho biết các con của mình rất hiếm khi ra ngoài vào buổi tối và nếu có đi thì cũng sẽ xin phép. Cho nên, khi nhìn thấy Brian tiến tới chiếc xe lạ, anh chỉ nghĩ rằng cậu gặp bạn rồi sẽ vào nhà luôn.

Christina là một cô bé xinh xắn với mái tóc màu vàng óng. Màu tóc giống như màu những sợi tóc được tìm thấy trên hàng rào thép gai tại nơi phát hiện xác chết. Ban đầu, nhiều người cho rằng đó là tóc của nạn nhân nhưng sau khi đối chiếu mẫu tóc thu được ở hiện trường và mẫu tóc trên chiếc lược của Christina, các nhà điều tra nhận thấy hai mẫu này là của hai người khác nhau.

Trong khi đó, trên quần của Brian cũng có dính một vài sợi tóc, nó trùng với mẫu tóc trên hàng rào. Từ đây, cảnh sát đã có cơ sở để tin rằng rất có thể đây chính là tóc của hung thủ.

Trên đôi giày của Brian, nhóm điều tra phát hiện một vài sợi nhỏ. Khi soi dưới kính hiển vi, các chuyên gia nhận thấy đó là loại sợi được dùng làm thảm trải của một loại xe 4 chỗ được sản xuất ở Nhật Bản, nhiều khả năng là thảm trên chiếc xe James đợi Brian và Christina vào buổi tối hôm đó. Các nhân viên điều tra hi vọng từ chi tiết này có thể tìm được chủ nhân chiếc xe và tìm ra hung thủ.

Những nghi vấn đầu tiên

Theo thông tin thu được từ một người hàng xóm của James, vào buổi tối hai ngày trước đó, người này đang đi dạo bộ thì tình cờ nhìn thấy Brian và Christina đi với một nam thanh niên lớn tuổi hơn mà hai người gọi là Jason.

Cũng trong khoảng thời gian này, nhân viên bán hàng tại địa phương cho biết đã bán đạn cho một khẩu súng cỡ nòng 0.22, hai con dao và còng tay cho một nam thanh niên. Bất ngờ người này cũng có tên là Jason, tên đầy đủ là Jason Eric Massey và cũng có mái tóc màu vàng.

Một cuộc điều tra sau đó cho thấy người anh họ của Jason Massey sở hữu một khẩu súng lục cỡ nòng 0.22 nhưng đã cất tại nhà bà ngoại của mình trước khi đi du lịch. Khi trở về, anh này không còn tìm thấy nó. Khi hỏi thăm, một thành viên trong gia đình nói rằng có nhìn thấy khẩu súng được Jason dắt lên người.

Một người khác trong khu phố nhà nạn nhân tên là Nowlin cũng biết Jason Massey. Anh khai rằng đã nhìn thấy Jason từng đến nhà Christina vài lần hồi đầu tháng 7, trong đó có một lần đã khá muộn. Jason còn bấm còi liên tục để gọi Christina. Nowlin biết Jason đã lâu. Jason từng nói với anh rằng, nếu trong khu vực xuất hiện một kẻ giết người hàng loạt thì đó chính là mình.

Từ những thông tin này, cảnh sát quyết định tập trung hướng điều tra vào Jason Massey.
 

hoahongden12

Active Member

Quá khứ đầy bất ổn

Jason Eric Massey sinh ngày 7/1/1973 và không hề biết cha mình là ai. Mẹ của Jason một người phụ nữ đơn thân. Để có tiền nuôi con và trang trải chi phí sinh hoạt, người mẹ phải tới các quán bar kiếm tiền, để Jason thường xuyên ở nhà một mình, bị bỏ đói và đánh đập.

Các chuyên gia tâm lý cho rằng việc sinh ra và lớn lên trong môi trường như vậy ít nhiều đã ảnh hưởng tới tính cách của Jason. Từ nhỏ, cậu đã nổi tiếng chuyên gây rối, phá phách trong khu vực và bỏ học khi chưa hết lớp 9. Tuy còn khá ít tuổi nhưng Jason đã nghiện rượu và thường xuyên sử dụng ma túy.

Jason từng nhiều lần phạm tội trộm cắp và tàn nhẫn với động vật. Năm 1993, cảnh sát đã bắt giữ Jason khi đang giết một con mèo ngay trong xe của mình. Jason phải ngồi tù một thời gian tháng vì vụ đó. Một lần khác, Jason đã gọi điện mô tả cho bạn gái nghe về giấc mơ của mình. Trong giấc mơ đó, cô đã bị hắn giết chết. Khi bị người này chia tay, Jason đã giết chết dã man con chó của cô rồi lấy máu bôi lên đầy xe của bạn gái cũ với ý định dạy cho cô một bài học nhớ đời.

Một vài ngày trước khi cảnh sát phát hiện ra xác của Brian và Christina, cảnh sát nhận được thông báo một con dê bị giết man rợ ngay sau một cửa hàng ăn uống trong khu vực. Khi cảnh sát có mặt, họ thấy chiếc xe Subaru và một chiếc vòng tay có khắc chữ "Jason" ở hiện trường. Mọi người có mặt đều có thể đoán thủ phạm chính là Jason Massey.

Giáo viên dạy lớp chín và một người bạn hồi lớp bảy của Massey đã làm chứng cho những hành vi cực kỳ đáng lo ngại của Jason. Cả hai đều nói rằng Jason bị ảm ảnh bởi những hình ảnh bạo lực và thường nói về những câu chuyện chết chóc. Thần tượng của Jason là Charles Manson, thủ lĩnh của một nhóm chuyên giết người. Jason thường tìm kiếm, sưu tầm những bài viết về băng nhóm này.

Cảnh báo của bác sĩ

Tháng 6/1991, bác sĩ tâm thần Kenneth Dekleva đã từng kiểm tra tình trạng tâm thần của Massey theo yêu cầu của mẹ hắn. Mẹ Jason cảm thấy con trai mình có dấu hiệu bất thường khi bà phát hiện trong máy tính của Jason có lưu những hình ảnh bạo lực, những bài báo nói về các vụ giết người và đặc biệt là một danh sách với tên những cô gái mà Jason có ý định giết.

Theo bác sĩ Dekleva, Jason say mê và bị ám ảnh bởi những hình ảnh bạo lực, hắn có ý định trở thành một kẻ giết người nổi tiếng như thần tượng của hắn. Jason coi đó là một hành trình lớn. Hắn liệt kê những cô gái mà mình muốn hãm hiếp và giết chết như một cách để nhiều người biết đến mình.

Bác sĩ Dekleva đã kết luận Jason là mối đe dọa lớn đối với xã hội, hắn sẽ làm những chuyện kinh khủng đối với người khác, và thậm chí có thể nghĩ đến chuyện tự sát. Tuy nhiên, sau kết luận của bác sĩ Dekleva, Jason vẫn không được đưa vào viện để điều trị.

Đầu năm 1993, Jason đã bị cảnh sát chặn lại khi đang đi xe. Tại đây, ngoài cần sa, cảnh sát phát hiện xác một con mèo với sợi dây quanh cổ, một con dao ba ngạnh và nhật ký liệt kê những cái tên có dấu kiểm bên cạnh chúng được tìm thấy trong xe của anh ta. Jason không dừng sự hoang tưởng của mình ở những suy nghĩ bạo lực mà còn biến nó thành hành động khi đi mua vũ khí.

Khám xét nơi ở của Jason, cảnh sát tìm thấy nhiều bài báo viết về những vụ giết người, nhiều tranh ảnh có nội dung khiêu dâm, một hộp dao, một chiếc còng tay có dính máu và một vài bộ quần áo của phụ nữ.

Theo chuyên gia giám định, hai nạn nhân bị giết vào khoảng giữa đêm ngày 26/7/1993 cho tới khoảng 10h sáng ngày 27/7 và Jason không có bất cứ bằng chứng ngoại phạm nào trong thời gian đó.

Gần như chắc chắn Jason chính là hung thủ của vụ giết người nhưng cảnh sát vẫn cần nhiều bằng chứng hơn nữa và họ dường như đã không mất nhiều thời gian cho việc này.

Gã thanh niên kỳ lạ

Trong quá trình tìm hiểu thêm thông tin liên quan đến Jason, cảnh sát đã gặp một cô gái trẻ tên là Christina Erwin là hàng xóm của nghi phạm. Erwin cho biết buổi tối ngày 26/7, cô nhìn thấy Jason có những biểu hiện bất thường. Nam thanh niên cầm một khẩu súng lục và một chiếc túi bên trong có chiếc còng tay. Erwin thậm chí đã nói với chị gái mình về điều này.

Chủ một của hiệu rửa xe địa phường cũng cung cấp tin tức quan trọng. Theo đó, ông đã nhìn thấy Jason khi hắn đang ném một vật gì đó vào thùng rác gần nhà ông, lúc đó khoảng 23h30 một ngày cuối tháng 7. Jason phát hiện có người đã nhìn thấy hành vi của mình nên vội vã leo lên chiếc xe Sabura màu nâu và nhanh chóng rời đi.

Cảnh sát đã đến nơi đặt thùng rác này kiểm tra và phát hiện một chiếc băng đô màu đỏ dính máu, trên băng đô có một vài sợi tóc vàng, phần kính xe bị vỡ và tấm biên lai có tên Jason trên đó.

Theo chuyên gia giám định, nạn nhân bị giết vào khoảng giữa đêm ngày 26/7 cho tới khoảng 10h sáng ngày 27. Jason không có bất cứ bằng chứng ngoại phạm nào trong thời gian đó.

Lệnh khám xét được ban hành. Tại nhà của nghi phạm, cảnh sát đã tiến hành lục soát và tìm thấy hai bài báo về vụ giết người, còng tay và hộp dao. Trên chiếc xe Sabura của Jason, họ cũng phát hiện một vài vết máu đã khô trên bảng điều khiển, vô lăng, ghế, dao và búa. Cảnh sát cũng tìm thấy băng keo dính một vài sợi lông và những lọn tóc vàng. Tất cả được thu thập để mang đi giám định.

Những bằng chứng rõ ràng

Trong thời gian chờ kết quả giám định pháp y, cảnh sát đã yêu cầu Jason lên trình diện. Tại đây, họ cho nghi phạm xem những bức ảnh chụp lại hiện trường vụ án Christina bị giết hại với ý định gây sức ép cho Jason buộc hắn khai nhận toàn bộ sự việc. Tuy nhiên, Jason tỏ ra rất bình tĩnh và phủ nhận toàn bộ lời cáo buộc, hắn khẳng định mình không hề giết Brian và Chritina.

Nhưng trong khi quanh co chối tội, hắn lại vô tình chỉ chỗ phi tang các bộ phận còn thiếu của cái xác. Theo Jason, hắn đã giấu chúng trong một khu rừng gần hiện trường. Tuy nhiên, cảnh sát đã không tìm thấy gì sau nhiều giờ tìm kiếm dựa trên lời khai đó.

Ngoài những lời trên, Jason không trả lời thêm bất cứ câu hỏi nào của cảnh sát và yêu cầu gặp luật sư của mình.

Cuối cùng, kết quả xét nghiệm ADN cũng đã có. Không nằm ngoài dự đoán của cảnh sát, máu của Christina và máu được tìm thấy trên xe có sự trùng khớp. Theo kết quả giám định pháp y, loại sợi được tìm thấy trên giày của Brian chính là loại sợi được làm lót xe của Jason. Những sợi tóc trên hàng rào gai là của Jason và máu trên chiếc băng đô cũng là của Chritina lẫn vào máu Jason. Cảnh sát cho rằng Chritina được đưa đến khu hàng rào bằng chiếc xe Subaru sau khi đã bị đánh trọng thương.

Tất cả bằng chứng đã đủ để buộc tội Jason. Lệnh bắt giữ chính thức được ban hành. Sau đó, Jason bị truy tố về hai tội danh giết người và đối mặt với án tử hình. Lúc này, cảnh sát cũng làm rõ được quá trình gây tội ác cũng như động cơ của hung thủ.

Động cơ điên rồ

Không lâu sau khi Jason bị bắt, một người dân bất ngờ phát hiện một chiếc bao lạ trong khu rừng nơi Jason từng khai rằng đã phi tang phần còn lại của cái xác ở đó. Người này thực sự sốc khi phát hiện những thứ bên trong.

Cảnh sát nhanh chóng nhận được thông tin vụ việc. Dưới nhiều lớp bọc là xác của những con vật khác nhau với những tờ giấy ghi chú được viết bằng tay, ngoài ra còn có một cuốn sổ cũ mang dòng chữ “Những suy nghĩ của Jason Eric Massey ”.

Cuốn sổ được viết từ năm 1989 và kết thúc vào năm tháng 7/1993, đúng thời điểm xác Brian và Christina được phát hiện. Trong cuốn sổ, Jason ghi lại chi tiết những hành vi tội ác của mình, có một đoạn Jason viết về Christina Benjamin vài ngày trước vụ án kinh hoàng. Theo đó, nam thanh niên này thể hiện mong muốn giết chết Christina, từng bước trở thành “cỗ máy giết người”, một tên sát nhân nổi tiếng nhất nước Mỹ. Mục tiêu hắn đưa ra là giết chết 700 người trong vòng 20 năm tới.

Paul Demomio, một người quen với Jason cho biết trước đây, hai người từng bàn về kế hoạch tấn công những cô gái trẻ. Demomio giúp Jason giết những con vật và hỗ trợ hắn trong một vài vụ cướp. Demomi xác nhận cuốn sổ được tìm thấy là của Jason. Đây cũng là một bằng chứng quan trọng để buộc tội Jason.

Kẻ tâm thần không có khả năng điều trị

Theo điều tra của cảnh sát, Jason biết Christina Benjamin vào giữa tháng 7/1993 qua một người bạn. Theo người bạn này, Jason từng nói tiếp cận và giết chết Christina nhưng vào thời điểm đó, người này không tin những gì bạn mình nói bởi vì điều đó nghe có vẻ kỳ quái và nhiều năm nay đã quá quen vì Jason liên tục nói về việc giết các cô gái.

Jason sau đó thường xuyên nói chuyên với Christina và lên kế hoạch dụ dỗ Christina ra khỏi nhà vào đêm 26/7 để dễ dàng ra tay và hắn đã thành công khi dụ được cả Brian và Chistina lên xe.

Luật sư bào chữa cho Jason, Mike Hartley không đồng ý với kết quả điều tra. Hartley cho rằng trong vụ án này, cảnh sát cần thực hiện một cuộc điều tra toàn diện hơn, không nên dựa vào những chi tiết “trùng khớp” liên quan đến Jason mà bỏ sót những đối tượng khác có liên quan. Không có gì chắc chắn người trên chiếc xe đêm hôm đó là Jason hoặc có thể còn người nào khác nữa.

Để bào chữa cho Jason, luật sư Hartley còn đưa ra những chi tiết được coi là nguyên nhân tác động đến hành vi của Jason. Hartley hi vọng Jason sẽ nhận được sự thông cảm từ phía dư luận. Jason là một đứa trẻ đáng thương, không có bố và thiếu sự quan tâm của mẹ. Hartley cho rằng đó là lý do khiến Jason bị ảnh hưởng tâm lý nặng nề.

Bác sĩ tâm thần Clay Griffith sau khi nghiên cứu hồ sơ của Jason Eric Massey khẳng định đây là một kẻ tâm thần không có khả năng điều trị và là mối nguy hại cho xã hội.

Ngày 12/10/1994, Jason Eric Massey bị kết án tử hình phải đến 7 năm sau, vào lúc 18h20 ngày 3/4/2001, Jason Eric Massey mới bị tiêm thuốc độc, khi đó hắn 28 tuổi.

Khi được đưa lên chiếc giường hành hình, Jason muốn chuyển lời xin lỗi tới gia đình hai nạn nhân và khẳng định một lần nữa đã phi tang một phần cái xác dưới một dòng sông. Tuy nhiên, phần xác này không bao giờ được tìm thấy và cũng chẳng ai biết lời khai này có phải là sự thật hay không.
 

hoahongden12

Active Member

Cái chết khủng khiếp

Ngày 26/10/1965, đường dây nóng của Sở cảnh sát thành phố Indianapolis thuộc bang Indiana (Mỹ) nhận được cuộc điện thoại đặc biệt thông báo phát hiện xác chết của một cô gái. Tuy cố giả giọng của một thanh niên nhưng viên cảnh sát trực tổng đài vẫn nhận ra đầu dây bên kia chỉ là một cậu bé. Ngoài ra, cậu bé này có vẻ gì đó khá hồi hộp, run rẩy. Dường như sợ bị lộ, cậu vội vàng cúp máy sau khi lắp bắp thông báo địa chỉ phát hiện xác chết là ở số nhà 3859 đường phía đông New York.

Ban đầu, viên cảnh sát cho rằng đó chỉ là cuộc điện thoại nặc danh của một cậu bé nghịch ngợm. Đây là việc thường xuyên xảy ra với họ. Tuy nhiên, dù cho rằng sẽ chẳng tìm thấy gì ở địa chỉ ấy nhưng theo nguyên tắc, cảnh sát vẫn phải tới xác minh nguồn tin.

Tới nơi, căn nhà tồi tàn, im lìm và không có vẻ gì là vừa xảy ra một vụ án mạng. Gọi cửa một lúc nhưng không thấy ai trả lời, một cảnh sát liền tiến tới nhìn vào bên trong qua khe cửa. Bất ngờ, cánh cửa mở toang, thì ra nó không hề bị khóa. Hai viên cảnh sát cùng tiến vào bên trong, vừa đi vừa gọi to. Và rồi, trái với những gì còn nghi ngờ, họ phát hiện xác chết của một cô gái ở trên giường.

Các thám tử và bác sĩ cùng được điều động tới ngôi nhà này ngay sau đó. Ai cũng cảm thấy khiếp sợ khi chứng kiến khắp thân thể nạn nhân là vô số những vết thâm tím cùng với đó là vết châm đốt bằng tàn thuốc lá. Đáng chú ý, trên cơ thể cô gái có một hình xăm với dòng chữ nguệch ngoạc: “Tôi là một gái điếm và tôi tự hào vì điều đó”.

Các bác sĩ xác định nạn nhân đã phải trải qua một cái chết khủng khiếp và cũng chỉ diễn ra cách đây chưa lâu, có thể ngay trước khi cảnh sát nhận được cuộc điện thoại nặc danh. Bằng các biện pháp nghiệp vụ, họ nhanh chóng tìm ra danh tính nạn nhân. Đó là Sylvia Marie Likens, 16 tuổi.

Xác định nghi can

Trước đó, Sylvia Marie Likens được nhiều người nhận xét là một cô thiếu nữ xinh đẹp, dễ thương, dịu dàng với mái tóc xoăn. Ở trường, học lực của cô không nổi trội so với bạn bè nhưng Sylvia tỏ ra rất năng động. Cô thích trượt tuyết, nhảy. Bạn bè nói về Sylvia như một người khá khiêm tốn với nụ cười mỉm luôn thường trực.

Cô gái 16 tuổi sinh ra trong một gia đình có kinh tế khó khăn. Sylvia là người con thứ 5 trong số 6 anh chị em, trước Sylvia là 2 cặp sinh đôi và sau cô là đứa em tật nguyền Jenny Fay Likens. Bố mẹ Sylvia thường xuyên cãi nhau, đặc biệt là sau khi Jenny ra đời. Cô em út bị liệt càng làm không khí gia đình thêm căng thẳng.

Nhận được tin con gái mình đã chết, ông Lester Likens vô cùng sốc. Ông cho biết trước đó, vì hoàn cảnh gia đình, ông đã gửi Sylvia và Jenny Fay Likens cho người hàng xóm là Gertrude Baniszewski chăm sóc với thỏa thuận sẽ trả chi phí 20USD/ tuần. Gertrude là một người phụ nữ 37 tuổi sống bằng nghề trông trẻ. Bản thân người phụ nữ này cũng có 6 đứa con.

Tuy nhiên, khi cảnh sát tới thì không thấy mẹ con Gertrude và cũng chẳng ai biết họ đi đâu, đi vào lúc nào. Nhận định những người này có thể liên quan trực tiếp tới cái chết của Sylvia, cảnh sát đã lập tức tập trung lực lượng và đã tìm thấy Gertrude Baniszewski cùng những đứa con ở độ tuổi 11, 12 của mình khi họ đang trên đường rời khỏi thành phố. Tất cả sau đó đều bị áp giải về Sở cảnh sát lấy lời khai.

Giao trứng cho ác

Tại đồn cảnh sát, cha của nạn nhân – ông Lester Likens cho biết bản thân ông thời điểm đó không còn sự lựa chọn nào khác vì công việc ở rạp xiếc thường xuyên đi lưu diễn nên vợ chồng ông không thể chăm sóc con. Vì thế, Lester đã nhanh chóng gật đầu đồng ý để hai cô con gái của mình ở lại nhà Gertrude Baniszewski mà không cần biết gia cảnh thế nào, cô ta có phải người tốt hay không.

Dù cũng có chút lo lắng khi nhìn qua thấy nhà Gertrude tuy bên ngoài có vẻ rộng rãi những bên trong khá tồi tàn, không có bếp lò và giường ngủ thì thiếu nhưng Lester Likens vẫn liều để hai cô con gái cho một người mà ông mới biết có 2 ngày chăm sóc. Có lẽ linh cảm rằng một người phụ nữ không có chồng nhưng vẫn một tay nuôi được 6 người con đã khiến ông tin Gertrude.

Trước khi rời đi, khi Lester nói rằng: “Cô hãy chăm sóc chúng một cách khéo léo như những gì mẹ chúng trước đây đã làm”, Gertrude khẳng định mình sẽ làm tốt và đảm bảo rằng ông Lester sẽ hoàn toàn yên tâm khi gửi con ở đây.

Người cha này không ngờ rằng mình đã “giao trứng cho ác” và sai lầm ấy phải đánh đổi bằng những tháng ngày tăm tối và cuối cùng là chính mạng sống của con gái mình.

Khi bị bắt, Gertrude Baniszewski tỏ thái độ không hợp tác và luôn giữ im lặng trong khi những đứa con và một số người có liên quan khác đều nhanh chóng nhận hành vi phạm tội với Cơ quan điều tra. Tất cả đều khai rằng chính Gertrude là người xúi giục và kích động họ thực hiện những màn tra tấn.

Từ đây, sự thật mới được hé lộ. Các điều tra viên thậm chí còn cảm thấy rùng mình khi biết được nỗi đau đớn mà nạn nhân phải chịu đựng trong những ngày tháng cuối đời.

Những ngày đen tối

Tuần đầu tiên ở nhà Gertrude, Sylvia Likens và Jenny Likens được chăm sóc rất tốt. Gertrude còn cho hai chị em đi học ở một ngôi trường mới. Tuy nhiên, bước sang tuần thứ 2, khi tiền trợ cấp của ông Lester không đến đúng ngày đầu tuần, Gertrude bắt đầu lộ rõ bản chất. Trận đòn đầu tiên được Gertrude thực hiện ngay trong ngày này nhưng nó mới chỉ dừng lại ở vài phát đánh vào mông.

Bước sang tuần thứ 3, cuộc sống của Sylvia chính thức bước vào chuỗi ngày kinh hoàng. Ngày thứ nhất, Gertrude cho rằng Sylvia cầm đầu lũ trẻ ăn cắp vặt trong nhà. Đó chính là lý do khiến cô lĩnh thêm một trận đòn nhừ tử. Những lời thanh minh lúc này chỉ khiến những nhát roi mạnh thêm.

Hai ngày sau, Paula – đứa con 17 tuổi chưa kết hôn nhưng đang mang thai của bà Gertrude vốn không ưa gì Sylvia đã tố cáo với mẹ là Sylvia có những hành vi thô lỗ khi đang trong nhà thờ. Chỉ có vậy, cô bé lại bị đánh đập và phải nhịn đói ngày hôm ấy.

Vài ngày sau đó, ông bà Likens tới đưa tiền cho Gertrude. Tuy nhiên, khi hỏi các con cuộc sống ở đây thế nào, cả hai không hề mở miệng phàn nàn việc mình bị đối xử tệ bạc vì sợ. Không dám kêu ca với chính bố mẹ đẻ khiến hai chị em Likens tiếp tục phải hứng chịu những trận đòn khác và cam chịu cuộc sống bẩn thỉu, nhem nhuốc tại đây.

Một số người hàng xóm vài lần nhìn thấy 2 đứa con nuôi thường xuyên bị đánh nhưng do nghĩ rằng đó là việc dạy bảo trẻ con nên không ai can thiệp hoặc báo cảnh sát. Cứ như vậy, tình trạng đánh đập, lạm dụng Sylvia dần dần diễn ra gay gắt hơn.
 

hoahongden12

Active Member

Những thú vui tàn độc

Cuộc sống của 2 chị em nhà Likens tại gia đình Gertrude ngày càng tồi tệ. Từ dùng tay, Gertrude cùng với con gái Paula của mình bắt đầu chuyển sang dùng thắt lưng hay gậy để đánh Sylvia mỗi khi cô làm sai gì đó.

Không thể chịu được việc đánh đập thường xuyên, Sylvia và Jenny đã quyết định kể lại với bố mẹ mình những điều này. Nhưng trước thái độ niềm nở, vui vẻ của Gertrude, ông Likens cho rằng hai đứa trẻ đã nói quá lên và đó chỉ là cách dạy dỗ của Gertrude để giúp bọn trẻ nên người. Thêm vào đó, họ cũng không thể bỏ việc để ở nhà. Vì vậy, hai cô bé chỉ nhân lại được những lời động viên. Chính điều đó làm Sylvia ngày càng ít nói và âm thầm chịu đựng. Trong đầu cô gái chưa bao giờ có ý định chạy trốn bởi lẽ cô không biết sẽ đi đâu, làm gì khi mà ngay cả bố mẹ cũng không tin mình.

Chán việc tự mình ra tay, Gertrude liền nghĩ ra một thú vui mới. Người mẹ nuôi quỷ quyệt tìm cách khích bác khiến người khác tức giận và tự tìm tới Sylvia trả thù còn bà ta chỉ việc ngồi chứng kiến trong thích thú.

Đầu tiên, Gertrude khiêu khích đứa trẻ nhà hàng xóm - Anna - bằng cách nói rằng Sylvia chê mẹ Anna là một kẻ nghiện. Và tất nhiên, sau lời nói này, Anna tìm cô bé tội nghiệp đánh mặc dù Sylvia hơn tuổi cô. Sylvia bị đấm rất nhiều vào bụng. Sau đó, bà mẹ độc ác này thì thầm vào tai con gái Paula và người bạn Judy Duke rằng Sylvia vu khống họ là gái mại dâm, nghiện tình dục… Và tất nhiên, cô tiếp tục trở thành nạn nhân những vụ đánh lộn.

Chứng kiến cảnh chị mình bị đối xử tệ hại những cô em tật nguyền cũng không thể làm gì hơn, thậm chí nhiều khi Sylvia phải hứng đòn thay cho em gái mình. Những trận đòn roi của mẹ con Gertrude cứ thế trở thành nỗi ám ảnh với Sylvia.

Lần tra tấn đầu tiên

Niềm an ủi duy nhất của cô gái 16 tuổi là những giờ phút ở trường cũng bị bà mẹ nuôi phá vỡ khi bắt cô nghỉ học. Khi Sylvia liên tục cầu xin, bà mẹ nuôi độc ác liền lấy bao diêm, quẹt lửa và đốt những đầu ngón tay của cô bé mặc cho Sylvia kêu gào đau đớn.

Đây là lần đầu tiên và cũng được coi là khởi đầu cho những màn tra tấn man rợ hơn của Gertrude. Thời gian sau đó, lửa chính là hình thức tra tấn phổ biến mà Sylvia phải hứng chịu. Không chỉ vậy, bà ta còn lôi kéo bạn trai kém tuổi của mình là Dennis Wright tham gia vào trò vui này. Mỗi khi buồn bực, y thường dùng điếu thuốc lá đang cháy châm vào cơ thể Sylvia.

Các bác sĩ pháp y sau khi khám nghiệm tử thi đã nhận định rằng các vết thương mà mẹ con Gertrude gây ra cho Sylvia là cực kỳ nghiêm trọng. Vùng kín của cô bị ảnh hưởng nghiêm trọng do bị lực tác động vào quá mạnh sau những lần bị đá.

Theo lời khai của những đứa con, vào ban đêm, mẹ chúng còn đuổi Sylvia phải xuống tầng hầm của chó để ngủ. Những vết thương âm ỉ khắp người liên tiếp hành hạ cô gái đáng thương. Sau vài tháng tới ở cùng gia đình Gertrude, sức khỏe của Sylvia ngày càng tệ hại còn tâm lý thì bất ổn.

Khi những sự thật này được công khai, dư luận liên tiếp đặt ra câu hỏi tại sao không ai báo với chính quyền trong suốt khoảng thời gian không hề ngắn như vậy. Tất cả đều nhờ vào sự khéo léo trong việc che giấu sự thật của người đàn bà độc ác Gertrude Baniszewski.

Những lời nói của trẻ con

Sylvia và Jenny từng nói với một số người quen rằng họ bị hành hạ. Tuy nhiên, họ đều nghĩ rằng đó chỉ là lời nói của trẻ con và những hình phạt không hề quá đáng, hai chị em có làm sai thì bà Gertrude mới dạy bảo. Nếu ghét bỏ đến mức phải hành hạ thì người đàn bà này sẽ không chủ động vui vẻ nhận nuôi chúng khi mà không ít lần số tiền công từ gia đình Likens đến muộn. Và rồi, cứ mỗi lần như vậy, cả hai chị em lại bị bà mẹ nuôi đánh đập nhừ tử.

Trong một lần cả gia đình Baniszewskis bắt buộc phải tới nhà thờ theo quy định, kể cả những đứa con nuôi. Để tránh việc mọi người tò mò về sức khỏe của Sylvia và Jenny, Gertrude đã chủ động thừa nhận mình không phải bà mẹ tốt và không quên than phiền ra vẻ đáng thương: “Người chồng của tôi thật sự vô trách nhiệm. Ông ta không gửi tiền về nhà để tôi chăm con nên ngay cả Sylvia và Jenny cũng trở nên gầy gòm, ốm yếu thế này đây. Tôi thật đáng trách!”.

Cũng tại lần ở nhà thờ này, vị cha xứ yêu cầu mọi người hãy nói hết những bí mật của mình và nó sẽ được tha thứ. Sylvia nhanh chóng đứng lên phía trước và nói về những tháng ngày kinh hoàng cô trải qua tại gia đình này. Thấy mọi người bắt đầu chú ý, người đàn bà độc ác đã ngăn Sylvia nói tiếp đồng thời tuyên bố: “Đúng là tôi đã chưa chăm sóc các con được tốt nhưng không bao gờ có chuyện hành hạ chúng. Mọi người hãy hỏi Jenny sẽ biết rõ sự tình”.

Cô bé tật nguyền Jenny, vốn luôn trong tâm trạng thấp thỏm sợ mình sẽ chịu chung số phận với chị gái, đã đành phải nói rằng Sylvia nói dối. Và thế là mọi chuyện lại quay về như cũ.

Thậm chí, một vài tuần sau đó, viên thị trưởng có chuyến thăm tới gia đình này để tìm hiểu thực hư. Tuy nhiên, mẹ con nhà Baniszewskis tung hứng với nhau rất giỏi nên đã làm ông tin tưởng. Ông rời nhà Gertrude với ấn tượng khá tốt.

Căn hầm bí mật

Duy nhất Diana Shoemaker, em gái họ của Sylvia là tin rằng chị mình đang gặp nguy hiểm. Cô từng có nhiều lần tới thăm chị nhưng lần nào cũng không được vào khu vực phòng của Sylvia với lý do Sylvia không muốn gặp người lạ. Trước khi Sylvia chết, Jenny từng cùng Diana chạy tới bệnh viện đưa một bản thông báo nói rằng chị Sylvia đang ở trong trường hợp nguy kịch. Một nhóm y tá ngay lập tức được cử tới nhà Baniszewskis.

Thấy một nhóm người trong trang phục bệnh viện, Gertrude đồng ý cho họ vào trong. Một nữ y tá đại diện bước ra nói chuyện và yêu cầu được gặp những đứa con của Gertrude. Cô y tá đề cập tới chuyện nhận được một bức thư nói rằng có một cô bé đang ở tình trạng nguy kịch. Jenny lúc ấy ở trong phòng nhưng không dám kêu lên tiếng.

Gertrude xin nhóm y tá vài phút vào trong làm việc riêng. Bà ta chạy vào phía Jenny đe dọa: “Nếu mày nói bất cứ câu nào về Sylvia thì mày sẽ phải chịu hậu quả như nó”.

Xong xuôi, Gertrude chạy ra ngoài nói: “Tôi biết các cô đang muốn tìm Sylvia. Tuy nhiên, con bé ấy đã bị tôi đuổi đi rồi. Nó ở quá bẩn thỉu và còn là gái mại dâm. Nó không xứng ở nhà tôi. Giờ tôi cũng không biết nó đang ở đâu”.

Nhóm y tá ngó nghiêng nhưng không tìm thấy bệnh nhân nào nên đành quay về. Thực chất Sylvia đang bị nhốt ở một nơi bí mật, đó là tầng hầm của ngôi nhà.
 

hoahongden12

Active Member

Hình xăm của quỷ dữ

Trong tuần cuối cùng cuộc đời của Sylvia, cô gái đáng thương này phải ngủ dưới gầm cầu thang đầy rác rưởi. Không những thế, bà mẹ nuôi Gertrude còn ra lệnh cho các thành viên khác trong nhà thay nhau trông chừng và lấy dây thừng buộc chặt Sylvia để cô không thể trốn đi được vào ban đêm. Toàn thân Sylvia bắt đầu có dấu hiệu lở loét do lâu ngày sinh hoạt trong điều kiện bẩn thỉu mà lại không được tắm.

Tuy nhiên, đó chưa phải là điều đau đớn nhất đối với Sylvia. Sau này, khi sự thật được đưa ra ánh sáng, dư luận đã vô cùng bàng hoàng và một làn sóng căm phẫn diễn ra gay gắt bởi người ta không thể hiểu tại sao Gertrude lại có thể thực hiện những hành vi quỷ dữ của mình dù không có thù oán gì với nạn nhân. Một trong số này chính là sự xuất hiện hình xăm mang dòng chữ: “Tôi là một gái điếm và tôi tự hào về điều đó”.

Ngày hôm đó, mẹ con Gertrude đã cùng gã nhân tình Coy Hubbard dùng tàn thuốc lá nóng châm lên bụng của cô. Những lúc Sylvia giãy giụa kêu gào thì những kẻ nhẫn tâm lại dùng tay tát mạnh vào mặt nạn nhân rồi lại tiếp tục trò nhẫn tâm. Vừa châm tàn thuốc nóng, Gertrude vừa nói: “Ngươi có thể làm gì hả Sylvia? Ta sẽ cho ngươi không thể kết hôn với bất cứ ai… “

Trong những giây phút hiếm hoi được thăm chị, Jenny đã vô cùng kinh hãi trước những gì mình nhìn thấy. Bộ dạng của Sylvia quá thê thảm. Người em tật nguyền run lên bần bật nhưng không biết phải làm sao. Nhìn em gái, Sylvia thều thào: “Chị chết mất thôi. Chị đau quá”.

Cuộc trốn chạy bất thành

Biết được ông bà Likens đang lên kế hoạch về thăm con, Gertrude vội bắt Sylvia viết một lá thư cho bố mẹ nhưng nội dung bức thư phải theo ý của họ. Cô gái bị ép buộc viết rằng mình đang sống rất vui vẻ, được chăm nom tốt và cha mẹ chỉ cần gửi tiền chứ không cần phải về thăm để có thể tập trung cho công việc.

Sau khi bức thư hoàn tất, Gertrude liền mang đi gửi. Cánh cửa không khóa trong khi những đứa trẻ khác đang mải làm việc riêng. Ngồi dưới cầu thang, Sylvia chợt nghĩ đến việc chạy trốn nhân lúc tất cả đang sơ hở. Nếu bị bắt lại, cô chỉ còn đường chết nhưng nếu cứ ở đây, cô không thể chịu đựng thêm những trận tra tấn. Vậy là, cô bé người đầy thương tích và ốm yếu chạy tập tễnh ra cửa trước. Tuy nhiên, vừa mở được cửa ra thì Gertrude vì quên một số thứ nên đã phải quay lại và bắt được cô, tức giận ném Sylvia xuống căn hầm.

Tại nơi giam giữ này, người đàn bà độc ác đưa và bắt cô ăn thức ăn bẩn. Tuy nhiên, cô đã từ chối. Điều này khiến Gertrude càng nổi cơn tam bành. Bà ta hất thức ăn đi và đấm đá vào bụng cô gái tội nghiệp.

Ngày 26/10/1965, ngày định mệnh của Sylvia đã tới. Sáng hôm đó, cả gia đình Baniszewski gồm Gertrude, gã nhân tình và 2 đứa con của bà ta - Paula, John đã cùng nhau dùng cán chổi đánh Sylvia thậm tệ cho tới khi cô bất tỉnh nhân sự.

Thấy vậy, Gertrude liền túm tóc, dìm đầu Sylvia xuống bồn nước. Khi nạn nhân tỉnh lại, người đàn bà này vẫn không buông tha cho cô. Bà ta liên tục lặp lại hành động tàn nhẫn đó và nó chỉ dừng lại khi gã nhân tình phát hiện ra có vẻ như Sylvia đã ngừng thở.

Lúc này, Gertrude hốt hoảng dừng tay lại và nhận thấy đúng là nạn nhân đã chết. Cả gia đình lúc đó mới cuống cuồng nghĩ cách thoát tội.

Quá khứ khắc nghiệt

Gertrude sinh ra trong một gia đình nghèo có 6 anh chị em. Ngay từ nhỏ, Gertrude rất yêu cha nhưng lại thường xuyên mâu thuẫn với mẹ.

Năm Gertrude 11 tuổi, người cha đột ngột qua đời và Gertrude phải sống cùng mẹ. Từ đó, 2 mẹ con thường xuyên xảy ra tranh cãi khiến Gertrude chán chường rồi bỏ học. Không lâu sau, cô gặp chàng thanh niên tên John và kết hôn với anh chàng này. Mặc dù chưa đủ tuổi và gặp sự ngăn cấm của người mẹ nhưng cô đều bỏ ngoài tai.

10 năm sau, cặp đôi chia tay nhau do quá nhiều bất đồng, khi đã có với nhau 4 đứa con và tất cả đều ở với mẹ. Không lâu sau, cô gặp Edward Guthrie và muốn tiến tới. Tuy nhiên, nhìn cảnh 4 đứa con nheo nhóc, người đàn ông này cảm thấy ái ngại và nói lời chia tay sau 3 tháng quen nhau.

Buồn chán, người phụ nữ này lại tìm về với John. Họ tiếp tục sống với nhau thêm 7 năm và có thêm 2 đứa con rồi lại chia tay. Năm 1963, khi Gertrude 37 tuổi, cô gặp một chàng trai trẻ tên Dennis Lee Wright và 2 người nhanh chóng có tình cảm với nhau..

Bất chấp sự khác biệt về tuổi tác, họ đến với nhau và có một đứa con riêng. Tuy nhiên, bỗng một ngày chàng trai trẻ bỏ đi, để lại đứa con cho người tình.

Suốt những năm tháng thanh xuân, Gertrude liên tục bị người tình bỏ trong cay đắng. Mặc dù chưa tới tuổi 40 nhưng trông Gertrude lúc nào cũng tiều tụy, già yếu. Kinh tế gia đình lúc nào cũng eo hẹp. Nhiều người tin rằng đây cũng là một phần nguyên nhân khiến tính khí của người đàn bà này trở nên khắc nghiệt, độc ác. Tuy nhiên, lý do ấy không thể làm dư luận nguôi ngoai cơn thịnh nộ.

Phiên tòa cuối cùng

Tại phiên tòa xét xử, Gertrude kiên quyết không thừa nhận hành vi của mình. Cô bé 11 tuổi Marie Baniszewski - con gái út của bị can được gọi ra trước tòa với tư cách nhân chứng.

Dành cho cô bé giây lát để trấn tĩnh, thẩm phán hỏi: “Tại sao cháu xuất hiện ở đây?”. Marie im lặng một lúc rồi trả lời: “Cháu ở đây để làm chứng, chứng minh mẹ cháu đã giết hại Sylvia Likens”. Marie khai nhận nhiều lần nhìn thấy Gertrude đánh Sylvia thậm tệ khi cô làm sai điều gì đó.

Marie cũng cho biết mình chưa bao giờ thấy mẹ đánh ai dã man như đánh Sylvia. Những hành vi đánh đập, đốt tay chân hay rạch tay là chuyện thường xuyên xảy ra. Không những vậy, Gertrude còn không chăm sóc khi Sylvia ốm yếu.

Trong ngày tiếp theo, Marie lại được các điều tra viên hỏi kĩ hơn về những tình tiết liên quan tới Sylvia. Khi họ đề cập tới hình xăm kinh hoàng trên bụng Sylvia, Marie có vẻ tỏ ra sợ hãi. Phải thuyết phục mãi, Marie mới khai nhận cô bé đã nhìn thấy mẹ mình lôi Sylvia xuống hầm, đốt và đánh cô.

Trước tình thế này, luật sư bào chữa cho Gertrude khăng khăng nói rằng Gertrude có thần kinh không bình thường vì áp lực quá lớn từ việc nuôi dạy những đứa con. Thậm chí, luật sư này còn tuyên bố: “Tôi thực sự lên án những ai giết người nhưng giờ phút này đây tôi có thể nói rằng thân chủ tôi không có trách nhiệm trong vụ này”. Một số luật sư bào chữa khác cũng lập luận: “Bà ấy thực sự rất đáng thương khi một mình phải nuôi chừng ấy đứa con. Trách nhiệm không thể đổ hết lên đầu Gertrude được”.

Tuy nhiên, đại diện bồi thẩm đoàn cho biết: “Chúng ta liệu có thể chấp nhận những hành vi tàn bạo như vậy từ một người phụ nữ? Nếu như Gertrude không bị tuyên án tử hình thì cũng có nghĩa rằng luật pháp đang bị bóp méo”.

Sau nhiều ngày tranh luận, cuối cùng tòa án lại không tuyên Gertrude án tử hình vì tội giết người độ 1, thay vào bản án tù chung thân.

Cô con gái Paula cáo buộc tội danh giết người độ 2 nhưng đã kháng cáo thành công và được chuyển thành tội danh ngộ sát. Paula đi tù vài năm rồi được thả. Những bị can còn lại gồm hai đứa con của Gertrude là Stephanie và John cùng gã nhân tình Coy Hubbard lĩnh hàng chục tháng tù cho tội ngộ sát, khép lại vụ án từng gây chấn động nước Mỹ.
 

hoahongden12

Active Member

Chiếc xe kỳ lạ

Ngày 21/5/1924, cậu bé Bobby Franks (14 tuổi) đang một mình đi bộ trên đường về nhà sau giờ tan học thì bỗng nhiên có một chiếc xe ô tô đỗ lại trước mặt. Sau một lúc nói chuyện, Bobby liền chui vào chiếc xe mà không hề do dự. Từ đó, không còn ai nhìn thấy cậu bé.

Về nhà mà không thấy con, bà Flora Franks thoáng chút ngạc nhiên vì giờ này mọi ngày, Bobby đã đi học về. Nhưng nghĩ rằng hôm nay con trai có hẹn với các bạn, bà không chú ý nhiều mà đi chuẩn bị cho bữa tối.

Bữa tối xong xuôi, các thành viên khác của gia đình gồm ông Jacob Franks và anh chị của Bobby là Jack và Josephine cũng đã trở về, chỉ có Bobby Franks vẫn không thấy bóng dáng và cũng chẳng gọi điện thông báo.

Jack đoán rằng có thể Bobby mải chơi tennis vì đó là môn thể thao yêu thích của cậu. Trước đây Jack từng nhiều lần phải ra sân gọi em về. Nhưng lần này Jack đã nhầm, Bobby không hề có ở đó. Bắt đầu nhận ra có gì đó bất ổn, bà Flora cuống cuồng gọi điện cho các bạn học của Bobby hỏi thăm trong khi ông Jacob liên lạc với hiệu trưởng trường của Bobby vì có thể cậu bé mải chơi bị khóa lại ở trong trường mà không ai biết. Nhưng tất cả những nỗ lực đó đều không mang lại kết quả, chẳng ai biết Bobby đang ở đâu.

Trong suốt buổi tối hôm đó, cả gia đình Franks chia nhau tìm kiếm tất cả những nơi cậu có thể đến nhưng vẫn không thấy bóng dáng của Bobby.

Khoảng 22h hôm đó, bà Flora khi đang ở nhà trực điện thoại thì nhận được cuộc gọi của một người đàn ông tự xưng là Johnson. Người này nói rằng Bobby Franks đã bị bắt cóc và hiện tại cậu bé vẫn ổn. Những thông báo tiếp theo sẽ được gửi tới vào buổi sáng hôm sau. Không kịp để bà Flora nói thêm gì, gã đàn ông cúp máy. Đúng lúc đó ông Jacob và luật sư Samuel trở về. Họ lập tức đi trình báo cảnh sát.

Bức thư kinh hoàng

Căn hộ của gia đình Franks nằm ở khu phố Kenwood, một khu dân cư giàu có ở thành phố Chicago (Mỹ). Ông Jacob kiếm được khá nhiều tiền từ việc kinh doanh cửa hiệu cầm đồ.

Một đêm dài trôi qua trong tâm trạng nặng nề của các thành viên nhà Franks. Sáng hôm sau, đúng như đã hẹn, một bức thư được gửi tới cho gia đình Franks có nội dung như sau:

“Thưa ông bà,

Có lẽ đến lúc này ông bà đã biết con trai mình bị bắt cóc. Và chúng tôi đảm bảo rằng con ông bà vẫn khỏe và an toàn, vì vậy ông bà có thể yên tâm. Nếu ông bà còn muốn con mình trở về lành lặn thì hãy làm theo những chỉ dẫn của chúng tôi. Tất nhiên, nếu ông bà làm trái lời thì cái chết của cậu bé này sẽ là một hình phạt dành cho ông bà.

1. Không được báo cho cảnh sát hay bất kỳ cá nhân, cơ quan nào biết. Nếu cảnh sát đã biết việc con trai ông mất tích thì tuyệt đối không được đề cập đến lá thư này.

2. Trước buổi chiều hãy gửi 10.000 USD. Số tiền gồm có các tờ giấy bạc được chia nhỏ thành 2.000 USD mệnh giá 20 USD, 8.000 USD mệnh giá 50 USD. Số tiền phải là tiền cũ.

3. Số tiền được đặt trong một hộp xì gà lớn hoặc nếu không để vừa có thể thay thế bằng một hộp các-tông, được đóng gói cẩn thận, kín mít bằng giấy trắng. Ngoài ra giấy gói cần phải được niêm phong.

4. Tất cả tiền bạc cần phải tuân thủ theo hướng dẫn trên, và ở nhà chờ khi có chỉ dẫn tiếp theo".

Bức thư được ký tên George Johnson và ngoài ra hắn còn bảo đảm rằng nếu số tiền được gửi đi theo đúng như yêu cầu thì Bobby sẽ trở về lành lặn. Trong khi Jacob chạy đi chuẩn bị tiền thì luật sư Samuel gọi điện cho cảnh sát.

Thế nhưng, khi những yêu cầu của kẻ bắt cóc đang được tiến hành thì gia đình Franks nhận được thông tin người ta phát hiện một xác bé trai bị giết ở gần hồ Wolf. Dựa vào những thông tin ban đầu, họ nghi rằng bé trai xấu số ấy có thể là Bobby.

Cuộc gọi đau đớn

Xác một bé trai được tìm thấy tại cống nước gần hồ Wolf và đường ray xe lửa trong tình trạng không mảnh vải che thân. Gia đình Frank lập tức đến hiện trường để xác minh, chỉ có ông Jacob và luật sư Samuel ở nhà.

Khi mọi người vừa đi khỏi thì chuông điện thoại vang lên. Người nhấc máy là luật sư Samuel nhưng khi ông còn chưa kip nói gì thì đầu dây bên kia vọng lên với một giọng khá gấp gáp: “Tôi là George Johnson đây. Tôi đã gọi một chiếc taxi của hãng Yellow cho ông. Hãy đến cửa hàng thuốc ở 1465 phố East Sixty-third”. Vị luật sư vội nói lại với ông Jacob về lời nhắn.

Đúng lúc ông Jacob định ghi lại địa chỉ đó thì một cuộc gọi khác tiếp tục tới khiến ông gần như chết đứng. Cảnh sát thông báo thi thể bé trai ở hồ Wolf chính là Bobby Franks.

Hoảng loạn và đau đớn, cả 2 người đàn ông sau đó đã quên mất địa chỉ mà tên bắt cóc thông báo và cũng không còn quan tâm đến những gì hắn nói. Họ nhanh chóng lao ra khỏi nhà.

Tại hiện trường, cảnh sát không tìm thấy quần áo của Bobby, xung quanh cũng không có gì xáo trộn. Họ nhận định cậu bé bị giết chết ở một điểm khác trước khi được mang tới đây. Duy nhất một vật là chiếc kính mắt có hình dáng khá đặc biệt được tìm thấy không xa nơi phát hiện thi thể.

Những bằng chứng pháp y

Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy nguyên nhân dẫn đến cái chết của cậu bé 14 tuổi là do nghẹt thở, có thể tên bắt cóc đã dùng tay để bịt miệng cậu bé hoặc nhét vật gì đó vào họng của Bobby.

Ngoài ra, bác sĩ còn phát hiện trên cơ thể nạn nhân có một số vết thương hở và thâm tím do một vật cùn gây ra. Có thể những vết này do cậu bé giẫy giụa chống cự lại tên bắt cóc. Ngoài ra, các bác sĩ còn phát hiện ra một số hóa chất trên mặt và dương v*t của nạn nhân. Những chứng cứ này đưa tới cho cơ quan điều tra giả thuyết rằng cậu bé bị lạm dụng tình dục trước khi bị giết. Tuy nhiên, với kinh nghiệm của mình, tiến sỹ Joseph Springer – người đứng đầu nhóm khám nghiệm tử thị lại cho rằng Bobby không hề bị lạm dụng tình dục.

Trước vụ bắt cóc, giết người đặc biệt nghiêm trọng này, lực lượng chức năng đã tập trung mọi nguồn lực truy tìm kẻ thủ ác. Robert E. Crowe, một thám tử nổi tiếng với nhiều năm kinh nghiệm được chỉ định là người phụ trách vụ án này.

Cả Jacob Franks và Samuel Ettelson đều quên địa chỉ cửa hàng thuốc, nơi tên bắt cóc hẹn gặp mà chỉ nhớ chi tiết sẽ có một chiếc xe taxi của hãng Yellow tới đón. Cảnh sát sau đó xác nhận đúng là có chiếc xe đậu trước cửa gia đình Franks, nhưng lái xe cho biết anh không được biết điểm đến và sau khi đợi lâu mà không có khách ra, anh cũng rời đi.

Đau đớn trước cái chết của con trai, ông Jacob Franks đã treo phần thưởng trị giá 5.000 USD cho ai tìm ra tung tích kẻ sát nhân, cơ quan cảnh sát cũng đưa ra một mức thưởng hấp dẫn cho người nào cung cấp được thông tin quan trọng.
 

hoahongden12

Active Member

Vụ án bế tắc

Robert E. Crowe, một thám tử nổi tiếng với nhiều năm kinh nghiệm được chỉ định là người phụ trách vụ án này. Ông bắt đầu điều tra từ bức thư của kẻ bắt cóc. Những người có chuyên môn cho biết văn bản này được soạn bởi một người đánh máy nghiệp dư nhưng lại có trình độ học vấn bởi lời văn trong bức thư khá sắc sảo, chặt chẽ. Chi tiết này khiến các nhà điều tra đặc biệt chú ý bởi sự thông minh của hung thủ chính là một trong những yếu tố nguy hiểm.

Từ đây, cảnh sát tập trung điều tra 3 giáo viên ở ngôi trường nơi Bobby Franks theo học, những người được cho là không ưa cậu bé này bởi tính cách nghịch ngợm, ương bướng. Họ được đưa tới sở cảnh sát để thẩm vấn trong khi căn hộ của họ cũng bị lục soát. Tuy nhiên sau đó, cảnh sát phải nhanh chóng trả tự do cho cả 3 vì không có gì đáng nghi vấn.

Các tờ báo thi nhau đăng tải hình ảnh cặp kính bí ẩn và cảnh sát cũng liên lạc với tất cả công ty kinh doanh mặt hàng này trong khu vực. Trong khi đó, Richard Loeb (19 tuổi) là hàng xóm với gia đình Franks đã đề xuất nên tập trung đi tìm nhà thuốc mà kẻ bắt cóc muốn ông Jacob Franks tới.

Đề xuất này cũng là một ý tưởng hợp lý. Sau một thời gian tìm kiếm, cảnh sát đã tìm thấy nhà thuốc Van de Bogert amp; Ross. Nhân viên bán hàng xác nhận rằng có 2 cuộc gọi trong ngày 22/5 hỏi ông Franks. Lần thứ nhất, người bán thuốc nói rằng không có người đàn ông nào trong cửa hàng theo như mô tả những hung thủ vẫn gọi điện lại sau đó ít phút. Việc tìm ra hiệu thuốc đã không thể giúp tìm được thủ phạm.

Cũng vào thời điểm này, người lái xe taxi đã nhớ ra rằng có hai thanh niên ăn mặc bảnh bao đến yêu cầu anh tới nhà của Jacob Franks. Tuy nhiên, người này không thể nhớ nổi khuôn mặt của họ vì thời gian tiếp xúc quá ngắn.

Vụ án dường như rơi vào bế tắc.

Chiếc kính với thiết kế đặc biệt

Thanh tra Robert E. Crowe lục lại toàn bộ hồ sơ vụ án và chú ý đến ngay cặp kính tìm thấy tại hiện trường. Nó là cặp kính dành cho những người chuyên làm công tác nghiên cứu, mắt kính tròn to, dày và khớp nối của gọng kính rất đặc biệt, hiếm gặp ở những loại kính thông thường.

Trong khi đó, một nhóm cảnh sát đi hỏi thăm quản lý khu vực vui chơi quanh hồ Wolf. Sau khi hỏi rất nhiều người, đội điều tra có được thông tin đáng chú ý rằng nơi này có một vị khách thường xuyên tên là Nathan Leopold, 19 tuổi, tới đây để nghiên cứu về các loài chim. Ngay lập tức Leopold được triệu tập về văn phòng cảnh sát để điều tra. Tuy nhiên, những thông tin mà Leopold cung cấp trong quá trình quan sát chim ở hồ đều không có gì đáng nghi vấn.

Đúng 8 ngày sau, cảnh sát đã phát hiện ra chi tiết quan trọng. Chiếc kính tìm được ở hiện trường được bán ra với số lượng rất ít, chỉ có 3 chiếc trong khu vực Chicago. Thật trùng hợp khi một trong những người sở hữu chiếc kính đó không ai khác chính là anh chàng nghiên cứu các loại chim, Nathan Leopold.

Ngày 29/5/2004, Nathan Leopold được cảnh sát gửi thư mời vào phòng kín của khách sạn LaSalle để lấy lời khai. Sở dĩ, Leopold được đối xử đặc cách như vậy vì cậu cũng là con trai của một gia đình khá danh tiếng ở vùng. Thanh tra Robert E. Crowe sợ rằng, nếu chọn nhầm mục tiêu, ông sẽ phải trả một cái giá chính trị không nhỏ.

Cuộc thẩm vấn kín đáo

Tại phòng kín của khách sạn LaSalle, khi cảnh sát hỏi về cặp kính, Nathan Leopold cho biết vào ngày thứ 7, vài ngày trước khi Bobby Franks bị bắt cóc, Nathan như thường lệ tới khu vực hồ Wolf cùng hai người bạn và bị vấp ngã, có thể lúc đó chiếc kính đã rơi ra khỏi túi ngực.

Nghe vậy, một trong những cảnh sát đã đặt kính vào túi ngực Nathan và đề nghị cậu thực hiện lại cú ngã. Tuy nhiên, dù đã thử rất nhiều lần với nhiều tư thế ngã, chiếc kính vẫn không hề bị rơi ra ngoài.

Khi được hỏi rằng bản thân đã làm gì trong ngày xảy ra án mạng, ban đầu Nathan trả lời vòng vo nhưng sau đó lại khẳng định đã dành phần lớn thời gian lang thang cùng người bạn thân Richard Loeb. Buổi tối ngày Bobby bị bắt cóc, Nathan và Richard đã đón 2 cô gái và lái xe đi chơi đến khi trở về nhà.

Trước tất cả những câu hỏi của điều tra viên, Nathan Leopold tuy ra vẻ bình thản nhưng cảnh sát vẫn có thể nhận thấy chàng trai này đang trả lời một cách nhanh chóng như thể đang cố lướt qua tất cả. Dường như để đưa ra bằng chứng ngoại phạm, anh ta nói uống quá nhiều rượu nặng nên chỉ nhớ mơ hồ và không rõ chi tiết những việc mình làm trong buổi tối hôm đó.

Theo đánh giá của cơ quan điều tra, Nathan đang cố tình giấu giếm điều gì đó. Ngay sau khi nghi can này được gọi tới phòng hỏi cung để gặp cơ quan điều tra, người bạn Richard Loeb cũng được mời đến nói chuyện. Người này không phải ai xa lạ, chính là hàng xóm của gia đình Franks cũng là người trước đó đã đề xuất nên tập trung đi tìm nhà thuốc mà kẻ bắt cóc muốn ông Jacob Franks tới.

Những lời khai đầy uẩn khúc

Để tìm ra lời khai 2 người có nhất quán hay không, cơ quan điều tra tiến hành so sánh và tìm ra nhiều điểm khá khớp ở lời khai của 2 người. Richard cho biết mình đi với Nathan từ buổi chiều và đến tối muộn thì ai về nhà nấy. Phiên chất vấn kéo dài cả buổi chiều mà không có nhiều thông tin đáng nghi nào được tiết lộ từ Richard.

Sự bình tĩnh và chi tiết trong các lời khai giống nhau khiến cảnh sát ban đầu thậm chí đã tin vào câu chuyện của họ. Khi được thả ra, cả hai có buổi trò chuyện thẳng thắn với báo chí. Nathan chia sẻ quan điểm của mình khi được phóng viên hỏi: “Tôi không trách cảnh sát đã bắt giữ để hỏi cung chúng tôi. Đấy là công việc của họ”.

Nói về việc cái kính xuất hiện gần hiện trường tìm thấy xác Bobby, Nathan cho hay: “Tôi đã ở gần khu vực cống nước trong hai ngày thứ 7 và chủ nhật. Có một điều chắc chắn là tôi xuất hiện ở đây trước khi Bobby bị giết và cặp kính của tôi có thể bị rơi khi tôi khom người nhìn cống nước”.

Tuy nhiên, về phía thám tử Robert E. Crowe, ông vẫn cảm thấy có gì đó uẩn khúc ở đây. Ông đã tới tìm hiểu thông tin từ phía những người bạn học của Leopold thì biết rằng chàng trai này thường viết các bài luận của cậu trên máy đánh chữ hiệu Hammond. So sánh chúng với các dòng chữ viết trên bức thư tống tiền, Crowe nhận thấy chúng thuộc cùng một loại máy đánh chữ và ngay cả cách sử dụng từ ngữ và một số ký hiệu cũng có nhiều điểm trùng hợp.

Cánh sát tiếp tục tiến hành thẩm vấn tài xế của gia đình Nathan. Trong ngày xảy ra án mạng, viên tài xế đã lái xe cả ngày và chỉ để xe trong gara vào tối muộn, khi ông về nhà. Trong khi đó, Nathan và Richard lại khai rằng họ đã sử dụng xe của Nathan để lái lòng vòng cả buổi chiều vào tối trong ngày Bobby mất tích.

Từ đây, cảnh sát bắt đầu có hướng điều tra rõ ràng.
 

hoahongden12

Active Member

Động cơ bất ngờ

Giải thích cho việc mẫu chữ trên các bài nghiên cứu của Nathan và mẫu chữ ở lá đơn tống tiền lại giống hệt nhau và cùng sử dụng máy chữ hiệu Hammond, nghi can này khai nhận đó chỉ là một sự trùng hợp bởi tuy sử dụng máy đánh chữ đó nhưng nó không phải quyền sở hữu của Nathan. Qua khai thác thông tin của người giúp việc, cô khai nhận có nhìn thấy máy này ở trong góc nhà vài tuần trước nhưng khi cảnh sát tìm kiếm thì nó lại không còn trong nhà nữa.

Sau hơn 2 giờ hỏi cung, Nathan vẫn tỏ ra quanh co. Tuy nhiên, khi viên tài xế của gia đình nói rằng chính mình đã lái xe cả ngày và chỉ để xe trong gara vào tối muộn, khi ông về nhà thì Nathan đột nhiên tái mặt.

Từ đây, nghi can này đã phải khai nhận mọi chuyện, rằng mình và người bạn Richard chính là kẻ đã bắt cóc và giết hại cậu bé Bobby Franks.

Tuy nhiên, điều khiến cảnh sát ngạc nhiên nhất là động cơ gây án của hai hung thủ. Theo lời khai của Richard, toàn bộ tội ác được dựng lên như một trò thử thách trí tuệ của 2 sinh viên nhằm thực hiện một kế hoạch phạm tội hoàn hảo thử tài phá án của cảnh sát.

Sự thật sáng tỏ

Cả hai đã bàn bạc rất kĩ và cùng thống nhất thuê xe ô tô với tên giả cùng với giấy tờ giả. Chúng còn che biển số xe, đề phòng có ai đó nhìn thấy có thể báo với nhà chức trách.

Nhưng vấn đề khó khăn ở chỗ làm thế nào nhận tiền chuộc cho an toàn. Nathan và Richard cùng nhau đưa ra một vài kế hoạch cho việc này. Cuối cùng cả hai quyết định chọn một phương án yêu cầu ông Franks đến cửa hàng thuốc gần ga tàu điện. Khi tàu chuẩn bị rời bến, chúng sẽ gọi điện cho ông yêu cầu vứt tiền qua cửa sổ tàu để. Từ đó, cả 2 sẽ nhặt cục tiền và biến mất. Với cách này, cảnh sát sẽ không thể tìm ra ai là người cầm tiền và tất nhiên sẽ chẳng làm gì được chúng.

Sau khi bắt cóc và nhận tiền thành công, theo kế hoạch của Leopold vạch ra cùng đồng phạm, chúng sẽ nhanh chóng hạ sát nạn nhân để cậu bé không có cơ hội trốn thoát cũng như cảnh sát khó có thể phát hiện ra chúng

Nói về lý do phi tang xác chết ở cống nước gần hồ Wolf, Richard cho biết vì đây là một nơi kín đáo để che giấu xác cậu bé. Ngày bình thường cũng rất ít người qua lại nơi này nên Nathan nghĩ phi tang ở đây là hợp lý.

Rất tin tưởng vào kế hoạch vạch sẵn, ngày hôm sau chúng tới bốt điện thoại công cộng gọi cho ông Jacob nói địa chỉ cửa hàng thuốc. Nhưng tới giờ hẹn vẫn không thấy bóng dáng của Jacob Franks đến, cả hai biết rằng kế hoạch đã bị đổ bể.

Ngoài ra, một chi tiết khác mà cả hai hung thủ không ngờ tới là kinh mắt của Nathan lại vô tình rơi ở hiện trường. Dù vậy, nam sinh 19 tuổi này vẫn tỏ ra bình tĩnh khi cảnh sát thẩm vấn và nhanh chóng nghĩ ngay được lời giải thích tưởng chừng có lý.

Và tới lúc này, khi mà mọi chuyện đã ngã ngũ, điều cảnh sát quan tâm là những kẻ giết người thật sự đã làm điều gì với nạn nhân 14 tuổi.

Săn mồi

Mục đích của Nathan và Richard không phải vì tiền nhưng cả hai cho rằng sẽ đánh lạc hướng điều tra của cảnh sát nếu để họ nghĩ đây là vụ bắt cóc đòi tiền chuộc thông thường.

Tính toán được vậy nhưng việc chọn “con mồi” cũng là cả một vấn đề nan giải. Ban đầu, cả hai thậm chí còn định sẽ giết chết em trai của Richard là Tommy nhưng sau đó đã quyết định bỏ qua cậu bé này, không phải vì Tommy là em của Richard mà vì nếu Tommy chết, những người thân sẽ bị lấy lời khai đầu tiên.

Sự lựa chọn tiếp theo hướng về một người bạn của cả hai là Richard Rubel. Tuy vậy, ý định này cũng bị hủy bỏ vì hai hung thủ biết rằng cha của Rubel sẽ không bao giờ trả được tiền chuộc. Mãi vẫn chưa xác định được nạn nhân, cả hai quyết định lái xe vòng vòng tìm kiếm.

Cuối cùng, Richard Loeb và Nathan Leopold nhìn thấy cậu bé 14 tuổi Bobby Franks – con trai của triệu phú Jacob Franks đang đi bộ về nhà sau giờ học. Lý do Nathan và Richard chọn Bobby Franks để giết bởi chúng cho rằng nạn nhân cần phải nhỏ tuổi để dễ dàng bị khuất phục. Hơn nữa, cha của cậu bé là triệu phú và có thể trả khoản tiền chuộc rất cao cho con.

Khi Bobby gặp 2 kẻ sát nhân trên đường, cậu bé dễ dàng nhận ra Richard. Đây không phải ai xa lạ mà chính là hàng xóm của gia đình Franks và Bobby cũng từng nhiều lần chơi tennis với Richard nhiều lần. Vì vậy, khi hai thanh niên tiếp cận cậu bé và rủ Bobby cùng đi mua vợt tennis, cậu bé đã đồng ý ngay và và rất vui vẻ lên xe mà không biết rằng cuộc đời mình sẽ kết thúc từ đây.

Màn ra tay độc ác

Khi lái xe được một đoạn không xa, bộ đôi ra tay sát hại nạn nhân một cách dã man. Thấy Bobby đã chết, cả 2 liền lấy một tấm thảm che xác rồi lái xe tới rìa bang Indiana. Tới đây, chúng dừng xe ở ven đường, lột bỏ quần áo của Bobby. Tiếp đó, chúng bình tĩnh cùng nhau đi ăn và chờ cho tới khi trời tối hẳn mới lái xe tới hồ Wolf để phi tang xác.

Xong xuôi, cả hai đã đốt sạch các bộ quần áo có dính máu, chúng cũng mất công kỳ cọ sạch vết máu trên chiếc xe đi thuê. Cuối cùng, chúng gọi cho Jacob Franks để thông báo con ông đã bị bắt cóc. Chúng gửi một lá thư đòi tiền chuộc tới nhà ông Jacob rồi lên đường về nhà.

Rất tin tưởng vào kế hoạch vạch sẵn, ngày hôm sau chúng tới bốt điện thoại công cộng gọi cho ông Jacob nói địa chỉ cửa hàng thuốc. Nhưng tới giờ hẹn vẫn không thấy bóng dáng của Jacob Franks đến, cả hai biết rằng kế hoạch ban đầu đã thất bại.

Ngay sau khi khai nhận tội ác, Nathan và Richard nhanh chóng nhận được sự chú ý của dư luận. Ai nấy đều tỏ ra phẫn nộ trước tội ác hai kẻ sát nhân trẻ tuổi này gây ra. Và người ta còn bất ngờ hơn khi biết được xuất thân của cả hai.

Hai cậu ấm tài năng

Richard Loeb và Nathan Leopold - hai thủ phạm của vụ án chấn động đều xuất thân từ các gia đình danh gia vọng tộc, giàu có bậc nhất Chicago.

Nathan Leopold sinh ngày 19/11/1904 trong một gia tộc gốc Đức và tới Mỹ vào giữa những năm 1800. Gia đình Leopold sở hữu một gia sản lớn nhờ việc vận chuyển ngũ cốc, quặng và nhiều loại hàng khác.

Từ nhỏ, Nathan Leopold đã là một học sinh xuất sắc với chỉ số IQ rất cao. Những người quen của gia đình này cho biết Nathan thậm chí biết nói ngay từ khi mới 4 tháng tuổi. Năm 18 tuổi, hắn đã tốt nghiệp Đại học Chicago. Nathan là một chuyên gia thực vật học và có thể nói thành thạo 9 ngôn ngữ. Nathan dự định sẽ tiếp tục theo học luật ở trường Harvard sau khi tốt nghiệp đại học.

Tuy nhiên, cuộc sống của Nathan không hoàn toàn như mơ. Mẹ Nathan qua đời khi hắn còn rất nhỏ và còn cha hắn còn bận kinh doanh không có thời gian quan tâm đến con mình nên hầu như Nathan đi đâu làm gì không có người giám sát. Đổi lại, cha Nathan luôn cho con những món đồ quý giá và nhiều khoản tiền lớn. Trước khi gây ra tội ác, Leopold đã được cha mình cho 3000 USD (một số tiền khá lớn thời điểm đó) để đi du lịch khắp châu Âu. Nathan cũng có một chiếc xe riêng và khoản trợ cấp 125 USD mỗi tuần.

Không kém cạnh người bạn của mình, Richard Loeb cũng sinh ra trong một gia đình rất danh giá. Thông minh, đẹp trai, giàu có – Richard là niềm mơ ước của rất nhiều bạn bè cùng trang lứa. Cả Richard Loeb và Nathan Leopold đều cho mình là người hoàn hảo và có những đặc quyền vượt lên trên người khác

Vị luật sư “bất bại”

Có chỗ đứng trong xã hội và được những người xung quanh tôn trọng nên gia đình Loeb và Leopold đều không ngờ lại có ngày vướng vào việc động trời này. Họ cùng tìm mọi cách để cứu “quý tử” của mình. Vì tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án nên không ai được gặp mặt Richard Loeb và Nathan Leopold. Điều cần thiết nhất lúc này chính là tìm cho cả hai một luật sư biện hộ tài năng.

Gia đình của Richard đã gặp một trong những vị luật sư có tiếng “bách chiến bách thắng” - Clarence Darrow. Darrow là người từng biện hộ thành công trong nhiều vụ án lớn, dù trước đó đã nhiều luật sư phải thất bại. Ở phiên xử lần này, ông Loeb hi vọng Darrow sẽ tìm được cách giảm án cho con trai mình.

Bản thân Darrow cũng cân nhắc rất kỹ càng trước lời đề nghị này. Sau một thời gian nghiên cứu hồ sơ, luật sư Clarence Darrow đã nhận lời tham gia biện hộ cho hai thanh niên trẻ tuổi phạm tội nghiêm trọng.

Khi cảnh sát đã có trong tay hầu hết những chứng cứ quan trọng, kể cả chiếc đục - hung khí trong vụ án và chiếc giày của nạn nhân bị vứt bên vệ đường, phiên tòa xét xử Nathan Leopold và Richard Loeb được mở ra tại tòa án Chief Justice vào ngày 21/7/1924. Phiên tòa này được diễn ra công khai nhằm giảm bớt sự căm phẫn trong dư luận.

Phiên tòa căng thẳng

Vào ngày 21/7/1924, phiên tòa xét xử Nathan Leopold và Richard Loeb được mở ra tại tòa án Chief Justice do thẩm phán John R. Caverly làm chủ tọa. Mục tiêu của luật sư biện hộ Clarence Darrow cũng như của gia đình hai hung thủ là là giúp Nathan và Richard thoát khỏi án tử hình.

Bằng kinh nghiệm của một luật sư bào chữa nổi tiếng nhất nước Mỹ thời điểm đó, Darrow nghĩ rằng điều này hoàn toàn nằm trong tầm tay của ông cho đến khi gặp không ít khó khăn do chính hai thân chủ của mình gây ra. Người ta liên tục nhìn thấy cả hai mỉm cười và cợt nhả trong các phiên tòa. Điều này khiến dư luận càng thêm căm phẫn, ngay cả các thành viên của bồi thẩm đoàn cũng không giấu nổi sự tức giận.

Điều này khiến luật sư Darrow phải sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau để bào chữa cho thân chủ mình.

Ban đầu, Darrow đưa ra luận điểm trong lịch sử tư pháp Chicago, chưa có một trường hợp nào áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội phạm dưới 23 tuổi. “Tôi biết rằng trong 10 năm qua, khoảng 450 người đã phạm tội giết người tại Chicago nhưng chỉ có một trường hợp chịu mức án treo cổ và trường hợp duy nhất này cũng đã trên 23 tuổi”, Darrow biện minh.

Ngoài ra, luật sư Darrow đưa ra tuyên bố cả 2 tên tội phạm còn rất trẻ này có tâm lý không bình thường, chính vì thế chúng mới có thể nghĩ ra trò chơi rợn người như vậy.

Cuối cùng, Darrow cung cấp cho quan tòa mô tả chi tiết về những gì sẽ xảy ra với các chàng trai khi họ bị treo cổ. Thậm chí Darrow còn cung cấp hình ảnh đồ họa các chức năng cơ thể bị phá hủy và sự đau đớn về thể xác của thân chủ mình.

Trong nước bài cuối cùng này, chiến thuật của Darrow có vẻ đã đạt được tác dụng như mong muốn khi không chỉ quan tòa mà ngay cả 2 tên sát nhân cũng thấy ám ảnh. Nathan thậm chí còn bị kích động và phải đưa ra khỏi phòng xử án.

Tội ác khép lại

Cuối cùng, phiên tòa được mong chờ nhất cũng diễn ra vào ngày 19/9/1924, khi thẩm phán Caverly thông báo phán quyết của tòa án.

Theo đó, bồi thẩm đoàn đã cân nhắc và quyết định miễn bản án tử hình. “Ban bồi thẩm đã xem xét độ tuổi của bị cáo theo như lời vị luật sư biện hộ đã nêu, chúng tôi cũng cho rằng không phải cứ đưa ra cái chết là có thể trừng phạt được kẻ phạm tội, ngồi tù để tự suy ngẫm và hối hận cũng là một lựa chọn”, thẩm phán Caverly cho hay.

Cả hai đều phải chịu mức án chung thân cho tội giết người và 99 năm tù cho tội bắt cóc, tổng án phạt là chung thân.

Phiên xử kết thúc trước sự bức xúc tột độ của gia đình nạn nhân trong khi mục tiêu của luật sư Darrow và gia đình hai hung thủ thì đạt được.

Trong thời gian ở tù, Richard bị một người bạn tù giết hại năm 1936 còn Nathan đã rất nhiều lần viết đơn xin tại ngoại nhưng đều bị từ chối và phải tới năm 1958, mong muốn này mới được được chấp nhận.

Sau khi ra tù, Nathan chuyển tới Puertp Rico sinh sống và chết sau một cơn đau tim vào năm 1971, kết thúc một trong những câu chuyện đau lòng nhất trong lịch sử hình sự Mỹ mà hung thủ là những thiếu gia có trí tuệ hơn người với động cơ mà không ai có thể tin được.
 

hoahongden12

Active Member

Án mạng ngày trở về

Tối 13/6/2003, người thân và bạn bè của Canny Ong Lay Kian đợi mãi mà không thấy cô lên tầng 1 trung tâm thương mại Bangsar, thành phố Kuala Lumpur, Malaysia. Trước đó, cô xuống tầng hầm lấy xe lên đón mọi người sau khi mua sắm, ăn uống ở đây.

Trích xuất từ các camera an ninh, nhân viên bảo vệ phát hiện chiếc xe của Canny lao ra khỏi tầng hầm, trên xe là một người đàn ông đang ngồi ghế lái còn cô ngồi ngay bên cạnh.

Canny sinh năm 1975. Nhiều năm trước, cô đi du học Mỹ và kết hôn với một công dân ở đất nước này. Tuy nhiên, khi nghe tin cha mắc bệnh ung thư, Canny quyết định xin nghỉ việc ở Mỹ để về thành phố Malaysia chăm sóc cha một thời gian.

Giữa năm 2003, bệnh tình của cha cô đã có biến chuyển tích cực nên Canny lên kế hoạch trở về Mỹ. Ngày 13/6/2003, một ngày trước khi rời Malaysia, cô mời mẹ, em gái cùng một số người bạn mua sắm rồi ăn tối trong một nhà hàng ở trung tâm thương mại Bangsar trước khi mất tích.

Gia đình và bạn bè của Canny tìm cô khắp nơi nhưng đều không có kết quả. Một điểm đáng lưu ý là Canny đã đạt tới trình độ đai đen môn Taekwondo nhưng lại không có vẻ chống trả kẻ bắt cóc.

4 ngày sau, cảnh sát tìm thấy xe hơi của cô đậu ven đường. Một lốp trước của xe bị thủng và ghế sau có rất nhiều vết máu. Vài giờ sau, người dân phát hiện một tử thi cháy xém không thể nhận dạng trong cống gần khu vực tìm thấy chiếc xe nhưng miếng vải trói hai tay và bịt miệng nạn nhân xấu số vẫn còn.

Sau đó, kết quả phân tích ADN của những vết máu trên xe ôtô và thi thể cháy xém cho thấy chúng thuộc về Canny Ong. Các chuyên gia pháp y cũng phát hiện tinh dịch trong cơ quan sinh dục của thi thể, chứng tỏ nạn nhân đã bị hung thủ cưỡng hiếp.

Trong khi đó, một cảnh sát đặc trách chống tội phạm ở Kuala Lumpur xác nhận vào đêm 13/6, khi đi tuần tra, anh thấy một xe đậu bên lề đường. Nhìn vào xe, viên cảnh sát thấy một nam giới và một phụ nữ. Khi viên cảnh sát kiểm tra giấy tờ tùy thân, người đàn ông chìa thẻ căn cước của hai người. Tên của anh ta trên thẻ căn cước là Ahmad Najib Bin Aris.

Nhận thấy cô gái có vẻ căng thẳng, viên cảnh sát sinh nghi nên yêu cầu cô bước ra khỏi xe. Đúng lúc ấy gã đàn ông gào lên rồi nổ máy và nhấn ga. Viên cảnh sát bắn vào lốp xe trước để ngăn gã tẩu thoát, song xe vẫn phóng rất nhanh nên anh không thể đuổi kịp. Danh tính kẻ tình nghi và chiếc xe sau đó đã được cảnh sát truy tìm cho tới khi phát hiện ra thi thể.

Án tử cho tên sát nhân

Ahmad Najib Bin Aris là người giám sát công nhân vệ sinh máy bay cho một hãng hàng không địa phương. Sau quá trình điều tra và theo dõi trong nhiều ngày, cảnh sát phát hiện nơi trú ẩn của hắn ta. Ngoài ra, họ còn phát hiện một áo khoác màu xanh dương, một áo phông màu đỏ và hai quần jean thấm máu trong căn hộ của Ahmad.

Trước những chứng cứ ấy, nghi phạm và nhóm luật sư bào chữa vẫn phủ nhận hành vi bắt cóc, cưỡng hiếp, sát hại và đốt xác Canny Ong.

Nhằm phá vỡ thế bế tắc, các công tố viên phải đưa ra những chứng cứ nặng ký khác. Kết quả phân tích ADN từ máu trên cặp quần jean, áo khoác và áo phông của Ahmad cho thấy chúng thấm máu của Canny Ong. Chuyên gia pháp y cũng kết luận tinh dịch trong cơ thể cô gái thuộc về bị cáo.

Ahmad cuối cùng đã phải cúi đầu thừa nhận. Theo lời khai của bị cáo, đêm 13/6, khi đang ở trong bãi đỗ xe dưới tầng hầm của trung tâm mua sắm Bangsar, hắn thấy Canny Ong đứng ở ngoài ôtô và cúi xuống để tìm một thứ gì đó trong xe. Ahmad đã áp sát cô gái rồi đẩy nạn nhân vào trong xe. Sau đó dùng dao khống chế và trói tay cô lại ra đằng sau rồi lái xe phóng ra ngoài.

Khi xe dừng lại và bị viên cảnh sát kiểm tra giấy tờ, Ahmad sợ lộ nên bất ngờ nhấn ga để chạy trốn để lại cả thẻ căn cước. Nạn nhân bị bịt miệng và trói tay chân nên không thể chống cự. Sau 2 lần hiếp dâm, tên này đâm cô gái 2 nhát vào bụng. Thấy nạn nhân mất nhiều máu, kẻ bắt cóc đưa cô tới một cống rồi bỏ đi. Tối 14/6, Ahmad trở lại cống cùng một can xăng, đẩy thi thể nạn nhân xuống cống, tưới xăng lên xác và đốt.

Ahmad cuối cùng đã bị tòa án tuyên án tử hình cho tội danh bắt cóc, hãm hiếp, sát hại và đốt xác Canny Ong.
 

hoahongden12

Active Member

Những cái chết theo cùng một cách

Ngày 18/10/1977, thi thể của môt gái điếm 20 tuổi tên là Yolanda Washington được tìm thấy trên một sườn đồi vắng vẻ thuộc khu phố La Crescenta, phía đông bắc trung tâm thành phố Los Angeles, California trong tình trạng khỏa thân. Cảnh sát nhận thấy những vết trói ở cổ tay, mắt cá chân và cổ nạn nhân. Ngoài ra, Yolanda Washington cũng bị hãm hiếp.

Gần nửa tháng trôi qua, vào ngày 1/11, cảnh sát tiếp tục nhận được thông báo người dân đã phát hiện ra thi thể khỏa thân của một gái mại dâm khác mới 15 tuổi tên là Judith Lynn Miller cách khu vực phát hiện ra xác Yolanda Washington không xa. Hiện trường cho thấy Judith đã bị giết ở nơi khác với vết thâm tím trên cổ và những vết trói giống như nạn nhân đầu tiên.

Năm ngày sau, một thi thể nữ giới trần truồng khác lại được phát hiện cũng với đặc điểm như hai nạn nhân trước. Người phụ nữ được xác định là Lissa Teresa Kastin, 21 tuổi. Tuy nhiên lần này, nạn nhân không phải là gái mại dâm.

Ba xác chết có nhiều điểm tương đồng và đều được tìm thấy trên sườn đồi phía đông bắc thành phố nhưng người dân vẫn chỉ nghĩ đây là hiện tượng đơn lẻ, nhất là với một thành phố rộng lớn như Los Angeles. Chỉ có một vài thám tử giàu kinh nghiệm tỏ ra lo lắng khi cảm thấy rằng đây là màn khởi đầu cho một tội ác khủng khiếp nào đó.

Và rồi, những nỗi sợ hãi mơ hồ ấy đã trở thành hiện thực. Đúng vào dịp lễ Tạ ơn, xác những cô gái trẻ, thậm chí hai trong số đó chỉ mới 12 và 14 tuổi tiếp tục được tìm thấy trên sườn đồi trong khu vực Glendale, công viên Highland.

Sát nhân bên sườn đồi

Sáng chủ nhật ngày 20/11/1977, trung sĩ Bob Grogan đang tận hưởng ngày nghỉ của mình thì nhận được cuộc điện thoại đến khu vực ngọn đồi giữa Glendale và Eagle Rock. Địa hình hiểm trở và khó tìm của nó khiến Bob Grogan lập tức phán đoán hung thủ chắc hẳn phải rất quen thuộc với khu vực này.

Nạn nhân là môt cô gái chết trong tình trạng không mảnh vải trên người, nằm sấp bên khu sườn đồi. Bob dễ dàng nhận thấy dấu vết trói trên cổ tay, mắt cá chân và cổ nạn nhân. Khi lật cái xác ngược lại, có máu chảy ra phía vùng kín và nhiều vết bầm tím trên ngực. Trên tay nạn nhân có những vết kim châm, dấu hiệu của một người nghiện ma túy.

Kiểm tra khu vực quanh hiện trường, Bob không thấy có dấu hiệu của sự xáo trộn cũng như chống cự. Bob cho rằng vụ giết người xảy ra ở một nơi khác và một hoặc hai người đàn ông đã mang xác cô vứt ở đây.

Ngay chiều hôm đó, đồng nghiệp của Bob, Dudkey Vanrney cũng nhận được lệnh đi điều tra một vụ giết người ở bên kia sườn đồi. Xác của hai cô gái trẻ được phát hiện trong một đống rác bởi một cậu bé 9 tuổi khi cậu đang chơi trò săn kho báu. Hai cái xác đang trong thời kì phân hủy khiến những người chứng kiến không khỏi rùng mình.

Xung quanh hiện trường cũng không thấy có dấu hiệu của một vụ án mạng. Có khả năng nạn nhân đã bị giết và được phi tang ở đây. Cũng như trường hợp trước đó, hung thủ chắc chắn có nhiều hơn một người.

Không mất nhiều thời gian để xác định danh tính của hai nạn nhân. Đó là Dolores Cepeda (12 tuổi) và Sonja Johnson (14 tuổi). Cả hai đã mất tích khoảng một tuần trước, lần cuối cùng được nhìn thấy khi xuống xe bus và đứng nói chuyện với một người đàn ông lạ cùng bước xuống xe.

Các phương tiện truyền thông liên tục đưa tin về vụ việc. Lúc này, người dân mới bắt đầu nhận thấy sự bất ổn đang diễn ra. Thành phố chìm trong sợ hãi. Người ta đua nhau tham gia những lớp dạy cách tự vệ, thậm chí mang theo cả dao và súng khi ra ngoài. Họ gọi kẻ giết người là “Sát nhân bên sườn đồi”.

Tuy cơ quan chức năng đã phải đưa ra cảnh báo và nâng cao ý thức cảnh giác cho người dân nhưng những vụ án mạng kinh hoàng vẫn tiếp tục diễn ra.

Tội ác chưa dừng lại

Các vụ án mạng liên tục được đưa tin, cả thành phố chìm trong sợ hãi. Người ta đua nhau tham gia những lớp dạy cách tự vệ, thậm chí mang theo cả dao và súng khi ra ngoài. Cơ quan chức năng thường xuyên đưa ra cảnh báo tới người dân. Một đội điều tra đặc biệt gồm những thám tử giỏi nhất cũng được thành lập. Tuy nhiên, những vụ án mạng kinh hoàng vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.

Ngày 20/11/1977, người dân khi đi ngang qua một sườn đồi gần Glendale đã phát hiện thi thể khỏa thân của Kristina Weckler, 20 tuổi. Ngoài bị tấn công tình dục như các nạn nhân trước, cô sinh viên nghệ thuật này còn có nhiều vết bỏng trên cánh tay. Cảnh sát nhận định đây là dấu vết của một hình thức tra tấn.

Ngày 23/11, thi thể bị phân hủy nặng của nữ diễn viên Jane King, 28 tuổi cũng được tìm thấy gần một đoạn dốc của xa lộ Golden State. Nạn nhân đã chết trước đó khoảng hai tuần. Cô bị bóp cổ và hãm hiếp trước khi chết.

Ngày 29/11, cảnh sát lại nhận được thông tin án mạng xảy ra trên ngọn đồi Glendale. Xác một người phụ nữ trẻ được tìm thấy trong tình trạng tay chân bị trói. Có vết bỏng nơi lòng bàn tay nạn nhân giống như vết bỏng trên cánh tay Kristina Weckler. Một mẫu tinh dịch được tìm thấy xung quanh hiện trường, được xác định có thể là của hung thủ.

Nạn nhân là Lauren Wagner 18 tuổi, hiện đang là sinh viên. Lauren sống cùng cha mẹ ở thung lũng San Fernando. Đêm hôm trước, họ rất lo lắng khi cô con gái không về nhà. Sáng hôm sau, họ tìm thấy chiếc xe của cô đậu gần nhà với cánh cửa khép hờ.

Hai tuần sau, cảnh sát tiếp tục nhận được thông báo về xác chết của gái làng chơi 17 tuổi Kimberly Martin. Ngày 16/2/1978, thêm một nạn nhân nữa được tìm thấy khi một chiếc trực thăng nhìn thấy chiếc xe Datsun màu cam bị bỏ lại gần một vách đá hiểm trở. Cảnh sát đã tìm thấy thi thể của chủ nhân chiếc xe - Cindy Hudspeth, 20 tuổi, trong cốp xe.

Nhân chứng đầu tiên

Với mỗi trường hợp được phát hiện, cảnh sát cố gắng không bỏ sót bất kỳ điều gì dù là nhỏ nhất vì nó có thể là chìa khóa lần ra tung tích kẻ sát nhân. Trong cái chết của Lauren Wagner, chiếc xe của nạn nhân được tìm thấy đậu gần nhà là một chi tiết được các thám tử chú ý.

Cảnh sát đã có mặt tại nơi chiếc xe được phát hiện để thu thập thông tin. Gõ cửa ngôi nhà đối diện vị trí chiếc xe được tìm thấy, đó chính là nhà của Beulah Stofer. Beulah xuất hiện trong bộ dạng sợ hãi như vừa trải qua chuyện kinh hoàng. Cô vừa nhận được cuộc điện thoại khó hiểu của một người đàn ông.

Beulah Stofer cho biết người này đã dọa dẫm và yêu cầu mình không tiết lộ bất kì điều gì nhìn thấy vào đêm hôm trước nếu không hắn sẽ giết chết cô. Khi cảnh sát thông báo, cô mới biết những gì mình nhìn thấy là một vụ bắt cóc giết người chứ không chỉ là một trận cãi vã. Theo lời khai của Beulah Stofer, lúc đó là khoảng 21h, cô thấy chiếc xe màu tối có phần đầu màu trắng đã ép xe Lauren vào lề đường. Hai người đàn ông đã lao ra khỏi xe và tới bắt cóc Lauren.

Ánh đèn giúp Beulah nhìn rõ hai gã đàn ông vẫn còn trẻ, một tên dáng người cao ráo trong khi tên kia có nhiều sẹo mụn trứng cá, dáng đậm hơn, tóc rất dày và để ria mép. Chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra chiếc xe chở hai người đàn ông và cô hái lao vút đi. Lúc này, một trong hai tên mới nhìn thấy Beulah. Beulah chắc chắn mình có thể nhận diện được hung thủ nếu gặp lại lần nữa.

Giờ đây, không nơi nào ở thành phố Los Angeles được coi là an toàn. Không ai có thể đoán được khu vực tiếp theo mà hung thủ sẽ ra tay, chỉ biết rằng chúng chỉ tập trung vào các cô gái trẻ.
 
Bên trên