Tử Thư Tây Hạ

hoahongden12

Active Member
Thể loại : Trinh Thám
Tác Giả : Cố Phi Ngư
Tên khác: Đi Tìm Nền Văn Minh Trong Cát Vàng Sa Mạc.
Tình trạng hoàn ở tập 4
Ở một vùng nằm sâu trong sa mạc Badain Jaran có một kinh thành cổ của vương quốc Tây Hạ bị vùi lấp trong cát vàng, tên gọi là Hắc Thành.Theo truyền thuyết đó là nơi cất giấu vàng bạc châu báu của Một Tạng hoàng hậu. Rất nhiều kẻ đã bỏ mạng khi đi tìm kho báu trong truyền thuyết và đến nay vẫn chưa ai tìm ra ngôi thành cổ Tây Hạ bị mất tích.
Những năm 50 thế kỷ trước, đoàn khảo cổ khoa học Trung Quốc - Liên Xô đã tiến hành một cuộc thám hiểm vào sâu trong sa mạc Badain Jaran vì một cổ vật được lưu giữ lại từ thời Tây Hạ có tên là “kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu”. Đoàn thám hiểm bị mất tích một cách đầy bí ẩn và chỉ có hai thành viên sống sót, một bên phía Liên Xô và một bên phía Trung Quốc…
Hơn 50 năm sau, cổ vật này lại xuất hiện trong một cuộc bán đấu giá. Hàng loạt những sự việc bí ẩn đã xảy ra xung quanh món cổ vật này đã mở ra một câu chuyện kinh thiên động địa bên trong nó. Người chủ trì phiên đấu giá ngã từ trên lầu xuống chết thê thảm, người mua món cổ vật này cũng bị sát hại dã man bởi một kẻ không rõ danh tính. Hàng loạt cái chết bí hiểm là sự sắp xếp của một mục đích đen tối hay là truyền thuyết “huyết chú” truyền kiếp ẩn trong báu vật cổ kia?
Nhân vật chính Đường Phong – một nhà nghiên cứu văn hóa trẻ tuổi người Trung Quốc vô tình bị cuốn vào câu chuyện đầy những bí ẩn này. Đường Phong và những người bạn đã giải mã thành công những văn tự cổ Tây Hạ trên kệ tranh ngọc và lần theo dấu vết để đi tìm nguồn gốc nền văn minh Tây Hạ – nền văn minh đã bị chôn vùi với nhiều bí ẩn nhấttrong lịch sử Trung Hoa.
Bằng lối viết chân thực, xây dựng bối cảnh tài tình, những tình tiết gay cấn, ly kỳ xuất hiện liên tiếp rồi được đẩy lên cao trào, cùng với sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, địa lý, văn hóa, tôn giáo… Cố Phi Ngư đã dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác với cảm giác chân thực như chính mình được trải nghiệm hành trình khám phá bí mật nền văn minh bí ẩn đã bị quên lãng.
***Tác giả Cố Phi Ngư, tên thật là Cố Hân, sinh năm 1981. Từ khi còn nhỏ, anh đã bị mê hoặc bởi những bí mật, sự thần bí của lịch sử và những nền văn minh cổ. Anh từng một mình đi thám hiểm vào sâu trong sa mạc Badain Jaran (sa mạc lớn nhất Trung Quốc) cũng như men theo vành đai của ngọn núi tuyết thiêng A Ni Mã Khanh để tìm hiểu về những nền văn minh cổ đại đã mất.
Truyền thuyết về ngôi thành cổ bị chôn vùi trong cát vàng sa mạc Badain Jaran là cảm hứng giúp Cố Phi Ngư ấp ủ và sáng tác bộ truyện Tử Tư Tây Hạ. Ngay từ khi ra mắt, tác phẩm đã được độc giả đón nhận nhiệt liệt và từng lọt vào top 3 tiểu thuyết trinh thám - lịch sử bán chạy trên trang web Amazon.com.cn vào đầu năm 2011.
***
Bộ sách Tử thư Tây hạ gồm có 5 tập:
Tập 1: Mộ Người Sống bí ẩn trong Tử thư
Tập 2: U hồn bí ẩn
Tập 3: Biên giới không bóng người
Tập 4: Sa mạc bí ẩn
Tập 5: Kết cục chết chóc
 

hoahongden12

Active Member

Tất cả đều bắt đầu từ đây...

Cuốn tiểu thuyết này được lấy ý tưởng từ chuyến du lịch đầu tiên của tôi. Đó là vào khoảng vài năm trước, tại một sơn trại cổ xưa của người Khương nằm trong khu tự trị người Khương ở Bắc Xuyên, thuộc cao nguyên Xuyên Tây Bắc (Tứ Xuyên), tôi đã tình cờ gặp một người đã về hưu cũng đang tự mình đi du lịch khắp nơi. Ông đã kể cho tôi nghe một câu chuyện như sau:

Ở một vùng nằm sâu trong sa mạc Badain Jaran có một kinh thành cổ của vương quốc Tây Hạ bị vùi lấp trong cát vàng, tên gọi là Hắc Thành. Tòa thành đó do Lý Nguyên Hạo - vị hoàng đế đầu tiên của vương quốc Tây Hạ xây dựng. Lý Nguyên Hạo qua đời sau một cuộc chính biến cung đình, người con trai chưa đầy năm của ông là Lý Lượng Tộ kế vị, nhưng mẹ và cậu của ông - những người thuộc gia tộc Một Tạng mới là người thực sự nắm giữ triều chính. Khi Lượng Tộ trưởng thành, ông dần nhận thức được mọi việc và ngày một bất mãn với sự chuyên quyền của mẹ và cậu. Sau đó, ông đã phát động một cuộc chính biến, chém cậu ruột và lệnh cho mẹ mình dời đến kinh thành cổ ở giữa sa mạc hoang vắng. Khi Một Tạng hoàng hậu ra đi, ngoài đoàn tùy tùng đông đúc đi tháp tùng, bà còn mang theo vô số vàng bạc châu báu. Vài trăm năm sau, câu chuyện này vẫn được lưu truyền trên khắp vùng sa mạc Gobi và con đường tơ lụa, hấp dẫn bao kẻ trộm mộ đào vàng tìm kho báu. Rất nhiều kẻ đã bỏ mạng vì kho báu bí ẩn trong truyền thuyết đó, nhưng chưa ai tìm được vị trí của ngôi thành cổ Tây Hạ đã bị mất tích, vì truyền thuyết này còn mang theo một lời nguyền đáng sợ rằng: Người nào tìm được thành cổ thì sẽ mãi mãi không thể thoát ra khỏi sa mạc để quay về nữa.

Một câu chuyện từ thời Tây Hạ xa xôi, câu chuyện về những bảo vật của đất nước Tây Hạ, về Hắc Thành bị mất tích, về nền văn minh bị chôn vùi, về những mối tình đẹp mà bi lụy, còn có cả cuộc tranh giành đẫm máu của những người đời sau!

Ngay lần đầu tiên nghe được câu chuyện này, tôi đã bị nó thu hút một cách lạ kỳ. Câu chuyện của ông, có mấy phần là thực, mấy phần hư cấu, giờ đã không thể khảo chứng được nữa, nhưng người “bạn già” kia của tôi thì lại nhất nhất tin tưởng vào những điều trong câu chuyện, và luôn mong muốn rằng có một ngày mình sẽ tìm được di chỉ của vương triều được nhắc đến trong truyền thuyết đó, phủi sạch lớp bụi thời gian bao trùm lên lịch sử bí ẩn của nó.

Nhiều năm qua đi, khi khu sơn trại của người Khương ở Bắc Xuyên bị chôn vùi bởi một trận động đất, tôi bỗng nhớ lại câu chuyện từng được nghe kể trong chuyến đi vài năm trước đây, câu chuyện về Bắc Xuyên - nơi chứng kiến sự phồn thịnh rồi suy tàn của dân tộc Khương - một tộc người cũng lâu đời không kém gì dân tộc Hán.

Tất cả đều bắt đầu từ vùng đất này. Hơn một ngàn năm trước, một nhánh của người Khương là người Khương Đảng Hạng (còn gọi là người Đảng Hạng), vì sinh tồn, đã dũng cảm rời khỏi vùng đất của mình, bắt đầu một cuộc di dân hướng về phương Bắc đầy gian nan nhưng vô cùng vĩ đại. Họ đã kiên cường, dũng cảm, vượt qua núi tuyết nguy hiểm, băng qua sa mạc bao la, dưới sự dẫn dắt của người lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc để đến được một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, và đây cũng chính là nơi họ xây dựng một đế chế hưng thịnh rồi dần suy tàn. Nền văn minh mà họ đã sáng tạo ra ở nơi này, cuộc chiến sinh tồn của họ với hai dân tộc hùng mạnh hơn mình gấp nhiều lần là Đại Tống và Khiết Đan, để tạo dựng thế chân vạc, tồn tại suốt hơn hai trăm năm, cho đến tận ngày hôm nay, chúng ta vẫn gọi vùng đất tuyệt vời này bằng cái tên rất đẹp: Tái Thượng Giang Nam, tức Giang Nam trên ải, vì vùng đất này nằm ở vùng biên ải, nhưng phong cảnh sơn thủy rất hữu tình, có thể sánh ngang với Giang Nam.

Năm 1227, đoàn kỵ binh của Thành Cát Tư Hãn đã quét sạch Đế quốc Bạch Sắc[1] từng một thời phồn vinh này, những tàn tích còn lại của nền văn minh này cũng bị chiến tranh huỷ diệt. Một vương triều từng cùng Tống, Liêu, Kim, tạo thành thế tứ quốc chân vạc và đứng vững hơn hai trăm năm (1032 - 1227), đã đến và đi một cách vội vàng như thế.

Nền văn minh đã bị chôn vùi mãi mãi dưới lớp cát vàng cuồn cuộn, mãi đến tận ngày hôm nay, khi chúng ta lật giở “Nhị thập tứ sử” ra, vẫn chưa thể tìm ra được một cuốn nào mang tên “Tây Hạ sử”[2].

Những người Đảng Hạng cuối cùng đã đi đâu, về đâu? Không ai biết được câu trả lời là gì. Có người nói rằng, họ đã trở lại vùng núi nơi mình đã ra đi; cũng có người cho rằng, một chi của người Đảng Hạng đã mang nền văn minh đó đi vào lòng sa mạc, đến một ốc đảo mà không ai biết đến, để tiếp tục xây dựng nền văn minh riêng của mình...

Cố Phi Ngư

Trong tiểu thuyết này, tác giả có nhắc đến một số nhân vật có thực trong lịch sử của Trung Quốc và thế giới. Chúng tôi xin bổ sung phần chú thích về các nhân vật này để độc giả tiện theo dõi.

I - Các nhân vật trong lịch sử cổ đại của Trung Quốc

Thác Bạt Tư Công: vị thủ lĩnh kiệt xuất của dân tộc Đảng Hạng cuối triều Đường, vì có công trong khởi nghĩa Hoàng Sào nên được vua phong tước là Hạ Quốc Công - một chức tước được truyền lại cho con cháu và phân cho cai quản một vùng đất và được lấy họ Lý.

Thác Bạt Kế Thiên (963 - 1004): hay Lý Kế Thiên, được phong tước Đinh Nam Quân Tiết Độ Sứ, là người đặt nền móng cho vương triều Tây Hạ.

Thác Bạt Đức Minh (979 - 1031): còn gọi là Tây Bình Vương, Đinh Nam Quân Tiết Độ Sứ, con trai của Thác Bạt Kế Thiên.

Thác Bạt Nguyên Hạo (1003 - 1048): Tây Hạ Cảnh Tông, con trai của Thác Bạt Đức Minh, là vị hoàng đế sáng lập ra vương triều Tây Hạ. Năm 1032, Lý Nguyên Hạo bắt đầu tìm cách ly khai nhà Tống, ông từ bỏ họ Lý, đổi thành họ Ngôi Danh. Ông tự đặt niên hiệu, xây cung điện, thành lập chế độ quần thần văn võ, tổ chức hệ thống quân đội, cho sáng tạo hệ thống chữ viết riêng. Đến năm 1038 thì xưng làm hoàng đế, nhưng đặt tên nước bằng chữ Hán là Đại Hạ, người Hán lúc đó chỉ gọi là Tây Hạ.

Ngôi Danh Lượng Tộ (1047 - 1067): Tây Hạ Nghị Tông, trị vì từ năm 1048 tới năm 1067. Ông là con trai của Nguyên Hạo, lên ngôi khi mới lọt lòng mẹ, là vị hoàng đế thứ 2 của Tây Hạ.

Ngôi Danh Bỉnh Thường (1061 - 1086): Tây Hạ Huệ Tông, trị vì từ năm 1067 tới năm 1086, là vị hoàng đế thứ 3 của Tây Hạ.

Ngôi Danh Thuần Hựu (1177 - 1206): Tây Hạ Hoàn Tông, trị vì từ năm 1193 tới năm 1206, là vị hoàng đế thứ 6 của Tây Hạ.

Ngôi Danh An Toàn (1170 - 1211): Tây Hạ Tương Tông, là người đã tiến hành chính biến để soán ngôi của anh họ là Ngôi Danh Thuần Hựu, trị vì từ năm 1206 tới năm 1211, là vị hoàng đế thứ 7 của Tây Hạ.

Ngôi Danh Huân Túc (1163 - 1226): Tây Hạ Thần Tông, trị vì từ năm 1211 tới năm 1223, là vị hoàng đế thứ 8 của Tây Hạ.

Ngôi Danh Đức Vượng (1181 - 1226): Tây Hạ Hiến Tông, trị vì từ năm 1223 tới năm 1226, là vị hoàng đế thứ 9 của Tây Hạ.

Ngôi Danh Hiển (? - 1227): Tây Hạ Mạt Chủ Nam Bình Vương, là vị hoàng đế thứ 10 và cuối cùng của nước Tây Hạ trong lịch sử Trung Quốc.

Thành Cát Tư Hãn (1162 - 1227): sinh ra với tên gọi Thiết Mộc Chân, tên đầy đủ là Bột Nhi Chỉ Cân Thiết Mộc Chân, là Hãn vương của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập ở vùng Đông Bắc châu Á năm 1206. Là một nhà lãnh đạo lỗi lạc và quan trọng của lịch sử thế giới.

Dã Lợi Nhậm Vinh (? - 1042): là học giả nổi tiếng uyên bác, đại thần của Tây Hạ thời Nguyên Hạo, người đã sáng tạo ra chữ viết Tây Hạ.

Cốt Lạc Mậu Tài: học giả Tây Hạ, là người biên soạn cuốn “Phiên Hán hợp thời chưởng trung châu” năm 1190. Năm 1909, cuốn sách được tìm thấy ở di chỉ Hắc Thủy Thành (nay thuộc Ejinaqi, khu tự trị Nội Mông, Trung Quốc).

II - Các nhân vật lịch sử cận đại

La Chấn Ngọc (1866 - 1940): nhà nông học, nhà ngôn ngữ học, khảo cổ học, chuyên gia về đồ kim loại và đồ đá ngọc, là người khai phá ngành nông học hiện đại và người đặt nền móng đầu tiên cho ngành khảo cổ học cận đại của Trung Quốc.

La Phúc Trường (1895 - 1921): học giả nổi tiếng của Trung Quốc, chuyên gia văn tự cổ dân tộc, chuyên gia Tây Hạ học, con trai thứ 3 của La Chấn Ngọc.

Alexander Nikolayevich Shelepin (1918 - 1994): Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, người đứng đầu của ủy ban An ninh Quốc gia Xô Viết (KGB) từ năm 1958 đến năm 1961.

Aleksei Ivanovich Ivanov (1878 - 1938): nhà Hán học nổi tiếng người Nga, chuyên gia về ngôn ngữ Tây Hạ, người đã phát hiện ra cuốn từ điển song ngữ Hán - Tây Hạ “Phiên Hán hợp thời trưởng trung châu” vào năm 1909, sau đó ông bắt đầu đi sâu nghiên cứu ngôn ngữ Tây Hạ, có nhiều đóng góp lớn.

Mikhailovich Alekseev (1881 - 1957): Giáo sư, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, là chuyên gia Đông Phương học nổi tiếng của Liên Xô.

Lev N. Menshikov (1926 - 2005): nhà Hán học nổi tiếng người Nga, người đã có nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu văn hóa Đôn Hoàng, cổ văn Hán Tạng và văn hóa nhà Đường của Trung Quốc.

Joseph Francis Rock (1884 - 1962): người Mỹ gốc Áo, ông là nhà nhà thực vật học, ngôn ngữ học, địa lý học nổi tiếng - người đã dành 27 năm cuộc đời mình sống và tìm hiểu văn hóa ở vùng Tây Nam, Trung Quốc.
 

hoahongden12

Active Member

Một ngày mùa hạ cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, sâu thẳm trong sa mạc Badain Jaran tại Tây Bắc Trung Quốc, mặt trời chói lóa, cát vàng miên man, gió bụi cuồn cuộn vô tình vừa mới di chuyển vị trí của một gò cát. Mặt đất vốn bị gò cát che lấp giờ hiện lên một bộ xương cốt cao lớn, bộ xương đáng sợ này vẫn còn dính cả da và lông đã khô quắt, nghiễm nhiên dựng đứng trong đất cát, mãi vẫn không chịu đổ xuống. Sự cao lớn đó đã chứng minh cho con người trên thế giới này về thân xác đồ sộ kiện tráng của nó lúc còn sống, sự không gục đổ tượng trưng cho tính cách ngoan cường của nó. Lại một trận cuồng phong thổi qua, sa mạc sâu thẳm vọng lại những âm thanh kỳ dị chói tai, sau khi những âm thanh quái dị này đi qua, bộ xương cốt khổng lồ đó rút cuộc đã từ từ đổ xuống… Đây không phải là hài cốt của con người, sự cao lớn và ngoan cường của nó chỉ thuộc về chủ nhân của vùng sa mạc này - lạc đà hai bướu. Chính trong thời khắc cuồng phong đang lôi cuốn đi một gò cát khác và sắp sửa chôn vùi lần nữa những mẩu xương này, thì ở phía xa xa, một chiếc trực thăng Mi-4 bay đến, nó lượn vòng hồi lâu trên bầu trời sa mạc, cuối cùng bay lơ lửng tại vị trí lạc đà hai bướu đổ xuống.

Năm phút sau, phi hành viên bắt đầu báo cáo với tổng bộ: “Tổng bộ! Tôi là ong vàng, chúng tôi phát hiện ra bộ hài cốt lạc đà hai bướu và trang thiết bị của đoàn thám hiểm Trung - Liên, nhưng không phát hiện ra thành viên của đoàn thám hiểm...”

Hai ngày sau, một chiếc trực thăng khác đã phát hiện ra một người Trung Quốc ngất xỉu tại ven sa mạc Badain Jaran.

Ba ngày sau, tại gần biên giới Trung - Mông bộ đội biên phòng đã phát hiện ra một người Liên Xô đang thoi thóp.

Năm ngày sau, tại Bắc Kinh, một bộ hồ sơ được đặt trên bàn làm việc của bộ trưởng tổng tham mưu 3 - giải phóng quân Trung Quốc: “Không quân, quân trú phòng bản địa cùng với bộ đội biên phòng đã trải qua nhiều ngày lục soát tìm kiếm, ngoài phát hiện ra hai người sống sót và trang thiết bị của đoàn thám hiểm ra, không phát hiện thấy thành viên khác của đoàn thám hiểm Trung - Liên. Xét thấy những người mất tích không còn khả năng sống sót, bộ chúng tôi đã quyết định từ bỏ cứu viện, nhưng khiến mọi người kinh ngạc ở chỗ, khi phát hiện ra hai người còn sống sót thì rõ ràng họ lại ở cách khu vực trung tâm của đoàn thám hiểm bị mất tích tới gần vài trăm cây số...” Mức độ bảo mật của bộ hồ sơ này là: tuyệt mật. Giới hạn số năm giải mật: 100 năm.

Tám ngày sau, tại Mátxcơva, ủy ban an ninh quốc gia KGB, chủ tịch KGB châu Á - Nikolayevich Tạ Liệt Bình đang đứng trước cửa sổ, nhìn chăm chú vào bức tượng của Dzerzhinsky trước tòa nhà KGB tới mức thẫn thờ, trên cửa sổ có đặt một bộ hồ sơ ông vừa xem xong: “Xét thấy thành viên mất tích đã không còn khả năng sống sót, phía Trung Quốc đã từ bỏ cứu viện từ hôm trước, đoàn thám hiểm mất tích một cách bí ẩn, không ngoại trừ do bị nhân viên trại tình báo phá hoại...” Mức độ bảo mật của bộ hồ sơ này là: tuyệt mật. Giới hạn số năm giải mật: 200 năm.

Mười ngày sau, tại Đài Bắc, “Cục tình báo”, một bộ hồ sơ được đặt trên bàn làm việc của “cục trưởng” Trương Viêm Nguyên: “Trung Cộng cùng đoàn thám hiểm Liên Xô đã bí ẩn mất tích tại sa mạc Badain Jaran, ‘hoa sói độc’ bặt vô âm tín, được biết, hiện đã có người phát hiện ra hành tung của ‘hoa sói độc’ tại San Francisco...” Mức độ bảo mật của bộ hồ sơ này là: tuyệt mật. Giới hạn số năm giải mật: 200 năm.

Nửa tháng sau, tại Langley, trung ương tình báo CIA, giám đốc CIA Allen Dulles cầm bộ hồ sơ, chau mày: “Đoàn thám hiểm Liên Xô - Trung Quốc mất tích bí ẩn tại sa mạc Badain Jaran, đoàn thám hiểm này vô cùng khả nghi, trên danh nghĩa là khảo sát địa chất, nhưng ngoài những chuyên gia địa chất ra lại còn có cả những chuyên gia hàng đầu về sinh vật, khảo cổ, lịch sử, khí tượng, nhân loại học, y học và công nghiệp quân sự của hai nước Trung Quốc và Liên Xô. Càng khiến người ta phải bất an ở chỗ, trong đoàn thám hiểm còn có rất nhiều quân nhân và nhân viên tình báo. Một đoàn thám hiểm khoa học trình độ cao như vậy bỗng đột nhiên mất tích khiến người ta cảm thấy khó hiểu, có lẽ phía Đài Loan cũng có liên quan, cũng không ngoại trừ khả năng bị kẹt giữa văn minh ngoại địa...” Mức độ bảo mật của bộ hồ sơ này là: tuyệt mật. Giới hạn số năm giải mật: vĩnh viễn.
 

hoahongden12

Active Member

Câu chuyện về một dân tộc đã diệt vong nhưng bất tử

Hàng loạt những sự việc bí ẩn đã xảy ra xung quanh món cổ vật này đã mở ra một câu chuyện kinh thiên động địa bên trong nó. Người chủ trì phiên đấu giá ngã từ trên lầu xuống chết thê thảm, người mua món cổ vật này cũng bị sát hại dã man bởi một kẻ không rõ danh tính. Hàng loạt cái chết bí hiểm là sự sắp xếp của một mục đích đen tối hay là truyền thuyết “huyết chú” truyền kiếp ẩn trong báu vật

Tiết trời chính hạ, một cuộc đấu giá tác phẩm nghệ thuật kéo dài tới tận mùa xuân đang được cử hành tại một khách sạn 5 sao nằm trong đường vành đai 3 của Bắc Kinh. Công ty tổ chức đấu giá Quốc tế Hoa Bảo đã bắt đầu thi hành “Luật đấu giá nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” từ năm 1997, tổ chức đấu giá mùa xuân hàng năm từ lâu đã trở thành hội chợ đấu giá có tiếng vang nhất toàn quốc. Quốc tế Hoa Bảo cũng theo đó trở thành công ty đấu giá hàng đầu thế giới.

Tề Ninh, chuyên gia đấu giá, chủ tịch Quốc tế Hoa Bảo, nổi tiếng với tài ăn nói và con mắt tinh đời. Nói về khả năng diễn thuyết của ông là khởi nguồn từ tài ăn nói tuyệt diệu và tài biện luận vô song, luôn kích động hết mức có thể tinh thần của những khách hàng. Nói về con mắt tinh đời của Tề Ninh là nói tới đôi mắt lanh lợi sắc bén có trình độ giám định và thưởng thức cổ vật cao độ của ông.

Sáu giờ chiều. Một chuyên gia đấu giá trẻ tuổi từ bục đấu giá lui xuống, tới bên cạnh Tề Ninh, cung kính nói: “Tề sư phụ, đến lượt ngài xuất hiện rồi.” Tề Ninh gật đầu rồi chau chau mày, bước lên bục đấu giá.

Hội chợ đấu giá mùa xuân kéo dài trong mười ngày, mỗi ngày đều có một vật được “găm hàng” để tới cuối cùng mới đấu giá. Chỉ khi nào tới thời khắc này, Tề Ninh mới xuất hiện chủ trì. Hôm nay đã là ngày cuối cùng của hội chợ đấu giá, vật đấu giá cuối cùng theo như thông lệ sẽ chính là vật quý báu và đắt giá nhất trong hội chợ đấu giá mùa xuân, đích thị là hàng được găm lại. Nhưng tất cả những người đang có mặt tại hội chợ đều có thể nhận ra, Tề Ninh hiện giờ không được hưng phấn cho lắm.

“Tiếp theo là vật đấu giá thứ… thứ 1038, kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ, được đem trở về từ nước ngoài, phi chỉ định đấu giá.” Chiêu giới thiệu của Tề Ninh giản đơn tới mức không thể đơn giản hơn, sau đó ông tuyên bố: “Bây giờ bắt đầu tranh giá, giá khởi điểm: 80 vạn.”

Hội trường đấu giá rất lớn, có 488 chỗ ngồi cho người tham gia đấu giá. Do hôm nay là phiên đấu giá cuối cùng của hội chợ đấu giá mùa xuân, hiện giờ lại đang đấu giá vật găm hàng cuối cùng, hội trường đấu giá chật kín người, rất nhiều người mua không tìm được chỗ ngồi, đành phải đứng vậy. Nơi đông người như thế này dĩ nhiên khó tránh khỏi sự ồn ào hỗn loạn. Nhưng lúc Tề Ninh vừa mới lên bục đấu giá đây thôi, những âm thanh hỗn loạn liền từ từ ngưng bặt. Và giây phút Tề Ninh tuyên bố bắt đầu đấu giá, cả hội trường đều đã hoàn toàn trở nên im lặng.

Năm sáu trăm người cùng lúc im chặt miệng không nói chuyện. Họ không phải là những quân nhân từng được huấn luyện chuyên nghiệp, mà là mọi hạng người trong xã hội đến từ khắp nơi trên thế giới, phần lớn trong đó do bản thân giàu có nên từ lâu đã quen với việc không tuân thủ kỷ luật, nhưng hiện giờ họ không chỉ im bặt, mà dường như đến cả điện thoại cũng đều để chế độ câm hoặc tắt máy. Hội trường im lặng tới mức có chút kỳ dị.

Không ai nói chuyện, dĩ nhiên cũng không có người khởi giá tranh giá.

Tề Ninh càng chau mày sâu hơn, tuyên bố lần nữa: “Bây giờ bắt đầu tranh giá, giá khởi điểm 80 vạn.”

Vẫn chưa có người ra giá, cũng không có người nói chuyện. Những người mua phía dưới, người thì nhìn Tề Ninh, nét mặt cười mà như không cười, người thì ngó trái ngó phải xem xem có ai ra giá không, người thì nhìn lướt qua một cái, bất luận hai bên có quen biết nhau không đều có thể đi guốc trong bụng nhau mỉm cười khan một nụ.

Sắc mặt Tề Ninh bối rối, hít một hơi thật sâu, tuyên bố lần thứ ba: “Bây giờ bắt đầu tranh giá, giá khởi điểm 80 vạn.”

Vẫn không có người đáp lại. Lúc này, những người mua phía dưới không tiếp tục ngó ngang ngó dọc nữa, tất cả mọi người đều dồn ánh mắt về phía Tề Ninh, xem xem ông sẽ xử lý thế nào. Trong những ánh mắt đó, có chế nhạo, cũng có cả cảm thông. Đường đường là chuyên gia đấu giá, chủ tịch của Quốc tế Hoa Bảo, trong hội chợ đấu giá mùa xuân quan trọng nhất toàn quốc, lại được chủ trì vật đấu giá găm hàng cuối cùng, vậy mà tuyệt nhiên không có ai ra giá. Điều đó mới buồn cười làm sao, mới bi ai làm sao?

Sắc mặt Tề Ninh đỏ bừng lên, đang chuẩn bị quẳng chiếc búa đấu giá xuống, quay người rời khỏi bục đấu giá. Chính trong giây phút này, bên dưới đột nhiên có người giương biển lên, lớn tiếng nói: “Tôi ra giá...”

Người giương biển ra giá là một người trung niên ngồi ở giữa hàng thứ ba, hơi chếch sang trái một chút, giọng nói đó đã thu hút mọi ánh nhìn của tất cả những người đang có mặt trong hội trường. Ông ta dương dương tự đắc, quay lại tấm biển trên tay để những người xung quanh nhìn thấy, lớn tiếng hét: “Tôi ra giá 10 vạn!”

Gía khởi điểm của tấm kệ tranh ngọc này là 80 vạn, ông ta chỉ ra giá 10 vạn, đây rõ ràng là phá quấy, làm trò.

Tề Ninh hiển nhiên biết người này, ông vẫn giữ phép lịch sự, nói: “Xin lỗi Lưu tiên sinh, ngài ra giá thấp hơn giá khởi điểm, bởi vậy vô hiệu.”

Người trung niên họ Lưu cười mỉa: “Ồ, là tôi thấy ông hô hào trên bục đấu giá nhưng không ai buồn để ý tới nên mới muốn giúp ông gỡ rối. Hóa ra là tôi sai rồi, vật găm hàng quý giá nhất này xem ra để Quốc tế Hoa Bảo tự giữ lấy, vốn không chuẩn bị bán ra ngoài mà.” Khi nói tới “vật găm hàng quý giá nhất”, ông ta cố ý nhấn mạnh gằn giọng kéo theo đó là cả một tràng cười nhạo báng.

Tề Ninh miễn cưỡng ứng phó nói: “Đem ra đấu giá, đương nhiên là chuẩn bị bán đấu giá rồi.”

Người trung niên họ Lưu đổi giọng rất nhanh, lớn tiếng chất vấn: “Chuẩn bị bán đấu giá, thế sao ra giá cao vậy? Nó thực sự đáng 80 vạn, đủ tư cách làm vật găm hàng không?!”

Tề Ninh không nói được gì nữa.

Người trung niên họ Lưu kiên quyết không tha, hỏi dồn tới chân tường: “Hai mươi mấy chuyên gia đồ cổ đều nói nó là vật cấp thấp, tiên sinh Uông Thế Tương còn định giá nó chỉ đáng 10 vạn, lẽ nào mắt họ đều có vấn đề? Các người dùng đồ cấp thấp làm vật găm hàng, chỉ đáng 10 vạn mà ra giá khởi điểm tới 80 vạn, định ỷ vào danh tiếng của Quốc tế Hoa Bảo lừa gạt người mua, lừa đảo tiền bạc đúng không? Hay là cố ý dùng vật găm hàng cấp thấp tự gây ra tiếng cười hô hố, lừa bịp tình cảm của mọi người, thu hút sự quan tâm của mọi người? Bất luận mục đích của các người là gì, hành vi này đều là lừa đảo cực độ. Với danh nghĩa là một nhân sỹ trong ngành đấu giá, Lưu Hoa Đông tôi coi thường các người! Quốc tế Hoa Bảo có to lớn hơn, nổi tiếng hơn, cũng không thể tùy tiện lừa gạt các vị khách hàng! Còn Tề Ninh ông, mắt miệng nổi tiếng, năng lực giám định và thưởng thức hàng đầu mà không thể nhận ra vật không đáng giá với giá trị của nó sao? Lẽ nào trong mắt chuyên gia đấu giá hàng đầu như ông chỉ có tiền, đạo đức nghề nghiệp cơ bản nhất chạy đi đâu mất rồi hả!”

Những lời này càng nói càng cay nghiệt, từ phê bình vật bán đấu giá, tới phê bình Quốc tế Hoa Bảo, cuối cùng chuyển sang công kích nhắm thẳng vào Tề Ninh. Nói tới mức hai tay Tề Ninh phải vịn vào bục, mặt trắng bệch, xấu hổ tới đỉnh điểm, tới nỗi một câu phản bác cũng không thốt ra được. Tâm trạng của người mua phía dưới cũng bắt đầu bị kích động, náo loạn theo. Người thì cười nhạt, người thì coi thường, người thì túm năm tụm ba bàn tán về Quốc tế Hoa Bảo, xem thường Tề Ninh… cả hội trường đấu giá bỗng chốc náo loạn tới đỉnh điểm.

2

Đường Phong chịu sự ủy thác của hiệu trưởng trường Đại học Kim Lăng đi thu thập những vật sưu tập cho thư viện mới xây của trường, bắt đầu tham gia đấu giá từ ngày thứ bảy của hội chợ đấu giá mùa xuân. Hiện giờ anh đang ngồi trên hàng ghế đầu dành cho những người mua, đã chứng kiến tất tần tật mọi việc vừa xảy ra. Khi xung quanh đang náo loạn, Lưu Hoa Đông đang dương dương tự đắc, Tề Ninh toàn thân run rẩy lẩy bẩy gần như gục ngã ra sàn đấu giá thì Đường Phong rút cuộc đã không thể nhịn được nữa, anh giương tấm biển trên tay lên, đồng thời lớn tiếng: “Tôi ra giá 80 vạn!”

Do Đường Phong ngồi ngay hàng ghế đầu, lại lớn tiếng hét lên, nên tuy xung quanh rất hỗn loạn nhưng Tề Ninh vẫn có thể chú ý tới anh, mắt ông bỗng chốc sáng rực lên, giống như tóm lấy ngay được một cọng cỏ cứu mạng, Tề Ninh chỉ vào Đường Phong liên tiếp hét lên: “Tiên sinh này ra giá 80 vạn! Tiên sinh này ra giá 80 vạn!”

Lúc này, tất cả mọi người đều chú ý tới tấm biển chữ mờ Đường Phong đang giơ lên, cả hội trường lại bỗng chốc tĩnh lặng trở lại. Lưu Hoa Đông giống như bị bọ cạp chích cho một cái, đứng phắt dậy, chỉ vào Đường Phong nói: “Không thể thế được! Không thể thế này được! Cậu nhất định là cò mồi của Quốc tế Hoa Bảo, nhất định là như thế!”

Tề Ninh lúc này đã trấn tĩnh trở lại, nghiêm nghị nói: “Lưu tiên sinh, xin lưu ý những gì bản thân ngài đang nói, ngài phỉ báng vô căn cứ như vậy, chúng tôi hoàn toàn có thể khởi kiện ngài lên tòa án.”

Lưu Hoa Đông hiển nhiên cũng tỏ ra là người nhanh nhạy, ban nãy chỉ là luống cuống mà thôi, nên liền nói ngay: “Tôi thu lại những lời vừa nói.” Nói xong lại chuyển ánh mắt về phía Đường Phong: “Chàng trai, cậu quyết định ra giá 80 vạn để mua thứ này sao?”

Trong đoạn đối thoại vừa rồi, Đường Phong đã hiểu ra Lưu Hoa Đông là người của một công ty đấu giá, anh có chút phản cảm với hành động lợi dụng cơ hội kích động khách hàng để đánh trả đàn áp đối thủ. Giờ đã nghe thấy, anh lườm Lưu Hoa Đông một cái, nói: “Mắt ông có vấn đề hay là não có vấn đề đấy hả? Không quyết định thì tôi giương biển làm gì?”

Lưu Hoa Đông bị phản đòn, gằn giọng chửi rủa một câu, ngượng ngập ngồi xuống.

Đường Phong không nghe rõ ông ta chửi gì, nhưng nghĩ tới mấy từ đại loại như “bại não”, “thằng ngu”, cộng thêm những ánh mắt của những khách hàng xung quanh đổ dồn lại thì cũng gần như là muốn biểu đạt cái ý đấy. Anh không vì thế mà manh động, lòng nghĩ: các người cảm thấy tôi là thằng ngốc, nhưng tôi lại thấy các người mới chính là bọn ngốc ấy!

Tấm biển trong tay Đường Phong vẫn giương lên hướng về phía Tề Ninh, trên bục đấu giá Tề Ninh hô lên: “Vị tiên sinh này ra giá 80 vạn, còn có ai ra giá cao hơn không...” Câu nói này vừa dứt, lại kéo theo một tràng cười nhạo báng, nhưng Tề Ninh vẫn bỏ qua để tiếp tục trình tự: “80 vạn lần thứ nhất… 80 vạn lần thứ hai… 80 vạn lần thứ…” ông chưa dứt lời thì người phụ nữ phía sau ra giá 85 vạn!

Khách hàng trong hội trường bắt đầu náo loạn. Đường Phong vốn đã chuẩn bị sẵn sàng đợi tiếng búa của Tề Ninh gõ xuống, nghe thấy vậy vô cùng kinh ngạc, quay đầu lại nhìn, người giương biển tranh giá hóa ra là một phụ nữ tóc vàng. Hình như cô ta tới hơi muộn, đến cả chỗ ngồi cũng không có, đành phải đứng ở phía sau, tay phải giương biển, trên ngón trỏ đeo một chiếc nhẫn ngọc xanh quý hiếm hình dạng vô cùng độc đáo, bắt mắt.

“Từ một vật đấu giá chẳng ai ngó ngàng tới, sau khi mình phát giá bỗng nhiên lại có người tới cướp mất”, Đường Phong tắt ngấm nụ cười lắc lắc đầu, hạ biển xuống. Việc phát giá của anh vừa nãy chỉ là nhất thời, nên giờ đương nhiên, anh không thể tiếp tục cạnh tranh được nữa.

“Quý cô này ra giá 85 vạn, có còn giá nào cao hơn không?”

“Được, vị tiên sinh này ra giá 90 vạn!” lại có người ra giá cạnh tranh rồi. Lần này là một ông lão tóc bạc phơ, cánh tay đang giương tấm biển lên trắng bệch, khô héo, cứng đơ.

Người phụ nữ tóc vàng và ông lão tóc bạc dường như đều nhất định phải đoạt được tấm kệ tranh ngọc này, không thể nhường nhịn nhau. Dưới sự chủ trì của Tề Ninh, giá cạnh tranh từng bước được nâng lên. Vật găm hàng cuối cùng của hội chợ đấu giá mùa xuân lần này, từ giá khởi điểm 80 vạn không ai buồn hỏi han chẳng mấy chốc đã được nâng tới 900 vạn.

Những người mua phía dưới bục đấu giá từ chỗ thì thào to nhỏ, đến lúc này đã hoàn toàn lặng thinh nhìn người phụ nữ tóc vàng và ông lão tóc bạc kịch liệt tranh giá.

Sau khi người phụ nữ tóc vàng ra giá 900 vạn, ông lão tóc bạc dường như đã mất hết kiên nhẫn, ông giương biển hét lên: “1000 vạn!” thêm vào hẳn 100 vạn, rõ ràng là muốn đánh tan hoàn toàn tâm lý phòng bị của đối phương.

Quả nhiên, người phụ nữ tóc vàng không lập tức nâng giá giống trước đó nữa mà bắt đầu trở nên do dự.

Tề Ninh phát huy sở trường miệng lưỡi của ông, không để lỡ thời cơ hỏi ngay: “Quý cô đây, vị lão tiên sinh này ra giá 1000 vạn, cô có còn giá cao hơn không?”

Người phụ nữ tóc vàng cúi đầu im lặng.

Trên bục đấu giá, Tề Ninh bắt đầu tính thời gian: “1000 vạn lần thứ nhất… 1000 vạn lần thứ hai...”

Lúc này, Đường Phong nhìn thấy người phụ nữ tóc vàng lấy tay ra hiệu đợi một lúc, sau đó móc điện thoại ra gọi. Tề Ninh hô lên trên bục đấu giá: “Cô cứ cân nhắc thêm, tôi có thể đợi cô! Nhưng thời gian của quý cô không còn nhiều nữa đâu.”

Người phụ nữ tóc vàng đã gọi được điện thoại, và nói tiếng Anh liếng thoắng, cô ta nói rất nhanh, Đường Phong ngồi hàng đầu, khoảng cách hơi xa nên không nghe thấy cô ta nói gì. Lúc này lại nghe thấy Tề Ninh thúc giục: “Nếu như cô không ra giá, tấm kệ tranh ngọc này sẽ thuộc về lão tiên sinh đây!”

Người phụ nữ tóc vàng ngắt máy, lại giương tấm biển trên tay lên, hét lên bằng tiếng Hán có chút lơ lớ: “Tôi trả…” cô ta vẫn chưa hét ra giá thì Đường Phong đã nghe thấy một tiếng “tinh”, anh biết rằng đó là tiếng chiếc búa đấu giá gõ xuống, nhưng người phụ nữ tóc vàng rõ ràng đã giương biển lên, Tề Ninh với tầm nhìn và phản ứng của bậc chuyên gia đấu giá trong Quốc tế Hoa Bảo, không thể không để ý thấy.

Đường Phong quay đầu lại nhìn Tề Ninh trên bục đấu giá, chỉ nhìn thấy ánh mắt phức tạp của ông đang thu lại ánh nhìn. Dõi theo ánh mắt của ông ta, Đường Phong nhìn thấy cánh cửa nhỏ chếch bên trái hội trường có chút lay động.

Tề Ninh đứng trên bục đấu giá tuyên bố quyền sở hữu của kệ tranh ngọc.

Người phụ nữ tóc vàng trong cơn phẫn nộ nói tiếng Hán càng thêm tồi tệ, nên đã chuyển hẳn sang dùng tiếng Anh nói chuyện với Tề Ninh, trách mắng Tề Ninh tại sao rõ ràng đã nhìn thấy cô ta giương biển rồi mà vẫn còn gõ búa. Tề Ninh cũng dùng tiếng Anh trôi chảy đáp lại, giải thích rằng đã cho cô ta thời gian rồi, nếu như tiếp tục đợi thì sẽ không công bằng với những người mua khác. Người phụ nữ tóc vàng biện luận, cô ta đã giương biển lên rồi, hơn nữa trước khi cô giương biển, Tề Ninh vẫn chưa nhắc nhở “lần cuối cùng” mà!

Một số người nghe hiểu cuộc đối thoại giữa họ nên bắt đầu làm loạn theo, chỉ trích Tề Ninh không công bằng. Nhưng đại đa số đã không còn hứng thú với việc này nữa, cả một buổi chiều đấu giá đã khiến mọi người mệt mỏi rã rời, người người lần lượt đứng dậy kéo nhau ra khỏi hội trường, người phụ nữ tóc vàng đứng ở hàng sau cùng cũng bị chìm giữa biển người rời khỏi đây.

Đường Phong thấy Tề Ninh chuẩn bị rời khỏi bục đấu giá nên đã gọi ông ta lại, hỏi: “Ban nãy ông vừa nhìn thấy gì vậy?”

Nét mặt Tề Ninh trở nên rất khó hiểu.

Đường Phong hướng về phía cánh cửa nhỏ chếch bên trái hội trường liếc nhìn một cái, hỏi lại: “Có phải có người điều khiển ông không?”

Sắc mặt Tề Ninh biến đổi rõ rệt, lắp ba lắp bắp nói: “Không… tôi không hiểu anh đang nói gì. Xin lỗi, hội chợ đấu giá đã kết thúc rồi, tôi phải đi đây!” nói xong ông ta liền vội vàng bỏ đi.

3

Đường Phong ngồi đó, đợi người về gần hết mới đứng dậy rời khỏi hội trường đấu giá. Anh bước về phía thang máy, cửa thang máy đang chuẩn bị khép lại, anh kêu lên một tiếng “Xin đợi một chút”, rồi chạy nhanh tới trước cửa thang máy. Người trong thang máy nghe thấy tiếng gọi của anh nên đã nhấn nút mở cửa.

Người trong thang máy là một ông lão tóc bạc phơ. Đường Phong nhìn ông với ánh mắt có chút hoài nghi, khi anh thấy đôi cánh tay trắng bệch, khô héo, cứng đơ của ông thì đã lập tức nhận ra, ông ta chính là ông lão đấu giá được tấm kệ tranh ngọc cuối cùng.

Thang máy chạy xuống. Ông lão nhìn Đường Phong một cái, đột nhiên cất giọng hỏi: “Cậu chính là chàng trai khởi giá 80 vạn phải không?”

Đường Phong gật gật đầu.

Ông lão tiếp: “Cậu cũng hứng thú với tấm kệ tranh ngọc này?”

Đường Phong thuận miệng trả lời qua loa: “Cũng tàm tạm!”

Ông lão hỏi: “Đã có hứng như vậy thì sao không tiếp tục tranh giá? Nếu như không hứng thú thì tại sao người khác đều không buồn để ý, cho rằng đấy là thứ chỉ không đáng tới 10 vạn, mà cậu lại chịu ra giá 80 vạn? Hay cậu thực sự là cò mồi của Quốc tế Hoa Bảo?”

Đường Phong cười lạnh lùng, đáp: “Nếu như tôi là cò mồi của Quốc tế Hoa Bảo thì lẽ nào ông lại không biết?”

Ông lão sững sờ, hỏi: “Ý gì?”

Đường Phong đáp: “Ông và chuyên gia đấu giá đó không phải đã cấu kết với nhau rồi đó sao? Vừa nãy nếu như không phải ông ta ngầm giở trò, gõ búa trước thì ông có thể mua được tấm kệ tranh ngọc dễ dàng vậy ư?”

Mặt ông lão biểu lộ thâm ý, trầm tư một lúc lại hỏi tiếp: “Cứ cho rằng tiếp tục tranh giá đi chăng nữa thì sao nhỉ? 1500 vạn, 2000 vạn, chỉ là bỏ thêm chút tiền mà thôi, tấm kệ tranh ngọc vẫn sẽ rơi vào tay tôi.”

Đường Phong ghét nhất loại người thùng rỗng kêu to kiểu này, chẳng buồn khách khí nói luôn: “Nếu ông thực sự không coi trọng tiền bạc, thế tại sao không trực tiếp lấy tiền ra, quang minh chính đại vượt mặt người ta, mà lại làm trò đê tiện như thế!”

Ông lão lắc lắc đầu, nói: “Không, cậu nhầm rồi, tôi không cấu kết với chuyên gia đấu giá… sự việc này có chút kỳ lạ, nhưng chẳng liên quan gì tới cậu cả, chàng thanh niên ạ.” Nói xong, ông định giơ tay ra vỗ vỗ vai Đường Phong, nhưng đã bị Đường Phong xoay người né tránh nên đành bối rối thu tay lại.

Trở về khách sạn, Đường Phong bật máy tính, lên mạng tra cứu tin tức về hội chợ đấu giá mùa xuân năm nay, thông tin tìm được nhiều nhất liên quan tới vật găm hàng cuối cùng và nhân vật chủ chốt liên quan tới sự kiện này có lão tiên sinh Uông Thế Tương, ông vốn được mệnh danh là “Nhà chơi đồ cổ đệ nhất Bắc Kinh.”

Uông lão tiên sinh là chuyên gia văn vật, nhà giám định thưởng thức văn vật, nhà sưu tầm nổi tiếng, nhân vật kiệt xuất trong giới văn vật. Toàn quốc mỗi năm có khoảng hơn chục hội chợ đấu giá văn vật quy mô lớn và vừa, vì phép lịch sự ban tổ chức đều sẽ gửi thiếp mời và quyển giới thiệu tới cho Uông lão tiên sinh, nhưng Uông lão tiên sinh chưa từng tham dự lần nào, nhiều nhất cũng chỉ xem xong quyển giới thiệu, ủy thác người khác đi đấu giá mua lại mấy văn vật.

Không ngờ, hội chợ đấu giá mùa xuân của Quốc tế Hoa Bảo lần này, chỉ trong ngày đầu tiên, khi tất cả những vật đấu giá được đem ra triển lãm, Uông lão tiên sinh đã đến tận nơi. Ông nhắm tới vật găm hàng cuối cùng - tấm kệ tranh ngọc. Sau khi xem xét tỉ mỉ tấm kệ tranh ngọc, Uông lão tiên sinh chỉ nói đúng một câu: “Quá đặc biệt đấy!” sau đó bỏ đi.

Sau này có phóng viên dùng đủ mọi kế sách tới phỏng vấn ông, hỏi đến việc này, Uông lão tiên sinh im lặng không chịu hé răng, bị hỏi tới nỗi bực dọc, ông lại thốt ra một câu “Tấm kệ tranh ngọc đó chỉ đáng 10 vạn.”

Đáng giá 10 vạn thì chỉ được xếp vào loại đồ cổ cấp thấp. Loại hàng như vậy, đương nhiên không đủ tư cách để trở thành vật đấu giá cuối cùng. Nhưng do Quốc tế Hoa Bảo vẫn cứ nhất định muốn làm vậy, nên đã khiến cho Uông lão tiên sinh sau khi đọc quyển giới thiệu lại tới xem triển lãm vật đấu giá. Sau khi xem vật đấu giá, xác nhận mình đã không nhìn lầm, vật găm hàng đấu giá cuối cùng này thực tế là hàng cấp thấp. Một người trung hậu cao niên như Uông lão tiên sinh, chỉ nói một câu “quá đặc biệt đấy” rồi ra về là đã giữ thể diện cho Quốc tế Hoa Bảo rồi.

Hai câu nói của Uông Thế Tương: “Quá đặc biệt đấy”, “Tấm kệ tranh ngọc đó chỉ đáng 10 vạn”, cộng thêm những nhận định thêm cành thêm lá của phóng viên viết bài, nên sau khi lên báo đã lập tức được chuyển đăng vô số lần. Hội chợ đấu giá mùa xuân của Quốc tế Hoa Bảo cũng được chú ý tới hơn những lần trước đó. Trước hôm triển lãm vật đấu giá 3 ngày, hơn hai chục vị chuyên gia văn vật, nhà giám định thưởng thức văn vật trên toàn quốc đều tới xem tấm kệ tranh ngọc này, từ góc độ chuyên gia phân tích kĩ lưỡng, rút cuộc họ đều nhất loạt tán đồng với thuyết pháp của Uông lão tiên sinh: tấm kệ tranh ngọc đó chỉ đáng 10 vạn.

Đến ngày thứ 7 của hội chợ đấu giá mùa xuân thì Đường Phong mới đến, nên không biết về những việc này, giờ thì anh mới hiểu ra tại sao cuộc đấu giá chiều nay lại có nhiều người tham gia đến vậy, tại sao khi Tề Ninh lên bục chủ trì đấu giá vật găm hàng cuối cùng, trong hội trường lại có thể duy trì bầu không khí tĩnh lặng. Hóa ra, mọi người đều chờ đợi để xem vật được các chuyên gia giám định là văn vật cấp thấp này khi được trở thành vật găm hàng đấu giá sẽ có thằng ngu nào ra giá cạnh tranh hay không, hay là vị chuyên gia đấu giá sẽ ra sức hò hét giống như một thằng ngu mà chẳng ai buồn để ý.

Đường Phong cười đau khổ. Xem ra bản thân thực sự đã làm một thằng ngốc. Nhưng văn vật là gì chứ? Không phải là thứ rách nát từ triều đại nào niên đại nào đó lưu lại sao! Có lẽ chúng có giá trị lịch sử, có giá trị công nghệ, nhưng tuyệt đối không có giá trị tiền vàng. Giá trị tiền vàng của chúng đều là do mấy thằng mua ngu si có chút tiền nhàn rỗi đốt lấy đốt để đẩy giá lên.

Đường Phong rất coi thường hành vi dùng giá trị tiền bạc để định vị văn vật như thế này, nhưng chẳng làm được gì cả, trong thời buổi kinh tế, đây sớm đã là một xu thế phổ biến từ lâu rồi.

Tham gia bốn ngày hội chợ đấu giá mùa xuân, Đường Phong cũng chộp được vài thứ đồ cổ. Ngày thứ hai sau khi ăn sáng xong, anh liền gọi xe tới Quốc tế Hoa Bảo làm nốt mấy thủ tục liên quan. Quốc tế Hoa Bảo ở tầng trên cùng của cao ốc Vân Hoằng, tầng 13. Đường Phong bước vào cánh cửa xoay tròn của tòa cao ốc, một người đang tiến lại trước mặt, hình như tâm trí ông ta đang treo ngược trên cành cây, ông ta không nhìn đường, lao thẳng tới hướng cửa xoay. Đường Phong kéo ông ta lại, nói: “Cẩn thận nhìn đường chứ!”

Người đó dừng lại trước cửa xoay tròn, nói một tiếng “cảm ơn”.

Đường Phong ngớ người ra, lúc này mới nhìn rõ ông ta chính là ông lão hôm qua chộp được vật găm hàng cuối cùng. Lúc này tay phải ông đang xách một chiếc ca-táp khóa số, tay trái cầm một tập túi hồ sơ, túi hồ sơ sẫm màu, vừa cũ vừa nát, chữ in trên túi không phải là tiếng Anh, cũng không phải là tiếng Nga. Hôm nay ông tới đây, rõ ràng là tới nhận kệ tranh ngọc, có lẽ là đang để trong chiếc ca-táp khóa số đó, nhưng túi hồ sơ cũ nát thì là những thứ gì nhỉ?

Đường Phong đang định tiếp cận hỏi dò nhưng lúc này chiếc cửa xoay đã quay lại, ông lão bước vào theo.

Qua cửa kính xoay, Đường Phong nhìn thấy ông lão đi về hướng bãi đỗ xe trước cửa cao ốc. Cánh cửa một chiếc Mercedes mở ra, một cô gái trẻ nhảy xuống, đưa tay ra đỡ lấy đồ đạc của ông lão. Ông lão không để cô ta đón lấy, tự mình xách đồ ngồi vào trong xe. Cô gái giậm giậm chân, ngồi vào ghế lái, phóng xe đi.

4

Đường Phong đi thang máy lên tới tầng trên cùng của tòa cao ốc, dưới sự tiếp đãi của Vương Khải, nhân viên công ty Quốc tế Hoa Bảo làm thủ tục liên quan rồi giao phó cho Quốc tế Hoa Bảo vận chuyển những đồ cổ đấu giá được tới Đại học Kim Lăng. Bàn giao hoàn tất, Vương Khải nhiệt tình mời Đường Phong tới phòng VIP nghỉ ngơi, Đường Phong đang có việc muốn hỏi thăm nên đồng ý ngay không chút do dự.

Trong phòng VIP, Đường Phong uống trà, nói vài câu với Vương Khải, đột nhiên vờ như hỏi bâng quơ: “Ban nãy lúc lên lầu tôi có gặp một khuôn mặt khá quen, hình như là vị lão tiên sinh ở hội chợ đấu giá hôm qua, ông ấy đã lấy kệ tranh ngọc đi chưa?”

Vương Khải đáp: “Đúng vậy, vị lão tiên sinh đấy đến đây từ sáng sớm, khi chúng tôi tới làm thì ông ấy đã đợi sẵn ở đây rồi.”

Đường Phong gật gật đầu, nói: “Tôi nhìn thấy ông ấy còn xách theo một xấp túi hồ sơ cũ nát, đó cũng là một vật đấu giá sao?”

Vương Khải cười đáp: “Đó không phải là vật đấu giá, hình như là những tài liệu liên quan tới kệ tranh ngọc hay sao đấy, nội dung cụ thể tôi cũng không biết.”

Đường Phong hỏi: “Vị tiên sinh đó là người thế nào? Hình như có vẻ rất nhiều tiền?”

Mặt Vương Khải lộ ra vẻ khó xử, nói: “Xin lỗi Đường tiên sinh, theo quy định, chúng tôi không được tùy tiện tiết lộ thân phận của khách hàng, mong ngài thông cảm.”

Đường Phong biết công ty đấu giá có quy định này, ban nãy chẳng qua là thử một lần xem sao, giờ thì anh cười ha ha, nói: “Không sao không sao, tôi chỉ là có chút tò mò, tiện hỏi thôi, không có gì đâu.”

Vương Khải hùa theo cười vài tiếng, chuyển sang chủ đề về kệ tranh ngọc: “Đường tiên sinh cũng hứng thú với kệ tranh ngọc, vậy sao hôm qua chỉ ra giá có một lần rồi không theo nữa? Giờ thì rất nhiều người đều cho rằng Đường tiên sinh là cò mồi của Quốc tế Hoa Bảo chúng tôi đấy, lúc chẳng có ai ra giá thì lại hét giá giải vây, khi có người ra giá liền lập tức dừng lại không cạnh tranh nữa.”

Đường Phong hiểu anh ta nói không sai, hành vi của mình hôm qua thực sự rất giống tên cò mồi, Lưu Hoa Đông, còn cả ông lão tóc bạc đều đã từng nghi ngờ như vậy. Hiện giờ đối diện với nghi vấn của nhân viên Quốc tế Hoa Bảo, Đường Phong cũng không thể không giải thích gì được, “Thực ra hôm qua tôi hét giá chẳng qua là vì ngứa mắt cái lão Lưu Hoa Đông, muốn giải vây giúp chuyên gia đấu giá Tề Ninh của các anh, chứ tôi cũng không hứng thú lắm với cái kệ tranh ngọc đó, sau đó thấy có người ra giá cạnh tranh nên cũng tiện thể buông luôn.”

Vương Khải miệng há hốc, vẻ mặt có chút nực cười, nói: “Chỉ… chỉ đơn giản vậy sao?”

Đường Phong cười ha ha, đáp: “Rất nhiều chuyện đơn giản như vậy đấy, chẳng có gì phức tạp cả. Đúng rồi, Tề Ninh tiên sinh hiện giờ bận không? Nếu như có thể, tôi muốn giao lưu với ông ấy một lúc.”

Vương Khải hình như vẫn chưa thoát khỏi cảm giác kinh ngạc, buột miệng đáp lại: “Tề Ninh hôm nay không đi làm, người phụ nữ tóc vàng đến kiện ông ấy đấu giá gian lận, ông chủ gọi vào di động của ông ấy cũng không…” nói tới đây anh ta mới giật mình phát hiện ra những chuyện như thế này không nên nói với người ngoài nên vội vàng im bặt.

Đường Phong biết rằng không thể hỏi thăm thêm được gì nữa liền đứng dậy cáo từ.

Vừa mới đi tới cửa chính của cao ốc, Đường Phong đột nhiên nghe thấy trên đầu một luồng gió thổi tới, có vật gì đó từ trên trời rơi xuống, bịch một tiếng, nặng trịch nằm sõng soài xuống mặt đất trước mặt Đường Phong.

Đường Phong hoảng sợ lùi lại một bước rồi cẩn thận quan sát, vật rơi xuống hóa ra là một người.

Đầu và cơ thể của người đó đã hoàn toàn vặn vẹo lệch lạc, mặt nghếch lại, hướng về phía Đường Phong, máu me bê bết trên mặt, ngũ quan khó mà nhận diện, đôi mắt đã từng hừng hực sức sống giờ chỉ còn toàn lòng trắng bị máu nhuộm đỏ. Đường Phong cuối cùng cũng đã nhận ra, người chết trước mặt anh chính là chuyên gia đấu giá Tề Ninh mà ban nãy anh muốn tìm.

Một người đang sống sờ sờ, bỗng chốc bất ngờ rơi xuống máu me bê bết, nằm vắt ngang trước mặt bạn thì bạn sẽ có cảm giác thế nào nhỉ? Ai chưa từng trải qua sẽ mãi mãi không thể nào hiểu được.

Chân Đường Phong mềm nhũn, anh ngồi bệt xuống đất, nhìn chằm chằm vào cái xác vặn vẹo lệch lạc cùng khuôn mặt máu me bê bết, khiến cổ anh không sao cử động được. Trong đầu anh cũng chỉ toàn sự hoảng loạn, đặc quánh như hồ.

Là người trực tiếp chứng kiến sự việc, Đường Phong được đưa tới đồn công an để lấy khẩu cung. Trở về khách sạn, nhắm mắt lại, khuôn mặt đó của Tề Ninh lại hiện lên trước mặt. Khuôn mặt bối rối lúc đấu giá không một ai hỏi han tới, khuôn mặt trắng bệch lúc bị Lưu Hoa Đông chỉ trích, khuôn mặt hoảng loạn lúc bị Đường Phong chất vấn, khuôn mặt máu me bê bết khi rơi từ tầng 13 xuống… tất cả những điều này dường như đều liên quan tới vật đấu giá kỳ lạ đó, và vật đấu giá đó hiện đang ở trong tay ông lão tóc bạc. Ông ta rút cuộc là ai?

Đường Phong nhấc điện thoại lên, gọi vào số của Vương Khải. Điện thoại thông máy, Vương Khải “alô” một tiếng, giọng nói chứa đựng sự mệt mỏi, rõ ràng, cái chết của Tề Ninh đã ảnh hưởng tới anh ta. Đường Phong đi thẳng vào vấn đề: “Tôi là Đường Phong, Tề Ninh chết rồi, rơi chết đúng trước mặt tôi.”

Trong điện thoại, Vương Khải trầm ngâm một lúc mới đáp: “Không ai ngờ được rằng ông ấy lại tự sát, ông ấy là chuyên gia đấu giá hàng đầu của Quốc tế Hoa Bảo, sự nghiệp đang ở đỉnh cao. Rất xin lỗi Đường tiên sinh vì đã khiến ngài hoảng sợ.”

Đường Phong đáp: “Cái chết của ông ấy không thể đơn giản như vậy, hôm qua trong hội chợ đấu giá, do ông ấy gian lận nên kệ tranh ngọc mới rơi vào tay ông lão tóc bạc, hôm nay thì ông ấy đã chết…”

Vương Khải ở đầu dây bên kia đã ngắt lời anh: “Không, Đường tiên sinh, nhất định là ngài đã hiểu lầm rồi, Tề Ninh không thể gian lận, đó chính là điều tối kị nhất trong ngành đấu giá, Quốc tế Hoa Bảo chúng tôi tuyệt đối không cho phép hành vi này xuất hiện!”

Đường Phong lạnh lùng nói: “Đây không phải là hiểu lầm, rất nhiều người đều đã nhìn thấy. Anh cũng đã từng nói, người phụ nữ tóc vàng đó còn từng đến kiện tụng. Tôi sẽ cân nhắc để kể lại những sự việc này cho cảnh sát, tôi tin rằng sẽ có tác dụng giúp họ phá án.”

“Không!” Vương Khải hấp tấp hoảng hốt kêu lên: “Không, Đường tiên sinh, anh làm như vậy sẽ hủy diệt cả Quốc tế Hoa Bảo mất!”

Đường Phong nói: “Tôi chỉ muốn biết sự thật. Một là tôi sẽ kể lại những sự việc này cho cảnh sát, để cảnh sát đi điều tra, hai là anh nói cho tôi biết ông lão tóc bạc đó là ai, và tôi sẽ tự mình điều tra.”

Vương Khải do dự nói: “Quy định công ty, không thể tiết lộ hồ sơ của khách hàng…”

Đường Phong đáp: “Vậy được, để cảnh sát đến công ty các anh tìm hồ sơ thì anh sẽ không vi phạm quy định nữa. Tạm biệt!”

Đường Phong vừa mới ngắt máy, Vương Khải đã lập tức gọi lại, giọng điệu hấp tấp nói: “Đường tiên sinh, ngài không thể làm vậy. Hãy cho tôi biết địa chỉ của ngài, tôi sẽ đem hồ sơ tới cho ngài, ngay lập tức!”

Sau khi cung cấp địa chỉ cho Vương Khải, Đường Phong rời khỏi phòng, đến nhà hàng của khách sạn dùng bữa, nhưng khi suất ăn vẫn chưa hoàn tất, Vương Khải đã vội vàng tìm đến dưới sự dẫn dắt của nhân viên phục vụ. Đường Phong liếc qua túi hồ sơ anh ta kẹp bên sườn, nói: “Cũng nhanh thật đấy!”

Vương Khải đáp: “Ngài ăn trước đi đã, sau đó ta về phòng ngài nói chuyện?” Tuy anh ta cố gắng làm ra vẻ cung kính, nhưng giọng điệu cứng nhắc, sắc mặt cũng khó coi. Bất cứ ai khi bị người khác uy hiếp thì tâm trạng cũng đều không thể tốt được, anh ta có thể làm được tới mức này cũng đủ để thấy đây là người rất nhẫn nhịn rồi.

Đường Phong buông đũa, nói: “Đi luôn bây giờ!”

Bước vào phòng, Vương Khải lấy từ trong túi hồ sơ ra một chiếc phong bì dày cộm, đặt lên bàn, từ từ đẩy tới trước mặt Đường Phong, nói: “Đường tiên sinh, tất cả những điều này đều chỉ là một sự hiểu lầm. So với hồ sơ của chủ nhân kệ tranh ngọc, có lẽ một khoản tiền sẽ càng có ích với ngài hơn.”

Đường Phong liếc anh ta, nói: “Tôi chịu bỏ 80 vạn mua một tấm kệ tranh ngọc chỉ đáng 10 vạn, anh cho rằng tôi là người tham tiền sao? Nếu như anh chỉ mang theo chút tiền này đến thì rất xin lỗi, tôi sẽ không thể tiếp anh được nữa. Có lẽ tôi nên tới đồn công an quanh đây rồi.”

Sắc mặt Vương Khải càng trở nên khó coi. Anh ta lấy từ trong túi ra tập hồ sơ, quẳng lên bàn, hằn học nói: “Đường tiên sinh, ghi nhớ sự cam kết của anh. Chúng tôi đáp ứng điều kiện của anh rồi, nếu anh vẫn tới đồn công an thì… hừm!” Quẳng lại câu nói hằn học này, anh ta quay người bỏ đi.

“Đợi đã!” Đường Phong nói: “Mời mang tiền của anh đi, cảm ơn! Không tiễn.”

Vương Khải cầm chiếc phong bì dày cộp đầy tiền lên, trước khi bước ra khỏi phòng, lại nói thêm một câu: “Xin tặng anh một câu, những người ham hố tọc mạch chuyện người khác sẽ không có kết cục gì tốt đẹp cả, anh tự biết dừng lại đúng lúc đi!”

Đường Phong đóng cửa phòng, mở túi hồ sơ mà Vương Khải để lại, lấy hồ sơ trong đó ra. Đó là bản phô tô hồ sơ đăng kí của khách hàng Quốc tế Hoa Bảo, có hồ sơ cơ bản của khách hàng cùng một vài giấy chứng nhận tài sản.

Ông lão tóc bạc đấu giá được kệ tranh ngọc tên là Lương Vân Kiệt, người Hồng Kông. Tuy không phải là thương nhân nhưng Đường Phong vốn đã nghe danh Lương Vân Kiệt từ lâu. Lương Vân Kiệt quê gốc ở Bắc Kinh, tới Thượng Hải vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, lập nghiệp ở Thượng Hải từ hai bàn tay trắng, gây dựng sự nghiệp, từ một công ty nhỏ chẳng mấy ai chú ý tới, từng bước từng bước phát triển tới độ nức danh, trở thành tập đoàn công ty đa quốc gia có giá trị tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đô la Hồng Kông. Mấy năm trước, Lương Vân Kiệt đã giao phó sự nghiệp công ty cho con trai ruột Lương Dũng Tuyền điều hành. Bản thân chỉ duy trì chức danh chủ tịch danh dự, lui khỏi thương trường, sống những ngày tháng vi vu an nhàn.

Trong hồ sơ ghi rõ, kệ tranh ngọc đó là vật đấu giá duy nhất mà Lương Vân Kiệt mua.

Đường Phong lại lên mạng tìm kiếm thêm thông tin khác về Lương Vân Kiệt thì phát hiện ra ông ta thích những môn thể thao như chạy bộ, cưỡi ngựa, bắn súng, nhưng không hề có sở thích sưu tập đồ cổ.

Thương nhân luôn coi trọng lợi ích, vậy thì việc một thương nhân không có sở thích sưu tập đồ cổ mà lại chịu trả giá cao để mua một thứ đồ cổ cấp thấp, mà các chuyên gia đánh giá chỉ đáng 10 vạn, đã thực sự khiến người ta phải tò mò suy nghĩ.

Căn cứ theo phương thức liên lạc trên hồ sơ, Đường Phong gọi vào số của Lương Vân Kiệt nhưng không có người nghe máy, gọi liên tục hai ngày cũng vẫn vậy. Đường Phong còn tìm thấy số điện thoại của tập đoàn công ty Tân Sinh, gọi vào đó nhưng nữ nhân viên nghe máy đáp lại rằng Lương Vân Kiệt chỉ là chủ tịch danh dự, đã nửa năm nay chưa tới công ty rồi.

Ngày thứ ba, Đường Phong đáp máy bay tới Thâm Quyến, chuẩn bị tham gia một hội chợ đấu giá tại đó. Vừa mới xuống máy bay thì đã nghe thấy điện thoại đổ chuông, là một số lạ gọi tới.

Giọng người gọi điện già nua: “Chào Đường tiên sinh, tôi là Lương Vân Kiệt, chúng ta đã gặp nhau tại hội chợ đấu giá mùa xuân Bắc Kinh. Hiện tôi đang ở Quảng Châu, cậu có thể tới đây một chuyến không, tôi có việc vô cùng quan trọng muốn thương lượng với cậu!”
 

hoahongden12

Active Member
Tử Thư Tây Hạ
Quyển 1 - Chương 2: Lão K

1

Trong quán trà bên bờ Châu Giang, Quảng Châu, thời tiết chính hạ đặc trưng của vùng đất phía nam, Đường Phong ngồi một mình gần cửa sổ, thưởng thức một ấm trà Long Tỉnh. Sau khi nhận cuộc điện thoại của Lương Vân Kiệt tại Thâm Quyến, hẹn thời gian và địa điểm gặp mặt, Đường Phong không màng nghỉ ngơi, lập tức đáp xe tới Quảng Châu.

Đường Phong nhìn đồng hồ, 8 giờ tối rồi, Lương Vân Kiệt vẫn chưa xuất hiện. Ngoài cửa sổ trời đang mưa, dòng Châu Giang bị bao trùm trong mưa khói mịt mù. Bỗng Đường Phong thất thần nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ, từ từ, từ từ… trên kính cửa sổ hiện lên một khuôn mặt hung ác dữ tợn, khuôn mặt đó - khuôn mặt đó rõ ràng là khuôn mặt khủng khiếp của Tề Ninh lúc rơi xuống đất chết. Đường Phong ra sức dụi mắt, khuôn mặt trên kính cửa sổ, biến mất, ngoài cửa sổ, vẫn là màn mưa nặng trĩu, đen kịt.

“Chàng trai, để cậu đợi lâu quá,” Lương Vân Kiệt rút cuộc cũng đã tới, ông đứng cạnh bàn, giơ tay ra, cánh tay vẫn trắng bệch, khô khốc, cứng đơ như thế.

Đường Phong không buồn để ý tới cánh tay phải của Lương Vân Kiệt đang giơ ra, lạnh lùng hỏi: “Ông từ Hồng Kông đến lúc chiều ư?”

“Ừm! Dừng chân ở thư viện một lúc, thế nên bây giờ mới tới.” Lương Vân Kiệt có chút bối rối thu tay phải về.

“Tìm tôi có việc gì, nói đi!” Đường Phong hỏi thẳng vào vấn đề.

Lương Vân Kiệt ngồi xuống ghế đối diện, trầm ngâm một lúc, nói: “Nghe nói là chuyên gia đấu giá Tề Ninh chết rồi?”

Đường Phong nhìn ông ta chằm chằm cười lạnh lùng: “Ông cố ý giả vờ không biết hay là thực sự mới biết tin đó?”

Lương Vân Kiệt chau chau mày, đáp: “Ý cậu là sao?”

“Ý là sao? Lẽ nào ông không hiểu ư? Tề Ninh do đâu mà vô duyên vô cớ nhảy lầu tự tử? Nguyên nhân duy nhất mà tôi có thể nghĩ tới chính là hội chợ đấu giá cuối cùng mà ông ấy chủ trì lúc còn sống, và chính trong hội chợ đấu giá đó, do một động thái không bình thường của ông ta đã khiến ông đoạt được tấm kệ tranh ngọc kỳ lạ đó.” Đường Phong cố ý đem sự nghi ngờ và mâu thuẫn nhắm thẳng vào Lương Vân Kiệt.

“Cậu nghi ngờ cái chết của Tề Ninh có liên quan tới tôi?” Lương Vân Kiệt vốn rất bình tĩnh giờ bắt đầu hiện rõ sự kích động.

“Lẽ nào ông không đáng để nghi ngờ sao?”

“Chàng trai, cậu phải có chứng cứ, không được tùy tiện ngậm máu phun người.” Dù Lương Vân Kiệt đã cố gắng kìm giọng nhưng vẫn không giấu được sự kích động.

Đường Phong đáp: “Chứng cứ? Được, tôi hỏi ông, hôm đấu giá đó, người phụ nữ tóc vàng cạnh tranh cùng ông rõ ràng đã giương biển lên, Tề Ninh rõ ràng cũng đã nhìn thấy, nhưng ông ta vẫn gõ búa, sau khi búa được gõ xuống, người được lợi chính là ông, vậy ông giải thích thế nào đây? Còn cả hôm sau, sau hội chợ đấu giá, ông tới nhận vật đấu giá, tại sao lại hồn xiêu phách lạc, còn xém chút nữa là đâm vào cửa xoay? Hôm đó sau khi ông ra về chưa được bao lâu thì Tề Ninh chết!”

Lương Vân Kiệt giật bắn mình, đứng phắt dậy, đưa tay ra chỉ về phía Đường Phong: “Cậu theo dõi tôi! Cậu… cậu có mục đích gì?”

Đường Phong đáp: “Ai rảnh rỗi mà theo dõi ông, tôi đến làm thủ tục cho vài món đồ đấu giá mua được thì gặp ông.”

Quán trà rất yên tĩnh, Lương Vân Kiệt vừa mới to tiếng, còn đứng cả dậy, nên lập tức thu hút sự chú ý của những khách uống trà khác. Ông lại ngồi xuống, gằn giọng, nhưng giọng điệu vẫn rất nghiêm trọng: “Rút cuộc tại sao cậu lại theo dõi tôi?”

Đường Phong đáp: “Nếu tôi rắp tâm theo dõi ông thì hôm đó khi ông chuẩn bị đâm vào cửa xoay, tôi đã không kéo ông lại.”

Lương Vân Kiệt im lặng, nhìn thẳng vào mặt Đường Phong. Đường Phong thản nhiên đấu mắt với ông ta. Một lúc sau, biểu hiện căng thẳng của Lương Vân Kiệt đã dịu xuống, ông hỏi: “Chàng trai, cậu có thể nói cho tôi biết, tại sao cậu lại chịu ra giá 80 vạn cho tấm kệ tranh ngọc không ai buồn hỏi han tới đó? Nếu như cậu thực sự hứng thú với nó, thì tại sao chỉ ra giá một lần rồi không trả giá thêm nữa?”

Đường Phong nói lại lần nữa những lời lần trước đã nói với Vương Khải cho ông ta nghe. Lương Vân Kiệt nghe xong, vẻ mặt hoàn toàn bất ngờ, hỏi: “Bỏ ra 80 vạn, chỉ là để giải vây cho một chuyên gia đấu giá không hề quen biết?”

Đường Phong lắc đầu, nói: “Là giúp ông ta giải vây, nhưng đồng thời cũng để mua một thứ đồ cổ. Đừng nói với tôi những lời đại loại như đồ cổ đó chỉ đáng giá 10 vạn, trong mắt tôi, đồ cổ không có giá trị tiền bạc nào cả, chúng chỉ có giá trị lịch sử, giá trị công nghệ. Nếu dùng giá trị tiền bạc để so sánh, dùng 80 vạn hay là dùng 800 tệ mua nó đều không đáng.”

2

Lương Vân Kiệt sững sờ nhìn Đường Phong, một lúc sau, than thở: “Chàng trai, tôi có thể tin cậu không?”

Đường Phong không chút khách khí đáp: “Tùy, dù sao tôi cũng không tin ông!”

Lương Vân Kiệt bị chặn họng nên ngớ cả người ra, đáp: “Xin cậu hãy tin tôi, Tề Ninh gian lận và tự sát, thật sự không liên quan tới tôi. Trong đó có một âm mưu to lớn.”

Đường Phong hỏi: “Âm mưu gì?”

Lương Vân Kiệt định nói nhưng rồi lại thôi, đắn đo một lúc, lại là câu: “Tôi có thể tin cậu không?”

Nếu như không phải thấy bộ dạng ông ta da dẻ nhăn nheo, râu tóc bạc phơ, thì Đường Phong chỉ muốn đấm một phát vào mặt ông ta, anh lạnh lùng đáp: “Ông muốn tôi tin ông, thì trước tiên ông phải tin tôi.”

Lương Vân Kiệt hỏi: “Cậu muốn tôi tin cậu thế nào đây?”

Đường Phong rút cuộc đã đưa câu chuyện về chủ đề chính: “Trước tiên tôi phải được biết, lần này ông tới đây tìm tôi là vì cái gì?”

Lương Vân Kiệt đáp: “Có một bí mật lớn, âm mưu lớn, liên lụy tới một phạm vi rất rộng, cũng rất nghiệm trọng, nghiêm trọng hơn cả những gì cậu tưởng tượng. Tôi cần được giúp đỡ. Tôi nhớ ra trong hội chợ đấu giá, cậu cũng có hứng thú với kệ tranh ngọc nên đã cho người tìm kiếm chút thông tin về cậu… đừng nổi giận, tôi không có ác ý, chỉ là muốn xác nhận lại chút thôi, xem cậu có đáng tin hay không.”

Đường Phong lạnh lùng đáp: “Kết quả là tôi không đáng tin?”

Lương Vân Kiệt lắc đầu nói: “Không, kết quả điều tra khiến tôi rất hài lòng, cậu là người vẫn có thể kiên quyết duy trì nguyên tắc của bản thân hiếm có còn sót lại trong xã hội vật chất hiện nay, đến cả người bạn già của tôi, La Trung Bình, cũng rất ca ngợi cậu.”

Đường Phong ngạc nhiên hỏi: “Ông quen biết giáo sư La Trung Bình?” Giáo sư La Trung Bình là nhà sử học nổi tiếng, trình độ học vấn và nhân cách tu dưỡng đều danh nổi như cồn trong giới học thuật. Đường Phong tuy mới chỉ tiếp xúc với ông vài lần, nhưng ông chính là một trong số rất ít người mà Đường Phong thật lòng kính phục.

Lương Vân Kiệt lấy tay ra hiệu đợi một chút, móc điện thoại ra gọi, nói vài câu, sau đó đưa điện thoại cho Đường Phong: “La Trung Bình muốn nói chuyện với cậu.” Đường Phong nhận điện thoại, đầu dây bên kia quả là giọng nói của giáo sư La, giáo sư La nhấn mạnh Lương Vân Kiệt là bạn của ông, tuyệt đối đáng tin cậy, sau đó nói thêm vài câu rồi ngắt điện thoại.

Đưa trả lại điện thoại cho Lương Vân Kiệt, thấy bộ dạng nhẹ nhõm của ông, Đường Phong nói: “Ban nãy ông cũng nói tôi là người trọng nguyên tắc, giáo sư La tin tưởng ông, tôi tin tưởng giáo sư La, nhưng điều đó không nhất thiết đồng nghĩa với việc tôi cũng tin tưởng ông.”

Lương Vân Kiệt sắc mặt đanh lại, có chút choáng váng, có vẻ muốn nổi giận, nhưng rút cuộc ông đã kìm chế được, hạ giọng nói: “Chàng trai, cậu còn muốn thế nào nữa?”

Đường Phong hơi xoay người hướng về phía trước, đáp: “Tôi muốn biết, tại sao ông lại chịu trả giá cao như vậy để mua tấm kệ tranh ngọc kỳ lạ đó, còn nữa, những túi hồ sơ ông có được lúc tới nhận kệ tranh ngọc có những gì trong đó?”

Hai câu hỏi này vừa thốt ra khỏi miệng, Đường Phong nhận thấy Lương Vân Kiệt, dù đã cố gắng hết sức kìm chế nhưng biểu hiện rõ ràng cho thấy ông vẫn bị chấn động, hai câu hỏi đó rõ ràng, đã tác động rất lớn tâm can ông. Ông uống một ngụm trà, dừng lại một lúc rồi mới đáp: “Những điều này tôi sẽ nói với cậu, nhưng phải sau khi tôi đã hoàn toàn tin tưởng cậu.”

Đường Phong nói: “Vậy thì đợi sau khi ông tin tưởng thì hẵng đến tìm tôi.” Nói xong anh đứng dậy bước nhanh ra khỏi quán trà, bỏ mặc những lời gọi với theo của Lương Vân Kiệt.

Đường Phong cầm ô, đi men theo bờ sông Châu Giang. Về bí mật lớn mà Lương Vân Kiệt nói, anh thực sự rất quan tâm, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Lương Vân Kiệt có thể tùy tiện điều tra anh. Điều càng khiến anh bực bội là sau khi Lương Vân Kiệt điều tra xong mà vẫn không hoàn toàn tin tưởng anh, vẫn muốn anh chứng minh thêm về bản thân, vậy thì sao mà anh không tức giận đến mức tỏ thái độ cho được? Dù sao thì nếu Lương Vân Kiệt cần anh, nhất định vẫn phải đến tìm anh.

Mưa vẫn rơi, đã hơn 10 giờ đêm. Thời khắc này đối với cuộc sống phong phú về đêm của người Quảng Châu mà nói thì vừa vặn đến lúc. Những quán bar, nhà hàng ven sông Châu Giang đèn hoa xanh đỏ, nếu không phải trời mưa, sẽ càng náo nhiệt hơn. Đường Phong vô tâm không lưu luyến gì nơi đây, anh đi thẳng rồi rẽ vào một con đường yên tĩnh khuất lấp, anh nhớ là băng qua con đường này thì có thể trở về khách sạn mình ở.

Bước đi trên con đường tối thui, đột nhiên, Đường Phong nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, tìm kiếm nơi tiếng kêu phát ra thì lại thấy bên đường có một con ngõ hẹp, trong ngõ có hai bóng đen lướt qua, rất nhanh, con ngõ lại trở nên tĩnh lặng, mặc dù tiếng kêu thảm thiết vừa phát ra từ đây. Đường Phong thu hết can đảm, bước nhanh vào con ngõ, từ từ, chầm chậm… anh tới gần hơn, rồi nhìn thấy một người đang nằm trên đất. Đường Phong cúi xuống xem xét, giật mình khi phát hiện ra người nằm trên đất chính là ông lão tóc bạc phơ Lương Vân Kiệt. Lúc này, trước ngực Lương Vân Kiệt có một vết thương, máu tươi đang tuôn ra xối xả, Đường Phong vội vàng đỡ Lương Vân Kiệt dậy, khẽ kêu lên: “Lương lão tiên sinh! Lương lão tiên sinh!”

Lương Vân Kiệt khó nhọc mở mắt, xem ra ông đã rất yếu, muốn mở miệng nói, nhưng lại không nghe rõ ông nói những gì. Đường Phong ghé tai vào sát miệng ông, lúc này mới nghe được đứt quãng: “Huyết chú[3]!… huyết chú đáng sợ lại… lại trở lại rồi… thư… viện… bảy… bảy mươi mốt...” Lương Vân Kiệt gắng cao giọng, ông dùng toàn bộ sức lực thốt ra con số cuối cùng, rồi rút cuộc tim ông đã ngừng đập.

Lương Vân Kiệt ban nãy còn muốn nói bí mật ra cho Đường Phong, lúc này đã trở thành một cái xác lạnh cóng, nằm bất động trong con ngõ nhỏ mưa rơi, nước mưa vương vãi trên khuôn mặt Đường Phong và cũng rớt trên mái tóc bạc của Lương Vân Kiệt, Đường Phong nhẹ nhàng vuốt mắt cho ông, đột nhiên, anh nhớ lại một bóng đen còn lại, ban nãy rõ ràng nhìn thấy có hai bóng đen trong ngõ, nhưng khi Đường Phong đến gần lại chỉ phát hiện ra mỗi Lương Vân Kiệt nằm trên đất, vậy bóng đen kia đâu? Nghĩ tới đây, Đường Phong bất giác lạnh toát sống lưng, anh quay ngoắt đầu lại, phía bên này là con đường ban nãy anh vừa đi tới - không có người, lại nhìn về phía bên kia của con ngõ nhỏ trong mưa, đầu đó thông ra một con đường khác, hình như con đường đó còn náo nhiệt hơn, chốc chốc lại có xe chạy qua, hung thủ đã bỏ chạy theo hướng đó?

Đường Phong đứng dậy, từ từ hướng về phía đầu ngõ trong mưa đó, trong ngõ rất tối, Đường Phong cầm điện thoại, lấy nó làm công cụ chiếu sáng, anh cảnh giác quan sát xung quanh, đặc biệt là hai bên ngõ tối thui, Đường Phong bước khoảng ba chục bước, đột nhiên, sau lưng anh vọng lại một chuỗi âm thanh khe khẽ, Đường Phong xoay người lại nhìn, chỉ thấy một bóng đen đang bò lên xác của Lương Vân Kiệt, không biết đang làm gì. Đường Phong nhìn không rõ hình dạng của bóng đen, anh cũng không rõ mình lấy dũng khí từ đâu ra, hét lên một tiếng, sau đó nhặt một viên gạch dưới đất lên, bước nhanh về phía bóng đen đó, bóng đen thấy tình hình không ổn, quay đầu hướng về đầu ngõ bên kia bỏ chạy.

Đường Phong quay lại cạnh xác Lương Vân Kiệt, dùng ánh sáng yếu ớt phát ra từ điện thoại soi chiếu, chỉ thấy quần áo trên người Lương Vân Kiệt xộc xệch, chiếc túi da luôn đeo bên người rơi bên cạnh. Hình như bóng đen ban nãy tìm kiếm vật gì đó trên thi thể, có lẽ… có lẽ trên người Lương Vân Kiệt thật sự có vật quan trọng nào đó, bị bóng đen lấy đi mất rồi! Nhìn lại thấy bóng đen đó đã sắp chạy tới đầu ngõ, Đường Phong liền, bất chấp tất cả lao theo. Thời còn đi học, Đường Phong cũng đã từng đoạt giải quán quân chạy cự ly ngắn toàn trường, người bình thường không phải là đối thủ của anh, nên phút chốc, Đường Phong đã đuổi tới đầu ngõ, ra đường. Bóng đen và Đường Phong, một trước một sau, truy đuổi trên đường trong đêm tối. Nhờ ánh sáng đèn đường, Đường Phong nhìn thấy bóng đen đó mặc một chiếc áo khoác da, cổ áo dựng đứng, còn đội một chiếc mũ, nên lại càng chẳng nhìn rõ mặt người đó, tốc độ của bóng đen rất nhanh, Đường Phong cũng dốc hết sức lực toàn thân, nhưng vẫn không đuổi kịp! Nhưng, đuổi được một lúc, Đường Phong bỗng phát hiện ra, người đó vốn cũng không quen đường ở đây, bóng đen hoảng loạn không biết chọn đường nào nên lao về phía bờ sông Châu Giang...

“Thằng chó chết!” lúc bóng đen chạy băng qua đường, vì không nhìn đèn giao thông, nên đã bị một chiếc tắc xi đang phi vùn vụt lao tới đâm phải, khiến người tài xế bật ra câu chửi.

Nhưng bóng đen bị đâm mà chẳng hề hấn gì cả, hắn lập tức đứng phắt dậy băng qua đường, mất hút bên bờ sông. Đường Phong đợi tín hiệu đèn giao thông chuyển xong mới băng qua đường, đến khi anh chạy tới bờ sông thì, bóng đen đã mất tăm từ lâu. Đường Phong nhìn về phía mặt sông, mưa khói bao trùm mịt mùng, giữa mặt sông xuất hiện một xoáy nước nho nhỏ, tâm xoáy nước đang nổi lên một chiếc mũ, đây chính là chiếc mũ mà người ban nãy đội, Đường Phong bất giác nghĩ - lẽ nào người đó nhảy xuống sông rồi?

Khắp người Đường Phong ướt đẫm nước mưa, anh thở dốc, quay người, nhìn xung quanh - đầu đường, một chiếc tắc xi đang đỗ đợi khách, bác tài lơ đãng hút thuốc, dùng ánh mắt kỳ lạ dò xét Đường Phong. Vài chiếc xe con đang đỗ ven đường, Đường Phong không nhìn rõ phía trong xe, anh không biết trong xe có phải cũng đang có đôi mắt chằm chằm nhìn mình hay không. Trong quán bar, mọi người vẫn đang điên cuồng. Trong quán cà phê, vài đôi tình nhân vẫn đang lưu luyến không rời. Trong góc tối bên đường, rút cuộc đang ẩn giấu điều gì? - Lúc này, Đường Phong bỗng nhiên cảm thấy xung quanh có vô số những con mắt đang chăm chú nhìn mình. Không! Đây không phải là thật, tất cả những điều này là sao đây? Ba ngày trước, Tề Ninh rơi xuống chết trước mặt mình, còn hôm nay Lương Vân Kiệt lại bị đâm chết trong ngõ mưa, trời nóng như vậy mà mình lại truy đuổi một bóng đen đội mũ, mặc áo khoác da trên phố giữa đêm? Bóng đen bí hiểm đó lúc này đang ẩn nấp ở đâu đây?

3

Sáng sớm hôm sau, chào đón Đường Phong không phải là nắng vàng rực rỡ, mà là những tia sáng chói mắt, ánh sáng chói lóa rọi lên mặt Đường Phong, đây là lần thứ hai trong tuần anh bị đưa tới đồn cảnh sát, và lần này thì anh lại trở thành người bị tình nghi phạm tội.

“Anh là người cuối cùng tiếp xúc với Lương Vân Kiệt, trên thi thể của Lương Vân Kiệt lại lấy được dấu vân tay của anh, anh cũng thừa nhận anh và Lương Vân Kiệt đã từng vì một vật quý giá mà phát sinh tranh chấp, đây là những chứng cứ không có lợi cho anh, vậy anh giải thích thế nào?” Tưởng Nhất Dân, cảnh sát của đội hình sự sát mặt nhìn Đường Phong.

“Tôi đã nói rồi, là cái gã áo đen đó giết Lương Vân Kiệt. Nếu như tôi giết Lương Vân Kiệt, tôi có ngu đần tới mức đi báo công an không?” Đường Phong kịch liệt phản bác lại.

“Người áo đen? Hừm, anh kể chuyện cứ như trong ‘Nghìn lẻ một đêm’ ấy nhỉ, lại còn mặc áo khoác da? Anh có thấy ai mặc áo khoác da trong cái thời tiết này không? Còn về chuyện báo án, người báo án trong rất nhiều vụ án cuối cùng đều bị chứng thực chính là thủ phạm.”

“Tôi không thể nói rõ với anh!”

“Không nói rõ cũng phải nói!”

Đường Phong bị ánh sáng chói mắt rọi vào, liền nhắm chặt mắt lại.

Lúc này, cửa phòng thẩm vấn vang lên tiếng lạch cạch, Tưởng Nhất Dân nhìn nhìn ra ngoài cửa, rồi bước ra ngoài. Đường Phong ngồi quay lưng vào cửa phòng thẩm vấn, anh đang định quay đầu lại nhìn thì cùng lúc đó vang lên một giọng nói đầy nghiêm khắc của một điều tra viên khác: “Không được tự ý cử động, thật thà chút đi!”

Đường Phong đành phải quay đầu lại, anh không biết Tưởng Nhất Dân đi đâu, làm gì, trong lòng anh rối bời, muốn sắp xếp để làm sáng tỏ hàng loạt sự việc này, nhưng anh càng nghĩ, đầu óc càng rối loạn, anh muốn nhanh chóng được gột sạch nghi vấn, ra khỏi cái nơi quái quỷ này…

Khoảng 10 phút sau, cửa phòng thẩm vấn mở ra, nhưng Đường Phong không thấy bóng dáng của Tưởng Nhất Dân đâu, còn viên cảnh sát đang chăm chăm canh giữ anh thì lại đi ra ngoài. Đường Phong càng thấp thỏm bất an trong lòng. Chính trong giây phút này, ba cảnh sát cao to lực lưỡng mặc đồng phục xuất hiện trước mặt anh, đúng lúc Đường Phong đang ngớ người ra thì một người trong họ cất giọng hỏi: “Anh là Đường tiên sinh?”

Đường Phong kinh ngạc gật gật đầu, “Mời anh đi theo chúng tôi.” Khẩu khí của người cao to lực lưỡng đó không khỏi khiến anh hoài nghi.

Đường Phong không hiểu nổi, sao trong đồn cảnh sát lại mọc đâu ra mấy vị này, lại còn muốn đem mình đi, nên anh lớn tiếng hỏi lại: “Các anh là ai? Dựa vào cái gì mà đưa tôi đi?”

Người cao to đứng đầu cười nhạt với Đường Phong vài tiếng, rồi đáp: “Lẽ nào anh đồng ý ở lại đây?”

Không đợi Đường Phong trả lời, người cao to đó lại nghiêm mặt nói: “Mời anh hãy phối hợp hành động cùng chúng tôi, chúng tôi sẽ đảm bảo an toàn cho anh.” Nói xong, không đợi Đường Phong kịp phản ứng lại, hai người cao to còn lại, một người bên trái một người bên phải, kẹp lấy Đường Phong, kéo ra khỏi đồn cảnh sát.

Tại bãi đỗ xe của đồn cảnh sát, Đường Phong bị mấy người cao to nhấc lên một chiếc Chevrolet, thùng xe phía sau và buồng lái phía trước của chiếc xe này hoàn toàn được tách ra, hai người cao to kẹp Đường Phong ngồi phía sau. Bởi chẳng nhìn rõ cảnh vật bên ngoài, cũng không rõ đi được bao xa, Đường Phong đoán mò chắc là ra khỏi thành phố rồi, nên anh hỏi hai người đó: “Các anh muốn đưa tôi đi đâu?” Hai người cao to đó giống như hai bức tượng King Kong vô cảm, ngồi thẳng lưng, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước, vẻ mặt nghiêm nghị, chẳng hề để ý tới câu hỏi của Đường Phong.

Khi Đường Phong bị hai người cao to xốc nách đưa xuống xe thì đã là lúc hoàng hôn. Đường Phong phát hiện họ đang ở tại một sân bay chuyên dụng, trên bãi đáp máy bay có một chiếc trực thăng Mi-171 đang đợi lệnh cất cánh. Ba người cao lớn đó lại kẹp Đường Phong kéo lên chiếc Mi-171. Trong ánh chiều tàn, trực thăng từ từ cất cánh, hướng về phía Bắc, kèm theo những tiếng động cơ ầm ầm vang vọng. Đường Phong nhìn thấy họ bay qua những dòng sông, còn có cả những dãy núi đồi miên man…

Tiếng động cơ ồn ào từ từ tắt ngấm, ba người cao lớn lại kẹp Đường Phong nhảy xuống trực thăng, Đường Phong nhìn ngó xung quanh, trong màn đêm, một tòa nhà màu xám hiện lên trước mặt. Nhìn từ bên ngoài, tòa nhà màu xám này cao hơn mười tầng, hoàn toàn kín mít, không có lấy một cánh cửa sổ. Trên đỉnh tòa nhà là vô số những ăng-ten to nhỏ, đủ mọi hình dạng, dựng đứng, thậm chí còn có một cột ra-đa đang chầm chậm xoay dò soát trong không trung. Xung quanh tòa nhà là một bãi hoang trơ trọi, không nhìn thấy gì khác. Phía xa xa, những rừng cây rậm rạp, hiện lên trong màn đêm sâu hun hút tưởng như vô tận. Đường Phong lờ mờ phát hiện ra bên bìa rừng bị bao vây bởi tầng tầng lớp lớp lưới sắt. Đây là đâu, là một khu căn cứ quân sự bí mật sao? Chưa để Đường Phong kịp nghĩ cho tỏ tường, ba người kia đã lôi anh vào trong tòa nhà màu xám khổng lồ.

Bên trong tòa nhà này, không gian yên tĩnh tới kỳ lạ, Đường Phong bị ba người cao to đưa vào một hành lang dài hun hút, sau đó lại rẽ sang một hướng khác, rồi lên cầu thang sàn thép. Giày da của ba người cao to gõ lên sàn cầu thang vọng lại những âm thanh đáng sợ giữa không gian kín như bưng này. Đường Phong tò mò quan sát tòa nhà kỳ quái, từ lúc bước vào đây, anh chưa nhìn thấy người nào cả, nhưng anh lại nhìn thấy camera xoay tròn 360 độ trên nóc nhà, mỗi lần họ rẽ vào một ngã rẽ, đầu dò của camera liền giống như chim ưng săn mồi nhắm chuẩn theo họ. Đường Phong cảm thấy toàn thân nổi da gà, bốn phía tường, trên trần nhà đều giống như có vô số những con mắt đang nhìn chằm chằm về phía anh. Anh cũng không biết mình đã đi qua mấy tầng lầu, ba người cao to vẫn kẹp chặt lấy anh, đi vào một hành lang dài hun hút, bốn người đứng lại trên hành lang. Người từ đầu tới giờ xách hành lý, giống như sếp của mấy người này quay người lại nói với hai người cao to còn lại đang ở bên cạnh Đường Phong: “Nhiệm vụ của các anh đã kết thúc rồi.”

Hai người cao to đó đạp giầy “pai” một tiếng, đứng nghiêm, sau đó giơ tay chào theo kiểu quân đội với sếp của mình rồi quay người bước đi. Đường Phong tiếp tục theo người “sếp” cao to kia đi về phía trước. Lúc này, anh giật mình khi phát hiện ra sàn nhà dưới chân mình, và cả tường hai bên hành lang hóa ra đều được bọc bằng thép, một tòa nhà kết cấu thép, giống như một mê cung, phía trước, nhìn không rõ đầu hành lang. Vậy người cao to này muốn đưa mình đi đâu đây?

4

Nơi đầu hành lang, người cao to dừng lại trước một cánh cửa, hơi ngẩng đầu, mắt nhìn thẳng vào vị trí trên cánh cửa, bất động. Đường Phong cảm thấy tò mò, ghé đầu lại gần, cũng nhìn lên cánh cửa, trên cửa có lắp một vật nhìn như là đầu dò camera, nhưng nó lại không giống với những đầu dò thông thường khác. Đường Phong bức bối hỏi: “Đây là cái gì thế?”

“Đừng sờ soạng lung tung, đây là hệ thống nhận biết giác mạc.” Mấy tiếng đồng hồ vừa qua, người cao to luôn giữ im lặng này rút cuộc cũng đã trả lời câu hỏi của Đường Phong, vừa nói dứt lời, cánh cửa sắt trước mặt họ đã tự động mở ra.

Cao cấp vậy sao! Xem ra đây không phải nơi mà người bình thường có thể vào được - Đường Phong ngẫm nghĩ, đi theo người cao to vào một mật thất tối đen. Trong bóng tối, anh nghe thấy người cao to đột nhiên dừng lại, đứng nghiêm, sau đó lớn tiếng nói: “Báo cáo đội trưởng, tôi đã tuân lệnh đưa Đường Phong tới đây.”

Vừa dứt lời, toàn bộ đèn trong mật thất đều được bật lên, sáng chói tới mức Đường Phong phải nheo mắt lại. Đội trưởng? Đội trưởng bí ẩn đó là ai? Anh cố gắng thích nghi với không gian trong mật thất, rồi rút cuộc đã nhìn rõ: trong mật thất trống trải không có bất cứ vật gì, chỉ có một chiếc bàn dài đang bày trước mặt họ, phía sau bàn là một người đang đứng im, người đó khoảng 35, 36 tuổi, thân hình mập mạp, lưng hổ eo gấu, cơ bắp từng múi trước ngực khiến cho chiếc áo phông rằn-ri căng cộm cả lên. Lúc này, vị đội trưởng bí ẩn bước tới trước mặt Đường Phong, nở một nụ cười, nói: “Anh chính là Đường Phong tiên sinh?”

“Đúng vậy, các anh là ai?”

“Chúng tôi là ai, ban nãy bọn họ không nói với anh sao?” giọng điệu của người đội trưởng này rất nhã nhặn. Đường Phong không hiểu sao lại cảm thấy có thiện cảm với vị đội trưởng này.

“Cả đường đi tôi hỏi họ, nhưng họ chẳng chịu hé răng lấy một lời.”

“Họ làm rất đúng, bởi vì mỗi công việc mà chúng tôi làm, đều liên quan tới cơ mật quốc gia, việc không nên nói thì một chữ cũng không thể hé răng.”

“Cơ mật quốc gia?” Đường Phong thấy đầu mình toàn hơi nước, nghe xong mà vẫn không hiểu bản thân mình thì liên quan gì tới cơ mật quốc gia.

“Được rồi, anh có thể gọi tôi là Hàn Giang.”

“Hàn Giang, đây là tên của anh sao? Anh không định nói với tôi nhiều hơn sao?”

Hàn Giang bước tới trước mặt Đường Phong, đáp: “Tôi biết những nghi vấn trong lòng anh, vì chúng tôi đã mời anh tới đây nên sẽ nói với anh tất cả, nhưng trước khi anh biết về mọi thứ, anh phải tuyên thệ trước đã.”

“Tuyên thệ? Tuyên thệ cái gì cơ chứ?”

“Tuyên thệ gìn giữ tất cả những bí mật mà anh biết, đây là lời thề bảo mật.” Nói xong, Hàn Giang đưa cho Đường Phong một cuốn sổ nhỏ, trên bìa da của cuốn sổ viết bốn chữ “Chế độ bảo mật”, mở cuốn sổ nhỏ ra, trang đầu tiên chính là lời thề bảo mật. Đường Phong vừa đọc, Hàn Giang vừa đứng bên giới thiệu: “Tuyên thệ, đồng nghĩa với việc anh sắp biết rất nhiều bí mật, đồng thời cũng có nghĩa là trước khi những cơ mật này được giải mã, anh bắt buộc phải gìn giữ những cơ mật này một cách tuyệt đối. Nếu như anh tiết lộ chúng, bất luận là vô tình hay hữu ý... Nhớ kĩ là, chỉ cần anh tiết lộ cơ mật, anh sẽ phải gánh trách nhiệm tương đương với trách nhiệm pháp luật.”

Đường Phong đọc lướt qua lời thề một lần, lúc đó đầu anh đã căng phồng lên rồi. Tuyên thệ hay là cự tuyệt? Anh hỏi thăm dò Hàn Giang: “Tại sao nhất định phải bắt tôi tuyên thệ, tôi muốn biết các anh là ai, sao lại ép tôi tới đây, đây cũng thuộc về cơ mật quốc gia sao?”

“Đúng vậy, thân phận, công việc và kinh nghiệm của những người như chúng tôi đều thuộc về cơ mật quốc gia.” Hàn Giang kiên định đáp.

“Vậy thì tôi không muốn biết nữa, có thể đưa tôi về không?” Đường Phong định đánh bài chuồn.

Hàn Giang chau mày, khoanh tay, đi đi lại lại vài bước trước mặt Đường Phong, dáng vẻ đầy tâm sự, giống như sắp đưa ra một quyết định trọng đại vậy. Sau đó, Hàn Giang dừng lại trước mặt Đường Phong, nhìn Đường Phong chằm chằm, vỗ vỗ vai anh nói: “Tiểu tử, nếu như tối hôm qua cậu không gặp Lương Vân Kiệt, có lẽ cậu cũng có thể về, nhưng, hiện giờ nói gì thì cũng đã muộn rồi…”

“Cái gì? Hóa ra các anh đưa tôi tới đây là do liên quan tới cái chết của Lương Vân Kiệt! Nói như vậy thì cũng có nghĩa là liên quan tới… kệ tranh ngọc Tây Hạ rồi, thảo nào Lương Vân Kiệt bảo rằng đằng sau kệ tranh ngọc có ẩn giấu một bí mật to lớn!” Đường Phong dường như cũng bắt đầu hiểu được đôi chút.

5

Hàn Giang gật đầu: “Đúng vậy! Nói gì cũng đã muộn, anh đã biết một vài thứ không nên biết, bởi vậy, Đường Phong, vì anh đã được dẫn tới đây, muốn quay về, sẽ là điều không thể. Hiện giờ trước mặt anh chỉ còn lại duy nhất một con đường, đó chính là hợp tác cùng chúng tôi, để làm sáng tỏ toàn bộ vấn đề.”

Nghe xong những lời này của Hàn Giang, Đường Phong ủ dột, ngồi bất động trên chiếc ghế cạnh chiếc bàn dài, Tề Ninh tự sát, Lương Vân Kiệt bị đâm chết, nghi vấn trong hội chợ đấu giá, người áo đen nhảy xuống sông Châu Giang… Tất cả những điều này khiến anh thực sự vô cùng tò mò, nhưng để thỏa mãn sự tò mò, thì phải gia nhập vào một tổ chức chính phủ bí ẩn. Như vậy có đáng hay không? Anh ngẩng đầu nhìn Hàn Giang, Hàn Giang nhìn anh bằng ánh mắt đầy tin tưởng, anh gật đầu với Hàn Giang, đáp: “Được thôi! Tôi tuyên thệ!”

Hàn Giang dẫn Đường Phong tới một bức tường trong mật thất, ấn vào một nút điều khiển, máy chiếu trên trần nhà liền lập tức phản chiếu hình ảnh quốc kỳ lên tường, dưới sự hướng dẫn của Hàn Giang, Đường Phong giơ tay, bắt đầu tuyên thệ trước quốc kỳ…

Tuyên thệ hoàn tất, Hàn Giang cuối cùng đã nở nụ cười, anh kéo người cao to từ nãy tới giờ cứ đứng thẳng bên cạnh, nói với Đường Phong: “Được rồi, giờ thì tôi có thể giải đáp thắc mắc của anh. Trước tiên, tôi xin giới thiệu một chút, vị này là đồng nghiệp Triệu Vĩnh của tôi, anh đã từng phục vụ 8 năm trong đội hải quân lục chiến, võ nghệ siêu phải biết đấy!”

“Đội trưởng quá khen rồi, ban nãy nếu như có chỗ nào mạo phạm, xin Đường tiên sinh bỏ qua cho!” nói xong, Triệu Vĩnh giơ bàn tay vạm vỡ về phía Đường Phong.

“Không có gì, anh cũng là thực thi nhiệm vụ thôi mà!” Đường Phong khách sáo bắt bắt tay Triệu Vĩnh.

“Tiếp theo tôi sẽ giới thiệu một chút về tổ chức của chúng tôi, chúng tôi là đội hành động đặc biệt, nhánh một, trực thuộc Cơ quan an ninh quốc gia, kí hiệu của chúng tôi là ‘Lão K’, bởi vậy chúng tôi cũng được gọi là ‘Đội hành động lão K’. Thành viên của đội hành động chúng tôi không chỉ đến từ Cơ quan an ninh quốc gia, mà còn tập hợp tinh anh của các ngành khác, ví dụ như Triệu Vĩnh, anh ấy chính là người nhái mà tôi đã chọn lựa từ đội hải quân lục chiến. Muốn cướp sinh mệnh đối thủ dưới nước, đối với anh ấy mà nói, dễ như trở bàn tay.”

“Nhưng tôi lại chẳng có tài nghệ nào cả, thì làm được gì nhỉ?” Đường Phong nhìn nhìn Triệu Vĩnh, nghi ngờ hỏi.

Hàn Giang chỉ vào ngực mình, cười đáp: “Thực ra thành viên tham gia vào đội hành động của chúng tôi không phải ai cũng biết võ nghệ, nhưng đều bắt buộc phải có sở trường mà chúng tôi cần. Ví dụ như anh, chúng tôi muốn bản thân anh, tri thức của anh, trí tuệ của anh. Kể từ khi anh và Lương Vân Kiệt gặp nhau tại hội chợ đấu giá, toàn bộ hồ sơ của anh đã được lưu trữ trong máy tính của tôi.” Vừa nói, Hàn Giang vừa ấn chiếc điều khiển trong tay, hồ sơ và ảnh của Đường Phong đều xuất hiện trên máy chiếu - Họ tên: Đường Phong, 30 tuổi, chiều cao: 180 cm, cân nặng: 76 kg… Tiếp theo còn bao gồm cả lí lịch từ thời niên thiếu tới khi trưởng thành, trường tốt nghiệp, sở trường, sở thích… của Đường Phong, cũng phải tới cả nghìn chữ.

Lòng Đường Phong thầm kinh ngạc, Hàn Giang chuyển chủ đề: “Phàm là thành viên gia nhập vào đội hành động của chúng tôi, mỗi người đều có một kí hiệu, ví dụ kí hiệu của tôi là K2, Triệu Vĩnh là K3, kí hiệu của anh trong đội là K7.”

“K7! Nói như vậy tức là trừ ba người chúng ta ra, vẫn còn bốn thành viên khác? Họ là những ai? K1 là ai? Lẽ nào chức vụ của anh ấy còn cao hơn anh?” Đường Phong cảm thấy vô cùng tò mò.

“Đừng quên kỷ luật của chúng ta, việc không nên hỏi thì đừng hỏi.” Hàn Giang đột nhiên nghiêm mặt hạ giọng trách Đường Phong, nhưng chẳng mấy chốc, Hàn Giang lại ôn hòa trở lại, giải thích với Đường Phong: “Anh chỉ cần tham gia hành động cùng chúng tôi thì sẽ gặp những thành viên khác, nhưng…” nói tới đây, Hàn Giang đột nhiên trở nên trầm ngâm. “Nhưng gì cơ?” Đường Phong truy hỏi.

Hàn Giang tiếp lời: “Nhưng, có ba thành viên đến tôi cũng chưa từng găp bao giờ, hơn nữa hồ sơ của họ cũng trống trơn, đặc biệt là vị K1, tôi cũng rất băn khoăn…”

“Gì cơ? Đến cả ‘sếp’ như anh cũng chưa từng gặp! Không, không đúng, nói như vậy, người K1 đó mới thực sự chính là ‘sếp’, nhưng anh lại là đội trưởng, vậy thì chúng ta rút cuộc nên nghe ai?”

“Đương nhiên là nghe tôi, ghi nhớ này tiểu tử, nhất định đừng cho rằng mình thông minh, trong Lão K, cho dù ai có kí hiệu lớn hơn, có bản lĩnh nhiều hơn, nhưng tất cả hành động bắt buộc phải phục tùng theo sự chỉ huy của tôi.” Hàn Giang kề sát Đường Phong nói.

6

Hàn Giang, Triệu Vĩnh và Đường Phong ba người ngồi nguyên cạnh chiếc bàn dài, Hàn Giang kích chuột vào hồ sơ của Lương Vân Kiệt trên máy tính, giới thiệu với Đường Phong: “Anh chắc là rất ngạc nhiên vì không biết chúng tôi tìm thấy anh bằng cách nào, rất đơn giản, bởi vì chúng tôi luôn quan tâm nhất cử nhất động của Lương Vân Kiệt.”

“Lương Vân Kiệt sao vậy? Ông ta không phải là một thương nhân vô cùng thành công sao?”

“Không sai! Ông ta là một thương nhân thành công, nhưng anh có biết lai lịch của ông ta không? Ông ta là người Bắc Kinh, tốt nghiệp chuyên ngành tiếng Nga tại Đại học Bắc Kinh vào những năm cuối thập niên 50, chính trong thời gian ông ta tốt nghiệp, một điều bất ngờ đã làm thay đổi vận mệnh của ông ta. Thời gian đó vẫn đang là ‘thời kỳ trăng mật’ của Trung Quốc và Liên Xô, một đoàn đại biểu học thuật của Viện nghiên cứu Đông Phương học thuộc Học viện khoa học Liên Xô viếng thăm Trung Quốc. Lúc đó họ mang tới một kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ thần bí. Đúng! Đó chính là kệ tranh trong hội chợ đấu giá.”

Nói xong, trên màn hình máy tính của Hàn Giang xuất hiện ảnh của kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ.

Hàn Giang tiếp tục giới thiệu: “Lúc đó, chuyên gia Liên Xô nói, tấm kệ tranh ngọc này được nhà thám hiểm người Nga Kozlov tìm thấy tại di chỉ Hắc Thủy Thành vào năm 1909, họ đã từng nhiều năm nghiên cứu, phát hiện ra trong đó ẩn giấu bí mật vô cùng kinh ngạc, hy vọng có thể tổ chức một đội khoa học khảo sát, tới cố địa Tây Hạ, tìm kiếm bí mật phía sau kệ tranh ngọc. Sau này, hai nước Trung - Liên đã tổ chức một đội thám hiểm khoa học hùng mạnh, đi tới Tây Bắc, và Lương Vân Kiệt lúc đó được tổ chức này tuyển chọn, đảm nhiệm vai trò phiên dịch của đội thám hiểm khoa học. Nhưng sau đó đội thám hiểm đã hoàn toàn thất bại trong sa mạc, chỉ có hai người may mắn sống sót.”

“Vậy ông ta chính là một trong số hai người may mắn sống sót rồi?” Đường Phong nói.

“Đúng vậy, ông ta chính là người duy nhất của phía Trung Quốc may mắn sống sót trong đội thám hiểm. Năm đó, sau khi đội thám hiểm Trung - Liên gặp nạn tại sa mạc Badain Jaran, quân đội đã phái rất nhiều người xâm nhập vào sa mạc để tìm kiếm, cuối cùng chỉ phát hiện ra lạc đà và trang thiết bị của đội thám hiểm, nhưng trước sau vẫn không phát hiện ra thành viên nào của đội. Bao nhiêu năm qua đi, họ sống không thấy người, chết không thấy xác, cả đội thám hiểm cuối cùng chỉ có hai người được cứu, trong đó một người là Lương Vân Kiệt. Khi ông ta được phát hiện ra thì đang thoi thóp, nhưng điều khiến người ta cảm thấy kỳ lạ ở chỗ, địa điểm ông ta được phát hiện ra lại gần với biên giới của sa mạc Badain Jaran, cách địa điểm đội thám hiểm gặp tai nạn tới cả vài trăm cây số. Điều chúng tôi không thể hiểu là, trong môi trường không có nước, không có thực vật, mà sao họ lại có thể chạy tới tận biên giới sa mạc?”

“Sau đó thì sao?” Đường Phong hỏi.

“Lương Vân Kiệt giữ lại được tính mạng, nhưng cũng do ông ta giữ lại được tính mạng nên trong thập niên đặc biệt đó, số phận của ông không tránh khỏi xảy ra những chuyển biến. Trước tiên ông bị tình nghi làm đặc vụ cho Đài Loan, âm mưu phá hoại chuyến thám hiểm khoa học, rồi bị cách ly thẩm tra hai tháng, nhưng điều tra đi điều tra lại cũng không phát hiện ra ông ta có vấn đề gì nên đành phải thả ông ra. Chẳng bao lâu sau, quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô rạn nứt, do ông học tiếng Nga, cộng thêm những biểu hiện của ông trong lần thám hiểm đó, nên bị chụp lên đầu chiếc mũ gián điệp của Liên Xô, tổ chức định cho ông tội danh liên kết với chính phủ Liên Xô, âm mưu lật đổ quốc gia, sau khi sự việc bại lộ, có ý đồ vượt biên, tháo chạy tới Mông Cổ, kết quả là ông lại bị cách ly thẩm tra lần nữa.”

“Thật không ngờ số phận của Lương Vân Kiệt lại trắc trở như vậy” Đường Phong bất giác cảm thán.

Hàn Giang lại tiếp tục kể: “Vẫn chưa hết, thẩm tra vẫn không có kết quả, ba tháng sau, Lương Vân Kiệt lại được trả tự do, nhưng Cơ quan an ninh quốc gia lúc đó vẫn nhất mực âm thầm giám sát Lương Vân Kiệt. Vài năm nhanh chóng qua đi, sau khi ‘Cách mạng văn hóa’ bùng phát, Cơ quan an ninh quốc gia cũng bị xáo trộn, không còn ai giám sát Lương Vân Kiệt nữa. Cũng chính lúc này, Lương Vân Kiệt nhân cơ hội thời thế loạn lạc, vậy là cuối thập niên 60, ông vượt biên sang Hồng Kông, sau đó cũng không hiểu ông ta làm cách nào mà kiếm được thùng vàng đầu tiên tại Hồng Kông, sáng lập nên tập đoàn Tân Sinh, hơn nữa càng kinh doanh càng phát đạt, Lương Vân Kiệt cũng từ đó trở thành doanh nhân nổi tiếng. Lần này, việc Lương Vân Kiệt quay trở lại đại lục sau 40 năm, kể từ khi ông ta xuống máy bay là đã thu hút sự chú ý của chúng tôi...”

“Bởi vậy các anh nhất loạt ngầm giám sát hành tung của Lương Vân Kiệt, lẽ nào là bởi trước đây các anh từng nghi ngờ ông ta?”

Hàn Giang phẩy tay: “Dĩ nhiên không chỉ do việc trước đây, chúng tôi theo dõi ông ta, là bởi gần đây chúng tôi nhận được tin tình báo vô cùng tin cậy.”

Đường Phong lại hỏi Triệu Vĩnh: “Các anh đã giám sát Lương Vân Kiệt chặt chẽ như vậy, sao lại để ông ấy bị người ta giết chứ?”

Vừa nghe thấy Đường Phong hỏi vậy, trên mặt Triệu Vĩnh - người đàn ông cao to bỗng gợn lên những vầng đỏ ửng, anh bối rối đáp: “Đó đều là trách nhiệm của tôi, đội trưởng luôn phái tôi theo dõi Lương Vân Kiệt, thực ra cũng là để bảo vệ ông ta, nếu như không có tôi bảo vệ, khả năng Lương Vân Kiệt đã bị người ta xử từ lâu rồi. Nhưng tối hôm qua, tôi lại để mất dấu ông ấy, lúc bọn anh nói chuyện trong quán trà, tôi ngồi ngay bàn gần đấy, theo dõi hai người. Sau khi anh bỏ đi, Lương Vân Kiệt cũng lập tức rời khỏi quán trà, tôi bám theo sau, nhưng sau khi đi qua hai dãy phố tôi lại để mất dấu ông ta, tôi nghĩ chắc là ông ta đã phát hiện ra tôi nên cố ý cắt đuôi. Việc sau đó, anh đều đã biết rồi đấy!”

“Vậy anh có nhìn thấy bóng đen đó không?”

“Tôi thấy rồi, vốn dĩ tôi muốn lộ diện giúp anh truy đuổi bóng đen đó, nhưng bóng đen đó trong lúc hoảng loạn không biết đường đã nhảy xuống sông Châu Giang, nên tôi cũng không ra mặt.”

“Hóa ra là vậy, nhưng… nhưng anh không cảm thấy kỳ lạ sao? Một người có tuổi như Lương Vân Kiệt mà lại có thể cắt đuôi một đặc công có tố chất, lại đã từng qua huấn luyện như anh, lẽ nào…”

“Lẽ nào Lương Vân Kiệt năm đó thực sự là gián điệp? Đúng vậy! Tôi cũng cảm thấy kỳ lạ, với thân phận và tay nghề của tôi thì không nên xảy ra sai lầm đơn giản như vậy, trừ khi người đó cũng có phản xạ trinh sát, phản xạ năng lực đeo bám rất giỏi.” Triệu Vĩnh nói hộ Đường Phong những nghi vấn trong lòng, cả hai đều chìm trong im lặng.

Hàn Giang quay sang nhìn Đường Phong, phá vỡ sự im lặng này: “Tạm thời không quan tâm tới Lương Vân Kiệt nữa, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta bây giờ là phải tranh thủ thời gian, vượt mặt đối thủ, tìm thấy kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ đó. Đường Phong, anh là người cuối cùng gặp Lương Vân Kiệt, tôi nghĩ ông ta nhất định đã nói với anh một vài việc liên quan tới kệ tranh ngọc.”

“Đúng vậy, chúng tôi đã nói về kệ tranh ngọc, nhưng ông ta đã không hoàn toàn tin tưởng tôi… à, trước khi chết, ông ấy có nhắc đến huyết chú, ông ấy nói huyết chú đáng sợ đã trở lại rồi.”

“Huyết chú nào, toàn là nói linh tinh. Từ trước tới nay tôi chẳng tin huyết chú nào cả…” Triệu Vĩnh còn muốn phát biểu một bài luận về chủ nghĩa duy vật, nhưng đã bị Hàn Giang vung tay ngăn lại, Hàn Giang nói với Đường Phong: “Đường Phong, trừ huyết chú ra, ông ta có còn nói gì khác với anh không?”

Đường Phong cúi đầu trầm ngâm, đột nhiên nhớ ra: “Trước khi chết, Lương Vân Kiệt hổn hển nói với tôi mấy từ ‘thư viện, bảy, bảy mươi mốt’ không hiểu nghĩa là gì?”

“Có phải là tủ cất đồ trong thư viện không nhỉ, ý của Lương Vân Kiệt là chiếc tủ cất đồ số 7 hoặc số 71 trong thư viện.” Triệu Vĩnh dựa vào linh cảm nghề nghiệp nghĩ ngay ra đáp án.

Ý tưởng của Triệu Vĩnh không hẹn mà gặp lại trùng khớp với suy nghĩ của Hàn Giang, một ý tưởng rõ nét xuất hiện trong đầu Hàn Giang, Hàn Giang đi đi lại lại trong mật thất, đột nhiên dừng lại, lệnh cho Triệu Vĩnh và Đường Phong: “Tiếp theo chúng ta chia nhau hành động, Triệu Vĩnh, anh và Đường Phong quay lại Quảng Châu, đi lấy đồ Lương Vân Kiệt để lại trong thư viện, tôi lập tức về Bắc Kinh, báo cáo với bộ tổng, xin chỉ đạo bước hành động tiếp theo.”

Ba người thương lượng xong, Triệu Vĩnh đưa Đường Phong ra khỏi mật thất. Khi Đường Phong được hít thở lại không khí trong lành thì bên ngoài bầu trời đã ngập tràn ánh sao, Đường Phong lại ngồi lên chiếc trực thăng Mi-171 lúc đến. Trên trực thăng, không ai nói chuyện, trong khoang máy bay chỉ còn lại tiếng động cơ rền rĩ.
 

hoahongden12

Active Member

1

Sáng hôm sau, thư viện vừa mở cửa, Đường Phong, Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân cùng nhau tới thư viện. Tưởng Nhất Dân gọi người quản lý thư viện tới mở chiếc tủ cất đồ số 71 ra, Đường Phong và Triệu Vĩnh nhìn chằm chằm vào đó, trong tủ cất đồ trống trơn. Tiếp theo là tủ cất đồ số 7, bên trong cũng lại trống trơn. “Lẽ nào lại để chúng vượt mặt cướp trước?” Triệu Vĩnh nghi ngờ hỏi, nhưng anh lập tức lệnh cho người quản lý: “Mở tất cả tủ cất đồ ra.” Người quản lý có vẻ chần chừ do dự, nhìn sang phía Tưởng Nhất Dân, Tưởng Nhất Dân gật đầu nói: “Mở tất!”

“Cạch” một tiếng, người quản lý mở tất cả tủ cất đồ ra, Triệu Vĩnh, Đường Phong và Tưởng Nhất Dân lần lượt kiểm tra từng tủ, bận bịu nửa ngày nhưng cũng không tìm thấy bất cứ thứ gì đáng chú ý, chứ đừng nói đến kệ tranh ngọc.

Người trong thư viện mỗi lúc một đông, Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân đi xem xét hình ảnh camera trong phòng giám sát, Đường Phong đứng ngoài hành lang, hồi tưởng lại những việc xảy ra tối hôm trước, từng cảnh tượng, từng chi tiết lần lượt hiển hiện trước mắt, rút cuộc Lương Vân Kiệt cất gì trong tủ đồ? Lẽ nào thực sự là kệ tranh ngọc?

“Đường Phong, anh tới đây một chút.” Triệu Vĩnh gọi Đường Phong vào phòng giám sát, cắt đứt mạch suy nghĩ của Đường Phong.

Đường Phong theo Triệu Vĩnh vào phòng giám sát. Trên màn hình, một người đàn ông mặc áo phông trắng, đeo túi, mặt mũi lấm lét lẻn vào khu tủ cất đồ. Triệu Vĩnh chỉ vào người đàn ông mặc áo trắng trên màn hình: “Đường Phong, người đàn ông này lẻn vào khu cất đồ trong thư viện lúc 3 giờ 26 phút sáng nay, lấy một số đồ từ trong tủ số 71 ra.”

“Tủ cất đồ số 71? Xem ra Lương Vân Kiệt thật sự có cất giữ vật gì đó quan trọng bên trong tủ đựng đồ, bởi vậy ông ấy mới day dứt không quên nhắn lại trước khi chết.” Đường Phong quả quyết với phán đoán đầu tiên của mình.

“Tôi thấy có hai khả năng, thứ nhất là do tủ cất đồ số 71 ở tương đối xa camera, tên trộm này gặp may đánh cắp được đồ quan trọng của Lương Vân Kiệt; hai là, không đơn giản như vậy, tên trộm này biết trước trong tủ cất đồ số 71 có cất đồ vật quan trọng, bởi vậy, hắn mới đột nhập vào thư viện lúc nửa đêm, lấy đồ đi. Hơn nữa, từ thủ đoạn gây án cho thấy, người này cũng thuộc dạng cao thủ, hiện trường gần như không để lại vết tích gì, tiếc là… tiếc là tủ cất đồ số 71 cách camera hơi xa, bởi vậy không thấy rõ người này lấy đi vật gì.” Triệu Vĩnh tiếc nuối nói.

“Đường Phong, anh nhìn xem, người đàn ông áo trắng này có phải là kẻ tối qua đã giết hại Lương Vân Kiệt không?” Tưởng Nhất Dân hỏi.

Đường Phong nhìn vào màn hình, chăm chú hồi lâu, cuối cùng lắc đầu: “Không, không phải.”

“Anh nhìn kĩ lại xem nào?” Triệu Vĩnh truy hỏi.

Đường Phong đáp lại rất kiên quyết: “Tuyệt đối không phải là người này, người này dáng thấp nhỏ, tuy tôi không nhìn rõ mặt của kẻ giết Lương Vân Kiệt, nhưng thân hình hắn rất cao to.”

Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân lại chăm chú nhìn người đàn ông áo trắng hồi lâu, đây là hình ảnh duy nhất mà camera chộp được khuôn mặt của người đàn ông áo trắng, Triệu Vĩnh đã phóng to hình ảnh lên mức lớn nhất. Rút cuộc, Tưởng Nhất Dân đập bàn nói: “Bất luận đây có phải là hung thủ sát hại Lương Vân Kiệt hay không, hắn chắc chắn đã lấy đi vật quan trọng trong tủ cất đồ số 71, tóm hắn trước đã rồi tính sau. Tôi lập tức đi bố trí lực lượng, dựa vào khuôn mặt này, bảo đảm… trong vòng ba ngày sẽ tóm được hắn về cho các anh.”

Khi Tưởng Nhất Dân chốt lại câu: “trong vòng ba ngày”, anh ta cũng chần chừ hồi lâu. Đường Phong và Triệu Vĩnh đều hiểu rằng, trong cái thành phố có tới hơn chín triệu nhân khẩu, hơn nữa lượng người luân chuyển dày đặc như Quảng Châu, muốn trong vòng ba ngày tóm được người đó, nói dễ vậy sao? Nhưng, hiện giờ cũng chỉ có thể như vậy.

2

Rời khỏi thư viện, Triệu Vĩnh nói muốn đi xử lý chút việc, để Đường Phong theo Tưởng Nhất Dân về đồn cảnh sát đợi anh. Đường Phong cùng Tưởng Nhất Dân vừa về tới đồn cảnh sát, Tưởng Nhất Dân liền nhận điện thoại của chủ nhiệm Lưu gọi tới từ trung tâm pháp y: “Người nhà của Lương Vân Kiệt đến nhận di thể của ông ta để đưa đi hỏa táng rồi.”

Tưởng Nhất Dân nghe xong liền cuống cả lên, gầm gào trong điện thoại: “Án vẫn chưa phá xong, thi thể sao có thể hỏa thiêu được? Anh tạm ổn định người của Lương gia, một lúc nữa tôi sẽ đến đấy, nhất định phải đợi tôi đến!”

Nói xong, Tưởng Nhất Dân liền kéo Đường Phong lao tới trung tâm pháp y.

Tới trung tâm pháp y, Tưởng Nhất Dân phóng một mạch lên cầu thang, Đường Phong chỉ lo cúi đầu nhìn đường, không ngờ lên cầu thang tầng hai lại đâm sầm vào người một cô gái xinh đẹp, người đẹp trách mắng: “Cái anh này, đi sao không nhìn đường thế!”

“Xin lỗi!” Đường Phong vội vàng xin lỗi, anh chăm chú nhìn người đẹp trước mặt, trừ liên tục nói câu “xin lỗi” ra, lúc đó tuyệt nhiên không nghĩ ra từ nào khác, người đẹp không buồn để ý đến anh, khẽ “hừm” một tiếng, rồi quay đầu đi xuống cầu thang.

Người đẹp đã xuống cầu thang từ lâu, nhưng Đường Phong vẫn đứng nguyên trên đó, thẫn thờ nhìn theo bóng dáng cô gái đẹp đang khuất dần. Bỗng nhiên anh cảm thấy hình như mình đã từng gặp cô gái này ở đâu đó…

“Anh quen cô gái đó à?” Tưởng Nhất Dân hỏi Đường Phong, Đường Phong bừng tỉnh, lắc đầu nói: “Không!… không quen!”

Hai người không nói gì nữa, cùng nhau tiến vào nhà xác âm u, tìm thấy chủ nhiệm Lưu của trung tâm pháp y. Vừa mới nhìn thấy Tưởng Nhất Dân, chủ nhiệm Lưu liền nói: “Sao giờ các anh mới tới, người thân Lương gia vừa mới đi.”

“Thế thi thể của Lương Vân Kiệt đâu?” Đường Phong vội vã hỏi.

“Đã hỏa táng rồi!” Chủ nhiệm Lưu rất bình tĩnh trả lời.

“Không phải tôi dặn anh đợi tôi tới mới tính sao?” Tưởng Nhất Dân trách móc.

“Tôi cũng hết cách, đây là ý của cấp trên.” Bác sỹ Lưu nhún vai rồi rời khỏi nhà xác.

“Người nhà họ Lương sao phải vội vã hỏa táng Lương Vân Kiệt như vậy?” Đường Phong hỏi Tưởng Nhất Dân.

Tưởng Nhất Dân đanh mặt lại, nói: “Tôi cũng đang nghĩ đến vấn đề đó.”

Hai người nghiền ngẫm hồi lâu, cũng không tìm ra lời giải đáp, quá thất vọng, họ đang định rời khỏi trung tâm pháp y thì tại hành lang lại gặp ngay Triệu Vĩnh đang hấp tấp đi tới. Nhìn thấy Triệu Vĩnh, Tưởng Nhất Dân báo cáo trước về việc thi thể của Lương Vân Kiệt đã được hỏa táng. Triệu Vĩnh nghe xong, chau mày, mãi sau mới chậm rãi nói: “Xem ra, vụ án này càng lúc càng phức tạp rồi.”

“Nghĩa là sao?” Đường Phong và Tưởng Nhất Dân hỏi.

“Các anh tới đây xem, đây là thứ mà người của chúng tôi trục vớt được tại hạ lưu sông Châu Giang.” Vừa nói Triệu Vĩnh vừa dẫn Đường Phong và Tưởng Nhất Dân tiến vào một căn phòng, đưa cho họ xem một chiếc áo khoác da màu đen và một chiếc mũ màu xanh tím than.

“Đây chính là chiếc áo mà tối qua người đó mặc, còn cả chiếc mũ này nữa. Thời tiết hiện giờ nóng như thế, sao người đó sao lại mặc áo khoác da thế này, còn đội mũ nữa, đúng là dị nhân!” Đường Phong vừa nhìn cái đã nhận ra ngay bộ trang phục này.

Triệu Vĩnh chau mày, nói: “Bởi vậy vụ án này càng lúc càng phức tạp, các anh nghĩ, tên trộm sáng sớm hôm nay tới thư viện lấy đồ, nếu như hắn không phải là loại trộm thông thường, chỉ vì đồ trong tủ cất đồ số 71 mới tới, vậy thì tại sao hắn lại biết trong tủ có đồ quan trọng? Chỉ có một khả năng, đó là sát thủ sát hại Lương Vân Kiệt tối qua bảo hắn tới lấy đồ trong tủ.”

“Nói như vậy thì tên sát thủ tối qua nhảy xuống sông Châu Giang thật rồi, vậy hắn đâu? Hay là chết đuối rồi?” Đường Phong chêm vào.

“Thi thể của sát thủ đó cũng được vớt lên rồi, nhưng… nhưng khả năng hắn không phải là chết đuối.”

“Không phải chết đuối?” Đường Phong và Tưởng Nhất Dân đồng thanh kinh ngạc.

Triệu Vĩnh giải thích: “Chúng tôi phát hiện ra một vết thương trên bụng dưới thi thể, hiện đang tiến hành giám định, vì thế tôi mới vội tới đây.”

“Phức tạp vậy sao, lại mọc thêm một tên sát thủ?” Đường Phong kinh ngạc.

Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân không nói thêm gì nữa, ba người đều trở nên trầm ngâm.

3

Một lúc sau, chủ nhiệm Lưu gọi mọi người vào trong phòng giải phẫu, chỉ thấy một thi thể đàn ông trung niên nằm thẳng đơ trên bàn giải phẫu. Đường Phong chú ý tới hai bên tóc mai đã điểm bạc của người này, tuổi tác ít nhất cũng ngoài 50. Quả nhiên, kết quả giải phẫu của chủ nhiệm Lưu đã chứng thực cho phán đoán của Đường Phong: “Tuổi của nạn nhân khoảng trên 50, lúc còn sống cơ thể rất khỏe mạnh, không có bất cứ bệnh tật gì; thi thể đã xuất hiện tình trạng phân hủy, có mốc xanh, bởi vậy tôi đoán thời gian chết khoảng hơn 12 tiếng đồng hồ; vết thương chí mạng của nạn nhân nằm ở vết dao trên bụng dưới, khả năng bị dao găm hoặc một vật sắc nhọn sát thương.”

“Anh khẳng định hắn ta không phải chết đuối? Nhưng thi thể này được vớt lên từ sông Châu Giang?” Tưởng Nhất Dân nghi ngờ hỏi lại.

Chủ nhiệm Lưu nhìn Tưởng Nhất Dân, đáp: “Cái này tôi có thể phán đoán ra, tuy nạn nhân có hiện tượng ngạt nước, ví dụ như niêm mạc mắt của nạn nhân có hiện tượng xuất huyết, màng nhĩ cũng bị rách do áp lực của nước và hơi xuất huyết, nhưng điều này không thể khẳng định nguyên nhân cái chết của nạn nhân là do ngạt nước, đòn chí mạng là vết thương dao đâm ở bụng dưới của nạn nhân, sau đó mới ngạt nước chết.”

“Ý của anh là… rất có khả năng nạn nhân bị người ta đâm một dao dưới nước, sau đó dẫn đến ngạt nước mà chết?” Tưởng Nhất Dân hỏi.

Chủ nhiệm Lưu khẽ gật đầu, nói tiếp: “Việc này thực sự có chút kỳ lạ, nhưng tôi cũng chỉ có thể giải thích như vậy.” Chủ nhiệm Lưu ngừng lại một lúc, nói tiếp: “Các anh hiện giờ đã xác định rõ thân phận của nạn nhân chưa?”

Triệu Vĩnh lắc đầu: “Trên người nạn nhân không có bất cứ giấy tờ nào để chứng minh thân phận, anh có phát hiện ra điều gì trên người nạn nhân không?”

“Ồ, đúng rồi, nếu anh không nhắc thì suýt nữa tôi cũng quên mất, tôi phát hiện ra một điều trên cơ thể nạn nhân.”

Đường Phong, Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân cùng lần theo hướng tay chủ nhiệm Lưu chỉ, Đường Phong trợn tròn mắt, anh nhìn thấy sau mang tai của nạn nhân, có một vết xăm màu xanh nhạt, “Đây là cái gì?” Đường Phong tò mò hỏi.

“Một hình xăm, hình như là… một con sói, trên… trên người con sói còn có một con chim ưng đậu thẳng đứng.” Triệu Vĩnh mất một hồi lâu, rút cuộc đã nhận ra hình dạng của vết xăm.

“Nó tượng trưng cho điều gì?” Tưởng Nhất Dân thấy vô cùng khó hiểu.

“Có lẽ tượng trưng cho tổ chức của chúng, cũng có thể chẳng tượng trưng cho gì cả.” Triệu Vĩnh chậm rãi nói.

Chủ nhiệm Lưu cuối cùng cũng lên tiếng: “Báo cáo chi tiết về việc khám nghiệm tử thi mấy hôm nữa mới có, đến lúc đó các anh từ từ nghiên cứu.” Nói xong, chủ nhiệm Lưu rời khỏi phòng giải phẫu.

“Đến lúc đó tiếp tục nghiên cứu? E rằng đến lúc đó thì không kịp nữa rồi!” Triệu Vĩnh lẩm bẩm.

“Tất cả những điều này rút cuộc là thế nào?” Đường Phong cảm giác đầu óc mình cũng sắp rối tung lên.

Triệu Vĩnh tổng kết lại mọi việc: “Chúng ta liên kết sự tình lại, tôi phán đoán toàn bộ sự việc chắc là thế này, người áo đen này tối qua chặn Lương Vân Kiệt trong ngõ tối, rất có khả năng là truy hỏi Lương Vân Kiệt về kệ tranh ngọc, Lương Vân Kiệt không nói, và xảy ra ẩu đả với người áo đen. Trong khi ẩu đả, Lương Vân Kiệt bị người áo đen đâm trúng, sau đó Đường Phong tới, người áo đen không bỏ chạy ngay mà trốn trong con ngõ, nghe trộm những lời trăn trối Lương Vân Kiệt nói với Đường Phong…”

“Người áo đen này sau khi giết người, vẫn còn có thể trấn tĩnh như vậy, trốn trong chỗ tối nghe trộm, lại còn nhảy xuống sông Châu Giang trong hoàn cảnh như tối qua, định bơi đi, có thể nói bản lĩnh không thường, tố chất tâm lý rất tốt. Từ đó có thể nhận thấy, người áo đen này thật sự rất không đơn giản đâu!” Đường Phong ngạc nhiên nói.

“Đúng vậy! Nhưng người nào đã đâm chết hắn dưới nước chứ?” Triệu Vĩnh chau mày.

“Còn nữa, tổ chức muốn lấy mạng Lương Vân Kiệt, tại sao lại phái một sát thủ ăn mặc kỳ dị và tuổi tác cao như thế này?” Đường Phong không sao tìm thấy điểm tương đồng giữa tay sát thủ và hình ảnh định sẵn trong đầu mình.

“Ai mà biết được, một quái nhân!” Triệu Vĩnh tự mình lẩm bẩm.

“Một quái nhân?” Đường Phong nhìn chằm chằm vào vết xăm dưới mang tai người đó, lại chìm trong suy tư.

4

Trở về đồn cảnh sát, Tưởng Nhất Dân nhận được báo cáo: “Chúng tôi đã phát hiện ra kẻ tình nghi trộm cắp đồ trong tủ cất đồ thư viện tại đường Bắc Giải Phóng, người này tên là Lâm Hải, có tiền sự xã hội đen ở Hồng Kông.”

Đây chính là mệnh lệnh hành động, Tưởng Nhất Dân lập tức dẫn theo vài cảnh sát hình sự xuất phát, Triệu Vĩnh và Đường Phong cũng định đi theo, Tưởng Nhất Dân quay đầu lại nói với Triệu Vĩnh: “Tóm một tên trộm quèn, không cần phí công các anh đâu.” Nói xong, Tưởng Nhất Dân dẫn vài đồng nghiệp lái chiếc Accord lao ra khỏi đội cảnh sát hình sự.

“Chúng ta cứ đợi ở đây thế này sao?” Đường Phong có chút thất vọng hỏi Triệu Vĩnh.

Triệu Vĩnh cười cười đáp: “Người của lão K chúng ta đương nhiên không thể ở đây đợi suông được rồi, họ không đưa chúng ta đi, chúng ta sẽ tự đi, anh đi theo tôi.” Nói xong, Triệu Vĩnh dẫn Đường Phong bước nhanh tới một con phố nhỏ khuất sau đồn cảnh sát. Tại đây, Đường Phong nhìn thấy ghế lái của Triệu Vĩnh - trên chiếc Hummer H3 to lớn, dũng mãnh.

Triệu Vĩnh giới thiệu với Đường Phong: “Chiếc Hummer phiên bản dân dụng này không sánh được với chiếc quân dụng, nhưng để tóm tên trộm quèn thì cũng dư sức.” Triệu Vĩnh khởi động xe, Đường Phong lập tức cảm nhận được sức mạnh mà từ trước tới nay chưa từng được trải nghiệm.

Khi Đường Phong và Triệu Vĩnh đuổi kịp chiếc Accord của Tưởng Nhất Dân, Tưởng Nhất Dân đã vất vả đuổi theo Lâm Hải cả nửa vòng thành phố Quảng Châu. Lâm Hải lái một chiếc Sonata dòng Sedan, vượt lên trước lao sang trái, đâm sang phải, rồi lại quay ngang đâm thẳng, hoàn toàn chẳng khác gì lao vào chốn không người. Bất ngờ, chiếc Sonata đột nhiên rẽ quặt vào một con ngõ nhỏ ven đường, Tưởng Nhất Dân và những xe cảnh sát hoàn toàn không ngờ tới chiêu này của Lâm Hải, lần lượt phanh gấp, đột ngột quay đầu xe.

Triệu Vĩnh thấy Lâm Hải ngạo mạn nhường vậy, hậm hực nói: “Đến lúc kết thúc rồi!” nói xong, anh đánh mạnh vô lăng, lao lên định chặn đầu từ một con đường gần đó, khi Triệu Vĩnh lái Hummer lao tới đầu ngõ, Sonata của Lâm Hải vừa vặn đâm đúng đầu Hummer, chiếc Sonata điên cuồng rút cuộc đã phải dừng lại, nhưng Lâm Hải vẫn không cam chịu, hắn tức tốc mở cửa xuống xe, cửa xe phía bên kia Triệu Vĩnh ngồi bị đâm biến dạng, nên Triệu Vĩnh không mở được cửa, vậy là Đường Phong mở cửa phía bên anh ra, nhảy xuống xe trước.

Đường Phong vừa xuống xe, mới kịp nhìn đã thấy Lâm Hải, phản ứng rất nhanh, thoắt cái đã chạy lên vỉa hè. Đường Phong không đợi Triệu Vĩnh và cảnh sát phía sau chạy lên, một mình lao về phía Lâm Hải.

Lâm Hải bất chấp mọi thứ điên cuồng lao thẳng về phía trước. Đường Phong phát hiện con đường mà họ đang chạy rất đông người qua lại, địa hình phức tạp, nhưng có vẻ như Lâm Hải rất quen thuộc với khu này, hắn khoác trên vai một chiếc ba lô, thuần thục băng qua những cửa hàng, lách giữa dòng xe cộ, dòng người, mấy lần suýt nữa mất hút khỏi tầm mắt của Đường Phong, nhưng mỗi lần như vậy, hắn lại bị Đường Phong phát hiện ra.

Đường Phong đuổi được vài trăm mét, thì đột nhiên, Lâm Hải đang lao điên cuồng bỗng dưng đứng khựng lại, Đường Phong cũng đột nhiên cảm thấy có gì đó không bình thường. Hai người đứng cách nhau một đoạn, gần như đồng thời dừng lại, cảnh giác quan sát xung quanh, dòng người bên cạnh đông đúc ồn ào, vô cùng náo loạn.

“Sao thế?” Triệu Vĩnh đuổi kịp, thắc mắc với Đường Phong.

Đường Phong ngẩng đầu, nhìn về hướng những cao ốc xung quanh, anh đột nhiên nhận ra… “Ban nãy có người nổ súng bắn chúng ta, có sát thủ bắn tỉa!”

“Cái gì? Sát thủ bắn tỉa!” Triệu Vĩnh kinh ngạc, cũng nhìn hướng lên những cao ốc xung quanh. Lúc này, Đường Phong cảm thấy, trong từng tòa nhà hai bên đường, từng ô cửa sổ, sau từng miếng kính, từng bức tường hình như đều có một đôi mắt chim ưng đang chăm chú dõi theo họ…

“Nhưng tôi cảm nhận, súng không nhằm bắn vào tôi, mà là nhắm vào Lâm Hải.” Đường Phong phán đoán.

“Ý anh là có người muốn giết người diệt khẩu?”

“Mặc kệ hắn, nhanh chóng tóm lấy Lâm Hải!” Nói xong, Đường Phong quay đầu nhìn lại về hướng Lâm Hải vừa mới dừng lại, phát hiện Lâm Hải đã lẫn trong dòng người.

Lâm Hải hình như cũng cảm nhận được mục tiêu thực sự của súng trường bắn tỉa là mình, hắn liền chui tọt vào một khu chợ buôn bán ồn ào ven đường, lượng người ở đây càng đông đúc hơn. Chạy thục mạng, căng thẳng, cộng thêm cả khủng hoảng đã khiến Lâm Hải hao tổn quá nhiều sức lực, Đường Phong phát hiện bước chân của Lâm Hải đã bắt đầu loạng choạng…

5

Lâm Hải chốc chốc lại quay đầu, nhìn Đường Phong và Triệu Vĩnh từng bước áp sát, Lâm Hải muốn tăng tốc, nhưng đôi chân dường như đã không còn nghe lời hắn, hắn loạng choạng rẽ những đám đông trước mặt, điên cuồng lao về phía trước. Đột nhiên, hắn đâm sầm vào một người nước ngoài cao to vạm vỡ, ông tây này đang chọn đồ chơi trong sạp hàng trước mặt, bị Lâm Hải “tấn công” đột ngột như vậy, cả người chao đảo, chiếc ô trên tay rơi xuống đất, Lâm Hải cũng bị ngã nhào ra đất.

Rồi Lâm Hải lại lồm cồm bò dậy, tiếp tục tháo chạy. Đường Phong và Triệu Vĩnh tách đám người, bám đuổi theo sau. Được vài trăm mét, Đường Phong phát hiện một bên chân của Lâm Hải hình như bị chuột rút, hầu như không thể cử động được, nhưng Lâm Hải vẫn kéo lê chân, khó nhọc lao về phía trước.

Thấy Đường Phong và Triệu Vĩnh sắp đuổi kịp, Lâm Hải đột nhiên kéo mạnh phéc-mơ-tuya chiếc ba lô, nhìn vật trong túi một cái, sau đó hét lên: “Đều là do những thứ vô dụng này hại bố mày, mẹ nhà nó, bố mày không quan tâm nhiều nữa!” vừa hét hắn vừa quẳng vật trong túi lên không trung, khu chợ lúc đó bỗng trở nên hỗn loạn không tưởng…

Đường Phong nhìn thấy những thứ Lâm Hải vứt ra đều là những cuộn giấy, anh đón lấy một tờ rồi giở ra xem. Trên đó toàn là những chữ nước ngoài mà anh không biết, hình như là tiếng Nga. Chính trong giây phút Đường Phong sững sờ, thì Triệu Vĩnh đã kịp tung đòn vồ bắt được tôi luyện trong hải quân lục chiến, anh nhảy người lên cao, xô Lâm Hải ngã soài ra đất, dùng đầu gối ghì chặt eo lưng của hắn. Tuy đã ngã ra đất, Lâm Hải vẫn không cam lòng, ra sức giãy giụa, nhưng dù thế nào thì hắn cũng không phải là đối thủ của Triệu Vĩnh. Bị đè dưới sức nặng cơ thể của Triệu Vĩnh, sau khi gầm rú, rên rỉ những tiếng kêu trong sức cùng lực kiệt, Lâm Hải cuối cùng cũng im lìm bất động.

“Mày chạy đi!” Triệu Vĩnh vẫn ghì chặt đè lên người Lâm Hải. Đường Phong vội vàng lao lên cướp lấy chiếc ba lô của Lâm Hải. Anh vội dốc ngược ba lô lên nhưng cũng không phát hiện ra kệ tranh ngọc như kỳ vọng. Lẽ nào Lâm Hải chuyển kệ tranh ngọc đi mất rồi? Hoặc là… trong tủ cất đồ vốn không có kệ tranh ngọc? Nghĩ tới đây, Đường Phong cố hỏi Lâm Hải đang bị đè bẹp: “Kệ tranh ngọc đâu?” Lâm Hải nằm trên mặt đất, vẫn im thin thít.

Lúc này, Tưởng Nhất Dân cùng mọi người đã tới nơi, anh vừa lao tới đã rút ngay còng số 8 còng chặt tay Lâm Hải, đột nhiên hét lên kinh ngạc: “Sao hắn không động đậy gì cả?” Đường Phong và Triệu Vĩnh nhìn xuống Lâm Hải bên dưới, giờ mới phát hiện, Lâm Hải lúc này bất động, giống như đã chết, trong miệng còn ộc ra cả máu tươi.

“Lẽ nào do ban nãy tôi đã dùng sức quá mạnh? Không đúng! Cho dù có vậy cũng không đến nỗi miệng trào máu tươi mà! Cái này tôi cũng biết điểm dừng.” Triệu Vĩnh nghi ngờ đưa tay vào mũi Lâm Hải, Lâm Hải lúc này đã tắt thở.

Tất cả mọi người ở hiện trường đều sững sờ, Đường Phong nhìn xung quanh, những người vây xem, và cả dòng người đông đúc ồn ào, từng khuôn mặt, lướt qua mắt anh, Đường Phong nhanh chóng hồi tưởng lại từng cảnh tượng ban nãy, tháo chạy, truy đuổi, súng bắn tỉa… đột nhiên, Đường Phong thảng thốt hét to lên: “Là lão tây ban nãy!”

“Lão tây?” Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân không hiểu.

Đường Phong hạ giọng: “Vì có người muốn Lâm Hải chết, nên sẽ không chỉ sắp xếp một tay sát thủ bắn tỉa, chúng ắt hẳn còn sắp xếp thêm sát thủ khác nữa, lão tây ban nãy, chắc chắn có vấn đề! Sau khi Lâm Hải va vào người hắn ta, một bên đùi đã không cử động được, nhất định là do lão tây kia đã ra tay.”

Mọi người lách ra khỏi đám đông đang vây quanh, tìm kiếm người nước ngoài ban nãy, những biển người mênh mông, người đó đã “lặn không sủi tăm”.

6

Trở về đội cảnh sát hình sự, không kịp nghỉ ngơi, ba người lập tức chia nhánh hành động. Triệu Vĩnh đến trung tâm pháp y tham gia khám nghiệm tử thi của Lâm Hải; Tưởng Nhất Dân đi kiểm tra đạn rơi lại ở hiện trường, sau đó căn cứ vào đường đạn để phân tích, phán đoán vị trí của sát thủ bắn tỉa lúc đó; còn Đường Phong thì ở lại, bắt đầu nghiên cứu chữ nghĩa trên những hồ sơ tài liệu trong túi của Lâm Hải. Những tài liệu này đã được công an thu giữ lại toàn bộ, Đường Phong phát hiện chữ trên những hồ sơ tài liệu này toàn là tiếng nước ngoài, không phải là tiếng Anh và tiếng Pháp mình tinh thông, mà là tiếng Nga. May mà thời còn đi học, Đường Phong đã từng học môn tự chọn là tiếng Nga, sau đó cũng không dùng tới, quên gần hết, không ngờ lúc này lại cần đến.

Quả thật là những gì áp dụng được từ sách rất ít ỏi, Đường Phong vừa đoán vừa mò mẫm hơn hai tiếng đồng hồ, đầu óc như muốn nổ tung, mà vẫn chưa hiểu được bao nhiêu nội dung, anh không hiểu những hồ sơ tài liệu này có liên quan gì tới kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ? Và những kẻ phía sau bóng tối, giết chết Lương Vân Kiệt, phái Lâm Hải đi lấy cắp những hồ sơ tài liệu này, tại sao lại phải giết người diệt khẩu? Nhưng khi Đường Phong tiện tay lật giở một tập tài liệu, anh đột nhiên trợn tròn mắt, ánh mắt lóe lên tia kinh ngạc, bởi anh nhìn thấy trên bìa một bộ hồ sơ ba chữ tiếng Nga màu đen rất to К Г В, Đường Phong biết rõ ba chữ này tượng trưng cho điều gì? Nó tượng trưng cho tổ chức thần bí nhất, vĩ đại nhất, khiến người ta khiếp sợ nhất thế giới - Ủy ban an ninh quốc gia KGB.

Đúng lúc Đường Phong đang nghiền ngẫm vấn đề này, thì Triệu Vĩnh và Tưởng Nhất Dân từng người một cầm một xấp tài liệu, sắc mặt nặng nề bước vào. “Báo cáo khám nghiệm tử thi của Lâm Hải có rồi à?” Đường Phong hỏi.

“Sao mà nhanh thế được! Hiện mới chỉ bước đầu tiến hành giải phẫu tử thi, kết quả thu được cũng khiến chúng ta phải kinh ngạc rồi!” Triệu Vĩnh nghiêm túc trả lời.

“Kinh ngạc? Rút cuộc Lâm Hải chết vì cái gì?” Đường Phong ngạc nhiên hỏi dồn.

Triệu Vĩnh không trả lời câu hỏi của Đường Phong mà quay ra hỏi Tưởng Nhất Dân: “Chỗ anh bên đó sao rồi?”

Tưởng Nhất Dân mở hồ sơ trước mặt ra, bắt đầu đọc theo những gì trong đó ghi lại: “Từ hai viên đạn sót lại ở hiện trường cho thấy, sát thủ bắn tỉa đã sử dụng loại súng bắn tỉa PM 7,62 ly do Anh sản xuất, loại súng này được chế tạo bởi hệ thống công ty chế tạo vũ khí tinh xảo bí mật của Anh, súng dài từ 1124~1194 mm, báng súng dài 655 mm, nặng 6,5 kg, sơ tốc nòng súng 314~330 m/giây, có thể đặt trong hộp, thuận tiện mang theo bên mình. Hung thủ đã sử dụng tới loại súng bắn tỉa chuyên nghiệp như vậy, nên có thể thấy, lai lịch của chúng không hề tầm thường...” Nói xong, Tưởng Nhất Dân phán đoán: “Thông qua phân tích đường đạn, chúng tôi có thể xác định, xạ thủ bắn tỉa đã bắn Lâm Hải từ một tòa cao ốc 11 tầng ven đường, nhưng không bắn trúng Lâm Hải, từ đó, có thể phán đoán được, cùng lúc khi chúng ta truy kích Lâm Hải, còn có một đám người khác cũng đang bám theo Lâm Hải, chúng thậm chí còn tiến bộ hơn chúng ta, và đã vượt mặt chúng ta.”

“Sát thủ chuyên nghiệp thật đấy, còn dùng cả súng bắn tỉa để bắn nữa.” Đường Phong nói.

“Còn chuyên nghiệp hơn ở chỗ này này!” Triệu Vĩnh lật giở tập tài liệu trước mặt mình, vẻ mặt nghiêm trọng: “Theo khám nghiệm ban đầu của pháp y, nguyên nhân thực sự cái chết của Lâm Hải là tử vong vì trúng độc.”

“Trúng độc!” Triệu Vĩnh vừa đọc ra kết luận, cả Đường Phong và Tưởng Nhất Dân đều kinh ngạc thất sắc.

“Đúng vậy, trúng độc, hơn nữa không phải chỉ là chất độc thông thường. Chúng tôi đã phát hiện ra, trên đùi của Lâm Hải có một vết kim tiêm rất nhỏ, từ trong vết kim tiêm đó lấy ra được một hạt kim loại có đường kính chỉ khoảng 1 mm. Trong hạt kim loại này còn sót lại độc tố, cụ thể là loại độc gì, thì chúng tôi còn phải gửi đến Bắc Kinh để tiến hành kiểm nghiệm bước nữa, nhưng hiện giờ chúng tôi cũng có thể đoán ra một trong những loại độc tố đó - độc tố Ricin.”

“Độc tố Ricin? - Một trong những loại độc tố độc nhất trên thế giới, mà đến nay vẫn chưa có thuốc giải độc! Tôi còn nhớ những năm thập niên 70 của thế kỷ trước, KGB đã từng sử dụng loại độc tố này để làm công cụ ám sát những người phản bội tháo chạy.” Trong đầu Đường Phong lập tức xuất hiện sự liên tưởng này.

“Đúng vậy, dùng súng bắn tỉa ám sát, đây khả năng là hành vi của những tập đoàn tội phạm, với nhưng các anh nghĩ xem, sử dụng đến phương pháp dùng Ricin giết người này, với những tập đoàn tội phạm bình thường thì liệu có khả năng không? Đường Phong nói không sai, phương pháp ám sát này là thủ đoạn đặc công chuyên dụng, trước đây KGB từng nhiều lần sử dụng cách này để xử tử mục tiêu ám sát. Hơn nữa theo như tôi biết, chúng còn vì mục đích này mà thiết kế ra một loại ô, đầu ô được cải tạo đặc biệt để chuyên dùng bắn loại hạt kim loại này, các anh có còn nhớ lão tây mà Lâm Hải đâm phải khi đó không? Lúc ấy, trong tay lão ta có cầm một chiếc ô.”

“Ý anh là khi Lâm Hải đâm vào lão tây đó, người đó đã dùng mũi ô chích một nhát vào đùi Lâm Hải, bắn hạt kim loại có chứa độc tố Ricin vào cơ thể Lâm Hải.” Tưởng Nhất Dân chau mày nói.

“Đúng vậy, ngoài điều này ra, tôi không nghĩ ra còn có cách giải thích nào tốt hơn. Lúc đó Lâm Hải đã trải qua cả một chặng đường chạy thục mạng, toàn thân nóng ran, mạch máu lưu thông nhanh, nên độc tố chẳng mấy chốc đã lan khắp cơ thể; vậy là, chưa tới 10 phút là đã mất mạng rồi!” Kết luận của Triệu Vĩnh, khiến Đường Phong và Tưởng Nhất Dân trong thời tiết nóng bức này bỗng cảm thấy rùng mình.

7

Sau khi Tưởng Nhất Dân và Triệu Vĩnh nói xong từng kết luận của cá nhân mình, Đường Phong định sẽ nói tiếp về tình hình nghiên cứu những hồ sơ tài liệu của anh, nhưng Triệu Vĩnh đã ngắt lời. Anh ta cầm tập hồ sơ tài liệu này lên và kéo Đường Phong rời khỏi đồn cảnh sát. Trên đường trở về khách sạn, Đường Phong mù mờ hỏi: “Tại sao ban nãy anh không để tôi nói về tình hình của những hồ sơ tài liệu đó?”

“Bởi vì kỉ luật, những tài liệu này là của Lương Vân Kiệt, liên quan tới bí mật đằng sau kệ tranh cổ, cảnh sát Tưởng tuy là người của chúng ta, nhưng anh ấy vẫn chưa đủ tư cách để tiếp xúc với những cơ mật này.” Triệu Vĩnh nghiêm túc trả lời Đường Phong.

Đường Phong lại lần nữa được lĩnh hội sự nghiêm khắc của kỉ luật, kể cả với những chiến hữu kề vai chiến đấu với mình, điều gì không nên nói thì kiên quyết không được nói.

“Nhưng bây giờ thì anh có thể nói xem sao.” Triệu Vĩnh đổi giọng.

“Bây giờ? Trên đường đi?”

“Đúng vậy, ngay bây giờ, trên đường đi, thế này là tốt nhất, không có ai nghe thấy, đối thủ của chúng ta thực lực không phải vừa, không biết chừng trong khách sạn cũng đã bị chúng lắp máy nghe trộm, thế nên nói bây giờ là tốt nhất.”

Đường Phong gật gật đầu, nói nhỏ: “Tôi đã xem qua, những tài liệu này đều là tài liệu bằng tiếng Nga, hơn nữa, có lẽ còn có không ít tài liệu tuyệt mật của chính quyền Liên Xô trước đây…”

“Tài liệu tuyệt mật?” Triệu Vĩnh ngắt lời Đường Phong.

“Đúng vậy, có một vài tài liệu tuyệt mật, thậm chí còn thuộc dạng cấp cao nhất của KGB.”

“KGB? Tài liệu bảo mật cấp cao như vậy sao lại xuất hiện ở đây được?” Triệu Vĩnh càng thêm phần kinh ngạc.

“Nhưng trình độ tiếng Nga của tôi rất kém, có rất nhiều chỗ tôi đọc cũng không hiểu, bởi vậy tôi chỉ hiểu được khoảng một nửa.” Đường Phong giải thích.

Triệu Vĩnh liếc nhìn túi hồ sơ, nói: “Đường Phong, trước khi trở về đội cảnh sát hình sự, tôi đã báo cáo sơ lược với đội trưởng tình hình hôm nay, đội trưởng cũng vô cùng ngạc nhiên trước những gì chúng ta gặp phải, anh ấy ra lệnh cho chúng ta phải lập tức đem những hồ sơ này về Bắc Kinh, anh ấy sẽ mời chuyên gia của bộ tổng tới tìm hiểu những tài liệu này.”

“Bay về Bắc Kinh! Vậy ở đây thì sao?”

“Ở đây thì giao cho hội cảnh sát Tưởng xử lý. Theo như phán đoán của đội trưởng thì kệ tranh ngọc sẽ không thể xuất hiện tại Quảng Châu.”

“Kệ tranh ngọc không ở Quảng Châu, vậy thì ở đâu? Còn cả những tài liệu này nữa, tại sao Lương Vân Kiệt lại giấu chúng trong tủ đồ ở thư viện?” Đường Phong nói một loạt nghi ngờ trong lòng.

Triệu Vĩnh nhìn Đường Phong, chau mày, không trả lời câu hỏi của Đường Phong, giống như đang chìm đắm trong suy tư vậy.

Trở lại khách sạn, Đường Phong đột nhiên phát hiện ra trên bàn có thêm một tấm thiệp mời, anh mở ra xem:

“Tang lễ của tiên sinh Lương Vân Kiệt - chủ tịch danh dự hội đồng quản trị tập đoàn Tân Sinh - Hồng Kông, cử hành vào 9 giờ sáng ngày 20 tháng 8 tại lễ đường Cơ Ân - nhà tang lễ Hồng Kông, kính mời Đường Phong tiên sinh tham dự. Địa chỉ: Nhà tang lễ Hồng Kông - số 679 đường Anh Hoàng, Bắc Giác, Hồng Kông.”

Đường Phong xem xong, trong lòng vô cùng sửng sốt, tấm thiệp mời trên tay bỗng rơi xuống đất, Triệu Vĩnh vội vàng nhặt tấm thiệp lên xem. “Sao họ lại biết tôi ở đây nhỉ? Tôi và Lương Vân Kiệt chỉ vô tình gặp gỡ, trước đây chưa từng giao du, Lương gia sao lại muốn mời tôi tới dự tang lễ của Lương Vân Kiệt? Xem ra nhất cử nhất động của tôi đều có người theo dõi!”

Triệu Vĩnh đọc xong thiệp mời cũng tỏ ra kinh ngạc không kém, anh vội vàng tìm nhân viên phục vụ hỏi: “Tấm thiệp mời này để ở phòng 906 lúc nào vậy?”

Nhân viên phục vụ nhớ lại: “Là lúc trưa, khi chúng tôi quét dọn vệ sinh, có một cô gái bảo chúng tôi đặt tấm thiệp lên bàn.”

“Cô gái? Cô ta có vào trong phòng không?”

“Không! Khi khách không ở đây, trừ nhân viên khách sạn ra, chúng tôi không cho phép người nào vào phòng của khách.”

Triệu Vĩnh vẫn chưa yên tâm, trở lại phòng, đóng chặt cửa, sau đó bắt đầu kiểm tra khắp nơi, lục tìm máy nghe trộm, camera, tivi, dưới gậm giường, trong phòng tắm... khắp mọi ngóc ngách anh đều tìm kiếm một lượt, nhưng không phát hiện ra bất cứ vật khả nghi nào.

Lúc này Triệu Vĩnh mới gọi vào số điện thoại của Hàn Giang, báo cáo với Hàn Giang về tình hình mới nhất. Hàn Giang nghe xong bảo Triệu Vĩnh chuyển máy để anh nói chuyện với Đường Phong. Đường Phong nghe máy, đầu dây bên kia vang lên giọng nói biểu cảm của Hàn Giang: “Đường Phong, chúng tôi cho rằng đây là một cơ hội tốt, hiện giờ kệ tranh ngọc rất có khả năng đang ở Hồng Kông, thế nên cậu yên tâm, tôi sẽ lập tức thông báo để cảnh sát Hồng Kông biết, sẽ có người bảo vệ cậu.”
 

hoahongden12

Active Member

1

Đường Phong nghỉ ngơi một ngày ở Quảng Châu, sáng ngày 20 tháng 6 anh đặt chân tới Hồng Kông. Ra khỏi sân bay quốc tế Hồng Kông, tắc xi chở Đường Phong lao thẳng tới nhà tang lễ Hồng Kông số 679 đường Anh Hoàng, Bắc Giác đảo Hồng Kông. Khi Đường Phong tới nơi, tiền sảnh nhà tang lễ đã đông kín những nhân vật quan trọng trong giới chính trị, những tinh anh của giới doanh nghiệp, bạn bè thân hữu gần xa tới tham dự tang lễ của Lương Vân Kiệt. Đường Phong không biết mình được coi là gì của Lương Vân Kiệt, vì anh chỉ mới tiếp xúc với ông có vài lần, thời gian gặp mặt cộng lại cũng không quá một tiếng đồng hồ, nhưng lại là người tận mắt chứng kiến ông bị đâm chết trong con ngõ mưa…

Trong Lễ đường Cơ Ân, tiếng nhạc đám ma trầm buồn vang vọng, một bức di ảnh rất lớn của Lương Vân Kiệt treo cao trong điện, Đường Phong theo dòng người chầm chậm tiến vào lễ đường, cúi vái ba vái trước di ảnh. Người nhà của Lương Vân Kiệt đứng bên cạnh cảm tạ, Đường Phong chú ý thấy, người đàn ông trung niên đầu tiên đứng bên trái di ảnh, tuy chít khăn tang, nét mặt u sầu, nhưng không che giấu được sự tinh anh trên khuôn mặt, xem ra quả là một nhân sỹ có sự nghiệp thành đạt. Khỏi phải hỏi, đây chắc chắn là con trai của Lương Vân Kiệt, chủ tịch hội đồng quản trị đương nhiệm của tập đoàn Tân Sinh Hồng Kông - Lương Dũng Tuyền.

“Xin đừng quá đau buồn!” Đường Phong và Lương Dũng Tuyền bắt tay nhau, đây là một đôi tay rắn chắc nhưng cũng rất thô ráp, Đường Phong trong lòng kinh ngạc, Lương Dũng Tuyền được nuôi dưỡng trong một môi trường đầy đủ điều kiện, sao lại có đôi tay thô ráp như vậy?

Lương Dũng Tuyền nhìn Đường Phong, vẻ mặt trấn tĩnh, đáp lời cảm ơn. Đường Phong nhanh chóng theo dòng người rời khỏi nhà tang lễ. Ra đến bên ngoài, Đường Phong thở phào một hơi, xem ra cho tới lúc này, hành động của anh cũng được coi là thuận lợi! Đường Phong vừa bước đi vô định trên vỉa hè dành cho người đi bộ, vừa tính toán xem làm cách nào để tới gặp được Lương Dũng Tuyền.

Đương lúc tính toán, Đường Phong bất giác đi vào một con đường nhỏ có phần vắng vẻ, đột nhiên, trước mặt lướt qua một người đàn ông cơ thể tráng kiện mặc bộ vest, đeo kính râm, chặn ngang đường. Người này nói bằng tiếng phổ thông cứng nhắc: “Đường tiên sinh, ông chủ chúng tôi mời ngài đến phủ làm khách, hy vọng ngài có thể ghé qua!”

Đường Phong thấy người này cũng khá khách khí, anh định thần, hỏi lại: “Ông chủ của các anh là ai? Hình như ở Hồng Kông tôi không có người quen.”

“Đi rồi ngài sẽ biết.”

Một chiếc Mercedes lập tức lao tới, đỗ xịch bên cạnh Đường Phong. Hai người đàn ông cao to từ trong xe chui ra, không nói năng gì, xốc nách Đường Phong ấn vào trong xe. Đường Phong ra sức giãy giụa, bỗng thấy một vật lạnh toát, cứng đơ kề sát sau lưng mình, và anh biết đó là một khẩu súng. “Đừng làm khó chúng tôi, chúng tôi chỉ thực thi theo mệnh lệnh.” Người cầm súng cục cằn đe dọa Đường Phong.

Đường Phong bị kẹp lên xe, chiếc Mercedes lao như bay xuyên qua những con đường lớn nhỏ trên đảo Hồng Kông, chẳng mấy chốc, đã tới núi Thái Bình. Trong vòng bốn ngày, Đường Phong đã bị hai nhóm người ép lên xe, lần trước là hội Triệu Vĩnh, lần này lại là hội nào đây? Là hội đâm chết Lương Vân Kiệt, mưu sát Lâm Hải tại Quảng Châu? Hay là… nếu đúng là hội người đó, mình sẽ rắc rối đây!

Trên đường đi, Đường Phong không rối bời trong những suy nghĩ, mãi cho tới khi chiếc Mercedes dừng lại trước cửa một biệt thự sang trọng trên núi Thái Bình.

2

Mấy người cao to dẫn Đường Phong vào một phòng sách rồi lui ra, Đường Phong tiến lại đẩy cửa phòng để sách đi ra thì phát hiện cửa phòng đã bị khóa bên ngoài. Đường Phong quay người lại quan sát căn phòng này. Phòng sách rất lớn, trang trí nội thất xa xỉ, tấm rèm cửa dày cộm được kéo lên không để ánh sáng lọt vào, hai chùm đèn soi sáng toàn bộ phòng sách, Đường Phong bước tới cạnh bàn đọc sách, phát hiện trên chiếc bàn sang trọng này, ngoài hai tờ báo của ngày hôm nay ra, chỉ có một khung ảnh. Anh cầm khung ảnh lên chăm chú nhìn, trong khung ảnh là một tấm ảnh thiếu nữ. Khuôn mặt thiếu nữ trên tấm ảnh khá xinh xắn, điềm tĩnh tự nhiên, nhưng không mất đi vẻ quyến rũ. Đường Phong chăm chú ngắm nhìn cô gái trong ảnh, bất giác tâm trí lơ lửng, bỗng có cảm giác là mình đã từng gặp người con gái này ở đâu.

Đường Phong buông khung ảnh xuống, vén tấm rèm cửa dày cộm lên, giờ mới phát hiện ra, đứng trước tấm cửa kính sát đất khổng lồ này, nhìn xuống có thể bao quát cảnh vật của hơn nửa đảo Hồng Kông. Đường Phong biết rằng, trên núi Thái Bình, giá của những biệt thự hào hoa thế này không thường, chắc chắn không phải là nơi ở của những người giàu có bình thường. Vậy chủ nhân của ngôi biệt thự sang trọng này là ai nhỉ? - Đường Phong ngẫm nghĩ. Lúc này, cửa phòng sách được mở ra, Đường Phong quay đầu lại nhìn, bước vào là một người phụ nữ giúp việc bưng lên cho Đường Phong một bữa trưa thịnh soạn, Đường Phong không chút hòa khí hỏi sẵng: “Chủ nhân của các người mời tôi tới đây, tại sao lại không tới gặp tôi?... Chủ nhân của các người rút cuộc là ai?”

Người phụ nữ giúp việc không buồn để ý tới câu hỏi của Đường Phong, chỉ lo đặt đồ ăn xong xuôi, sau đó lại lui ra khỏi phòng sách, rồi lại khóa cửa lại. Đường Phong nhìn đồ ăn, đang cơn đói bụng, anh cũng không buồn khách khí làm gì. Rồi như một cơn gió lốc, chẳng mấy chốc anh đã “tiêu diệt” hết thức ăn.

Ăn xong, Đường Phong bước tới trước giá sách. Chủ nhân của phòng sách sưu tập sách rất phong phú, trên giá kín mít những tác phẩm lớn trong nước và nước ngoài, chẳng hạn như: “Hai mươi bốn bộ sử thi”, “Tư trị thông giám”… Đường Phong đọc lướt một lượt từ đầu tới cuối tên những cuốn sách mà chủ nhân phòng sách sưu tầm, các tác phẩm nổi tiếng của nhiều lĩnh vực đều đầy đủ; hơn nữa, còn theo mô hình của thư viện, sắp xếp số thứ tự từ A đến Z, chỉ khác là… trong vô số những cuốn sách mà chủ nhân phòng sách sưu tập, Đường Phong không thấy lấy một cuốn tiểu thuyết nào.

“Có lẽ chủ nhân phòng sách là một vị giáo sư già bác học, không thích đọc tiểu thuyết… nhỉ?” Đường Phong đột nhiên phát hiện ra một cuốn tiểu thuyết có chút ngả vàng trong một góc khuất trên giá sách. Đầy bụng nghi ngờ, anh nhấc cuốn tiểu thuyết này ra - “Tứ bình ám sự”. Đường Phong biết cuốn này là một trong loạt tiểu thuyết trinh thám “Địch Công kỳ án” của nhà văn Hà Lan Robert Hans Van Gulik, “Địch công kỳ án” viết về câu truyện điều tra phá án của danh tướng Địch Nhân Kiệt thời nhà Đường Trung Quốc, còn “Tứ bình ám sự” chính là cuốn nổi tiếng nhất trong số đó. Trong số sách sưu tập của chủ nhân phòng sách không hề có cuốn tiểu thuyết nào khác, vậy sao lại xuất hiện cuốn “Tứ bình ám sự” này? Nhìn cuốn sách được lật giở tới mức cũ kĩ, nhất định là chủ nhân phải thường xuyên đọc nó. Vậy rút cuộc cuốn “Tứ bình ám sự” này đặc biệt ở chỗ nào?… Đường Phong tỉ mẩn lật giở cuốn sách, nhưng cũng không phát hiện ra có gì đặc biệt…

Đường Phong ngẫm nghĩ mãi mà vẫn không hiểu nổi, đúng lúc này, cánh cửa phòng sách lại được mở ra lần nữa, Đường Phong vội vàng đưa tay đặt cuốn “Tứ bình ám sự” về chỗ cũ, quay đầu lại nhìn, lần này không phải là người phụ nữ giúp việc, người bước vào hóa ra là chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Tân Sinh mà anh vừa gặp ở nhà tang lễ sáng nay - Lương Dũng Tuyền.

3

“Chào cậu, Đường Phong.” Lương Dũng Tuyền bước vào phòng sách, mở lời trước.

Đường Phong vô cùng kinh ngạc, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh: “Tôi nên sớm nghĩ tới ông, ở Hồng Kông, trừ ông ra thì còn có ai muốn gặp tôi nữa, nhưng ông là chủ tịch của tập đoàn Tân Sinh, lẽ nào lại mời khách theo kiểu này ư?”

Lương Dũng Tuyền không vì lời chất vấn của Đường Phong mà nổi giận, vẻ mặt vẫn điềm tĩnh nói: “Chàng thanh niên, trước khi chúng ta nói chuyện, tôi sẽ đính chính lại một điều sai lầm trong câu nói ban nãy của cậu.”

“Sai lầm?”

“Đúng vậy, sai lầm rất lớn. Tới giờ mà cậu vẫn chưa biết mình đang ở trong vùng nguy hiểm sao?”

“Tôi đương nhiên đang ở trong vùng nguy hiểm rồi, sự nguy hiểm này không phải do ông mang tới cho tôi sao?”

“Không! Không! Không!” Lương Dũng Tuyền ngắt lời Đường Phong, “Chàng thanh niên, cậu nói không đúng, cậu phải biết rằng, ở Hồng Kông, không chỉ có tôi muốn gặp cậu, những người muốn gặp cậu còn rất nhiều đấy!”

Đường Phong ngạc nhiên: “Còn rất nhiều người? Tôi chẳng có người quen nào ở Hồng Kông cả?”

Lương Dũng Tuyền lắc lắc đầu: “Đương nhiên, những người muốn gặp cậu không nhất thiết phải là người Hồng Kông, nhưng họ thực sự đã tới đây, chính trong tang lễ của cha tôi sáng nay, tôi đã ngửi thấy mùi dị thường, bởi vậy tôi mời cậu tới, là để bảo vệ cậu. Nếu như ban nãy thuộc hạ của tôi có gì thất lễ, tôi sẽ bảo họ tới xin lỗi cậu.”

Lương Dũng Tuyền vừa mới dứt lời, cửa phòng sách mở toang, người đàn ông cao to dẫn đầu ban nãy ép Đường Phong lên chiếc Mercedes bước vào phòng sách, bỏ kính râm xuống, xin lỗi Đường Phong: “Đường tiên sinh, ban nãy có gì luống cuống, mong được lượng thứ.”

“Đây là vệ sỹ tráng kiện nhất của tôi, Hoàng Đại Hổ, cậu ấy xuất thân là lính đặc chủng, kỹ thuật bắn súng chuẩn xác, võ nghệ có hạng đấy. Cậu cũng biết giới thương nhân chúng tôi, làm ăn lớn rồi, luôn phải mời vài vệ sỹ.” Lương Dũng Tuyền đứng bên cạnh giới thiệu.

Lúc này, sự phẫn nộ trong lòng Đường Phong đã nguôi ngoai đi rất nhiều, vốn dĩ bản thân muốn đến tìm gặp Lương Dũng Tuyền, nhưng không ngờ lại gặp được Lương Dũng Tuyền theo cách này, nhưng Đường Phong vẫn chưa hiểu Lương Dũng Tuyền vừa nói “những người muốn gặp mình còn rất nhiều” rút cuộc là ai.

Lương Dũng Tuyền như nhìn thấu tâm tư của Đường Phong: “Có thể cậu đang nghĩ những người muốn gặp cậu là ai? Thực ra tôi cũng không biết những người đó từ đâu tới, nhưng tôi biết, họ tới là bởi kệ tranh ngọc.”

“Nhưng kệ tranh ngọc không ở trong tay tôi mà?”

“Nhưng những người đó không nghĩ vậy, họ cho rằng trước khi cha tôi chết, ông đã trao lại kệ tranh ngọc cho cậu, vì thế họ đều muốn mời cậu tới ‘làm khách’, nhưng có điều họ sẽ không đối đãi với cậu thân thiện giống như tôi đâu.”

“Chắc ông cũng nghĩ như vậy hả? Thế nên mới bắt tôi tới đây.” Đường Phong cười lạnh lùng.

Khóe miệng Lương Dũng Tuyền hé cười: “Đường Phong à, trong lòng cậu vẫn có thù ý với tôi, nhưng tôi nói thật lòng với cậu nhé, từ khi cha tôi mua tấm kệ tranh ngọc về, nó luôn được để ở đây, kệ tranh ngọc hiện giờ đang ở trong tay tôi, tôi có lý do gì để nghi ngờ cậu lấy nhỉ?”

“Kệ tranh ngọc quả nhiên ở trong tay ông!” Đường Phong tuy đã chuẩn bị từ trước, nhưng vẫn không kém phần ngạc nhiên.

Lương Dũng Tuyền gật đầu xác nhận.

Đường Phong vẫn không khỏi thắc mắc: “Vậy tại sao ông lại mời tôi đến đây?”

“Mời cậu tới để nói chuyện, vì dù gì cậu cũng là người cuối cùng tiếp xúc với cha tôi.” Lương Dũng Tuyền quay ngoắt chủ đề, hỏi thẳng Đường Phong.

“Sao vậy, ông cũng nghi ngờ là tôi giết cụ nhà?”

“Tất cả những người đã từng tiếp xúc với ông, tôi đều có lý do để nghi ngờ.” Lương Dũng Tuyền thăm dò Đường Phong bằng ánh mắt đặc biệt.

Đường Phong vừa nghe thấy câu này, nộ khí mới tạm lắng xuống đã lại trào lên lồng ngực, nhưng anh vẫn kìm nén sự phẫn nộ trong lòng, giải thích với Lương Dũng Tuyền: “Tên áo đen giết hại Lương lão tiên sinh đã chết rồi, điều này ông có thể đi hỏi phía cảnh sát.”

“Nhưng sát thủ thực sự phía sau bóng tối thì sao? Cậu không cho rằng tên áo đen đó giết cha tôi là để cướp kệ tranh ngọc chứ?”

“Lẽ nào ông nghi ngờ tôi thông đồng với tên áo đen đó, sau đó lại giết người diệt khẩu? Ông… ông có lý do gì nghi ngờ tôi chứ? Ông nghi ngờ tôi, tôi thì lại nghi ngờ ông đấy?” Đường Phong không kìm nén được sự tức giận trong lòng.

“Ồ! Nghi ngờ tôi? Khà khà, cậu nghi ngờ gì tôi, nói nghe xem nào. Lẽ nào cậu nghi ngờ tôi giết hại cha mình?” Lương Dũng Tuyền bị Đường Phong hỏi vặn mà lại thấy thú vị.

“Từ khi cụ nhà bắt đầu bỏ số tiền giá trên trời ra mua tấm kệ tranh ngọc này, hành động của ông khiến tôi nghi ngờ, còn cả vụ tự sát của chuyên gia đấu giá Tề Ninh. Còn nữa, sau khi cụ nhà bị sát hại tại Quảng Châu, Lương gia các ông tại sao không đợi cảnh sát phá án, mà lại vội vàng đem di thể ông cụ đi hỏa táng?”

Lương Dũng Tuyền nhìn Đường Phong chằm chằm, rất bình tĩnh đáp lại: “Bởi vì tôi không tin tưởng trong một thời gian ngắn cảnh sát có thể phá án, di thể của cha tôi không thể cứ nằm mãi trong nhà xác chờ đợi đám cảnh sát ngu xuẩn đó từ từ phá án được!”

“Tại sao ông cho rằng trong một thời gian ngắn vụ án này không thể phá nổi? Xem ra Lương tiên sinh còn biết nhiều hơn cả chúng tôi đấy!”

“Không! Đường Phong, tôi không hề biết nhiều hơn cậu. Tôi giống cậu, cho rằng ngay từ ban đầu, sự việc này chính là một âm mưu, một âm mưu to lớn, người dựng nên âm mưu này không phải là cha tôi, cũng không phải là tôi, Lương gia chúng tôi là người bị hại, giống như cậu bị cuốn vào đó, ngâm mình trong đó. Đối diện với âm mưu to lớn này, Đường Phong, cậu cho rằng những cảnh sát đó có thể phá án trong một thời gian ngắn không?”

Đường Phong nghe xong câu này bắt đầu trở nên mơ hồ, lẽ nào bản thân mình thực sự rơi vào một âm mưu to lớn? Anh cúi đầu, suy nghĩ rối bời, nhưng lại chẳng nghĩ ra được điều gì khác, anh nhìn Lương Dũng Tuyền, chậm rãi hỏi: “Vậy ông cho rằng tất cả những điều này là thế nào? Là ai đã hại cụ nhà? Ai đã dựng nên âm mưu to lớn này?”

Lương Dũng Tuyền vẫn im lặng, từ cửa phòng sách bỗng vang lên một giọng nói: “Anh biết rõ rồi mà sao vẫn cố hỏi nhỉ?”

4

Đường Phong quay đầu lại nhìn về phía cửa phòng sách và bỗng sững sờ, đó chính là cô gái anh vừa thấy trong bức ảnh ban nãy. Cô gái này chừng 25, 26 tuổi, làn da trắng mịn, mái tóc dài thướt tha, đôi mắt sáng, răng trắng, dáng người cao ráo, đường cong mỹ miều, nhìn thật quen, hình như đã gặp ở đâu đó, không phải là chỉ trong bức ảnh ban nãy, là tại… trên cầu thang của trung tâm pháp y! Đường Phong đột nhiên nhớ ra, đúng vậy, trên cầu thang trung tâm pháp y, mình đã từng đâm sầm vào cô gái này.

Đường Phong bối rối đứng dậy, vẻ thẫn thờ ngắm cô gái trước mặt, cô gái cũng không tỏ ra yếu thế chằm chằm nhìn Đường Phong, không khí bỗng có phần bối rối. “Để tôi giới thiệu một chút, đây là tiểu nữ Lương Viện.” Lời giới thiệu của Lương Dũng Tuyền phá vỡ bầu không khí bối rối này.

Cô gái trước mặt là con gái của Lương Dũng Tuyền! Tiểu thư con nhà giàu, thảo nào ngạo mạn ngang ngược nhường vậy. Đường Phong vội vàng đưa tay về phía Lương Viện: “Xin lỗi Lương tiểu thư, lần trước ở Quảng Châu tôi không cẩn thận đã đâm vào cô.” Lương Viện khẽ “hứ” một tiếng, nhưng không bắt tay lại.

Đường Phong lại lần nữa lĩnh giáo tính khí của đại tiểu thư Lương Viện, ngại ngùng thu tay về. “Viện Viện, không được bất lịch sự, người ta xin lỗi con kìa.” Lương Dũng Tuyền khẽ trách mắng.

Lương Viện lẩm bẩm phản bác: “Con không bắt tay với kẻ bị tình nghi giết ông nội.”

“Kẻ bị tình nghi?” Đường Phong hỏi mà lòng thầm đau khổ.

“Đúng vậy, cuộc điện thoại cuối cùng là ông nội tôi gọi cho anh, người cuối cùng gặp ông nội tôi gặp cũng là anh, tôi không nghi ngờ anh thì nghi ngờ ai, hôm nay vừa hay cha tôi tóm anh tới đây, tôi phải thẩm vấn anh cho kỹ!” Lương Viện đỏ mặt tức tối.

“Nói như vậy, thì người đưa thiệp mời tới phòng tôi cũng chính là cô sao?” Đường Phong hỏi lại.

“Là tôi đưa đấy, cha tôi nói phải mời anh tới, tìm anh nói chuyện, nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên tóm lấy anh, sau đó thẩm vấn anh kĩ càng.” Nói xong, Lương Viện quay về phía Hoàng Đại Hổ bên cạnh: “Đại Hổ, tiếp theo phải nhờ anh đấy, nếu anh ta không thành thật, thì dạy cho anh ta một trận.”

Hoàng Đại Hổ không biết phải làm thế nào, quay lại hỏi Lương Dũng Tuyền: “Ông chủ, ngài xem…”

Lúc Đường Phong và Lương Viện nói chuyện với nhau, Lương Dũng Tuyền lặng lẽ quan sát nét mặt, lời ăn tiếng nói, mãi cho tới khi Hoàng Đại Hổ hỏi ông, ông mới ngăn Lương Viện lại: “Viện Viện, không được làm loạn, Đường Phong là khách mà cha mời tới, ban nãy cha đã nói chuyện qua với anh ta rồi…” Lương Dũng Tuyền chưa nói hết câu, đã lại quay ra nói với Đường Phong: “Đường Phong, thực ra tôi chỉ muốn tìm cậu đến để tìm hiểu một chút tình hình, hy vọng cậu có thể cung cấp vài manh mối hữu dụng, giúp tôi tìm ra hung thủ thực sự đứng sau vụ giết hại cha tôi, ban nãy những lời nói nghi ngờ cậu, đều là tiểu nữ muốn nói để thử cậu, bởi vậy…”

Lương Dũng Tuyền đổ hết trách nhiệm cho Lương Viện, Đường Phong cũng đành phải hòa nhã trở lại, anh nhìn khuôn mặt tức tối của Viện Viện, lại nhớ tới nhiệm vụ tới Hồng Kông của mình, liền hỏi lại Lương Dũng Tuyền: “Tôi nghĩ Lương tiên sinh nhất định đã thử ra kết quả?”

Lương Dũng Tuyền nở một nụ cười: “Đúng vậy, giờ tôi đã tin cậu chắc chắn không phải là sát thủ trong bóng tối đó. Tiểu nữ được tôi nuông chiều từ nhỏ, lại thêm việc ông nội bị hại, tính khí gần đây rất không ổn, mong cậu lượng thứ.”

“Tôi hiểu.” Đường Phong tỏ ra rất rộng lượng, “Vậy ngài cho rằng sát thủ trong bóng tối thực sự là ai?”

“Chính là bọn người mà lúc đầu tôi nói họ cũng muốn gặp cậu, nhưng tôi vẫn chưa biết họ là ai, nhưng… nhưng tôi lo lắng nhất không phải là đám người đó, mà là…”

“Còn có ai nữa? Còn ai muốn đoạt được kệ tranh ngọc?”

5

Lương Dũng Tuyền không trả lời ngay câu hỏi của Đường Phong, mà đứng dậy, mặt hướng về phía cửa kính sát đất, quay lưng lại phía Đường Phong, im lặng hồi lâu. Đường Phong mắt đối mắt với Hoàng Đại Hổ đứng bên cạnh, không biết Lương Dũng Tuyền đang tư lự điều gì… Đột nhiên, Lương Dũng Tuyền quay người lại, nhìn Đường Phong, gần như từng chữ từng chữ một thốt ra từ miệng: “Hay - là - huyết - chú?”

“Huyết chú?” Đường Phong giật bắn mình.

“Đúng vậy, huyết chú! Cha tôi từng kể với tôi rằng, phàm là những người có ý đồ giải mã bí mật của kệ tranh ngọc đều sẽ bị tai họa giáng xuống đầu.”

“Cụ nhà còn nói gì với ngài nữa không?”

“Khi cha tôi mua tấm kệ tranh ngọc về, tôi đã từng hỏi ông việc liên quan tới kệ tranh ngọc, nhưng hình như ông không muốn tôi tham gia vào việc này. Vì tôi hỏi nhiều quá, ông mới nói với tôi rằng đó là huyết chú.”

“Xem ra ông cụ tin rằng có huyết chú tồn tại, thế nên cụ cũng giấu cả ông.”

“Tôi nghĩ thế này, việc này chắc chắn rất nguy hiểm, cho nên cha tôi luôn giữ kín với tôi và Viện Viện. Viện Viện cũng rất tò mò về kệ tranh ngọc, nhưng cha tôi quyết không chịu tiết lộ gì cho nó.”

“Đúng vậy! Ông nội luôn giải đáp mọi thắc mắc của tôi, nhưng lần này ông lại không chịu nói, hơn nữa còn cảnh cáo tôi không được đi tìm hiểu sự việc về kệ tranh ngọc. Lúc đó tôi cảm thấy rất bức bối, giờ nghĩ lại mới thấy ông nội lúc đó chắc là đã cảm nhận được sự nguy hiểm.” Lương Viện đứng bên cạnh nói.

Đường Phong nghe xong lời Lương Viện tường thuật lại, nhìn hai cha con, rồi đột nhiên hỏi Lương Dũng Tuyền: “Ông cũng tin có huyết chú?”

“Tôi vốn không tin, nhưng… cái chết của cha, chuyên gia đấu giá tự sát, còn cả đội thám hiểm bị mất tích năm nào, khiến tôi tin rằng việc này không đơn giản như vậy.” Lương Dũng Tuyền chau mày.

“Bất luận là có huyết chú hay không, chúng ta đều đã bị cuốn vào đó, muốn tóm được sát thủ thực sự trong bóng tối giết hại Lương lão tiên sinh, muốn bóc gỡ được đống bí mật này, hiện tại chỉ có một cách.” Đường Phong kiên định nói.

“Cách gì?” Lương Dũng Tuyền hơi nghiêng người, nhìn Đường Phong.

“Hiện giờ chúng tôi muốn có kệ tranh ngọc đang ở trong tay ông, trước tiên phải giải đáp những văn tự Tây Hạ trên kệ tranh ngọc đã…” Đường Phong kể lại toàn bộ mục đích lần này tới Hồng Kông của anh.

Không ngờ Lương Dũng Tuyền sau khi nghe những lời Đường Phong nói lại bật cười ha hả. Đường Phong chau mày, nhìn ông ta không hiểu. Lương Dũng Tuyền cười xong, nói: “Tôi đoán ngay được tâm ý của cậu.” Tiếp đó lại hỏi Lương Viện: “Viện Viện, đồ đã đem tới chưa?”

Đường Phong lúc này mới chú ý tới chiếc cặp khóa số trong tay Lương Viện. Lương Viện đưa chiếc cặp cho Lương Dũng Tuyền. Lương Dũng Tuyền mở cặp, lấy từ trong đó ra chiếc hộp làm bằng gỗ tử đàn được chạm khắc tinh xảo. Sau đó, Lương Dũng Tuyền cẩn thận mở chiếc hộp ra, Đường Phong để ý thấy trong giây phút chiếc hộp được mở ra, trong mắt Lương Dũng Tuyền lóe lên một ánh nhìn không dễ thấy rõ, “Đây chính là kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ!” Lương Dũng Tuyền cố gắng che giấu sự xúc động trong lòng, đẩy chiếc hộp bằng gỗ tử đàn tới trước mặt Đường Phong.

Đây cũng là lần đầu tiên Đường Phong được ngắm kệ tranh ngọc này ở một khoảng cách gần như thế. Đây chính là kệ tranh ngọc Tây Hạ mang theo huyết chú sao? Anh cảm nhận được cả nhịp tim mình đang tăng tốc, anh ra sức kìm nén sự kích động trong lòng, nhưng vẫn vô thức đưa tay ra chạm vào kệ tranh ngọc.

Kệ tranh ngọc dài 30 cm, rộng khoảng 20 cm, dày 3 cm, được tạc thành bởi cả tấm bạch ngọc nephrite vùng Hòa Điền Tân Cương. Trong thời tiết nóng bức dường này, vậy mà bề mặt kệ tranh ngọc lại buốt giá thấu tận xương tủy. Khung kệ tranh ngọc có chạm khắc hai vòng hoa sen, uốn lượn xung quanh bề mặt kệ tranh ngọc. Giữa hai vòng hoa sen lại chạm một hàng ngọc lam, san hô đỏ, còn cả những châu báu mà Đường Phong không biết tên gọi của chúng là gì, tuy vậy bụi trần năm tháng cũng không thể che lấp được vẻ lấp lánh của những châu báu này. Hơn 800 năm qua rồi, vậy mà chúng vẫn long lanh tỏa sáng! Mặt chính của kệ tranh ngọc chạm trổ một số ký hiệu kỳ lạ, đây lẽ nào chính là văn tự Tây Hạ cổ xưa đã chết tự bao giờ? Sự tích lũy từ hàng trăm năm qua đã hình thành ngọc tẩm thấm vào bên trong, cộng thêm sự ăn mòn của thời gian khiến cho những kí hiệu này trở nên mờ ảo…

6

“Sao rồi, đúng nó không?” Lương Dũng Tuyền cắt ngang suy nghĩ của Đường Phong.

“Không sai, chính là nó.” Nói xong, Đường Phong đóng chiếc hộp gỗ tử đàn lại, đẩy chiếc hộp về phía Lương Dũng Tuyền, nhưng không đẩy tới trước mặt ông ta, mà vô tư đẩy chiếc hộp vào vị trí chính giữa bàn sách.

“Đường Phong, cậu cho rằng kệ tranh ngọc này chính là mấu chốt để giải đáp mọi việc hiện giờ?” Lương Dũng Tuyền hỏi.

“Cái này thì phải cần tới sự giúp đỡ của ngài.” Đường Phong chớp lấy cơ hội nói với Lương Dũng Tuyền: “Phía cảnh sát hy vọng Lương tiên sinh có thể giao cho chúng tôi kệ tranh ngọc này, trước tiên phải giải được bí mật của kệ tranh ngọc, chúng tôi sẽ mời những chuyên gia giải mã trong nước và quốc tế xuất sắc nhất tới; hai là vì sự an toàn của ngài, hiện tại nếu kệ tranh ngọc vẫn tiếp tục để lại đây thì sẽ rất không an toàn, ngài và gia đình sẽ đối diện với nguy hiểm. Dù sao thì từ khi kệ tranh ngọc này xuất hiện trong nước, vài người đã phải mất mạng. Vậy nên…”

Đường Phong không nói nữa, bởi bản thân Lương Dũng Tuyền cũng đã đang chìm trong suy tư. Năm phút sau, Lương Dũng Tuyền ngẫm nghĩ chín muồi, rút cuộc cũng gật đầu: “Đường Phong, cậu nói rất có lý, tôi cũng nghĩ như vậy, tôi đồng ý giao lại kệ tranh ngọc này, hy vọng phía cảnh sát sẽ mau chóng phá án. Nhưng, tôi có một điều kiện.”

“Điều kiện?” Tinh thần Đường Phong bỗng chùng xuống. Nhưng anh vẫn vờ như trấn tĩnh nói: “Lương tiên sinh, có điều kiện gì xin ngài cứ nói.”

“Điều kiện của tôi thực ra rất đơn giản, kệ tranh ngọc để ở chỗ tôi không an toàn, có thể để các cậu mang đi, nhưng tôi cần phái một người đi theo kệ tranh ngọc, cũng có nghĩa là hy vọng có một người của tôi gia nhập vào nhánh đội ngũ của các cậu. Vì dù sao thì kệ tranh ngọc này cũng là di vật của cha tôi... Hơn nữa, nếu như thực sự có phát hiện gì đáng kinh ngạc, vật này có khả năng còn tăng thêm giá trị đấy!”

“Lương Dũng Tuyền quả đúng là thương nhân”. Đường Phong rủa thầm trong bụng. Nhưng anh vẫn tươi cười: “Xin Lương tiên sinh hãy yên tâm, chúng tôi nhất định sẽ đảm bảo an toàn cho kệ tranh ngọc, chúng tôi chỉ mượn dùng, sau khi nghiên cứu, nhất định sẽ trả lại. Nhưng điều kiện của ngài, e rằng…”

“Sao, các cậu không đồng ý?”

“Không, chỉ là việc này tôi không quyết được. Ngoài ra, ngài định để ai theo chúng tôi vậy?”

Lương Dũng Tuyền nhìn sang Hoàng Đại Hổ nãy giờ vẫn đứng nghiêm bên cạnh, nói: “Tôi muốn phái anh ta theo cậu, được không?”

Đường Phong quay đầu lại nhìn Hoàng Đại Hổ, Hoàng Đại Hổ không biểu hiện thái độ gì, vẫn giữ vẻ mặt nghiêm nghị. “Không biết chừng, cậu ta còn có thể giúp đỡ các cậu đấy!” Lương Dũng Tuyền nhấn mạnh với Đường Phong.

Đường Phong chưa kịp trả lời thì Lương Viện đã đột nhiên nói chen vào: “Cha, để con đi cho.”

Lương Dũng Tuyền nổi giận: “Một đứa con gái như con, sao có thể mạo hiểm được!”

“Để tóm được hung thủ sát hại ông nội, bất kể khổ sở đến mức nào, nguy hiểm tới mức nào con cũng chịu!” Lương Viện cố chấp nói.

“Hồ đồ, cha chỉ có mình con, mẹ con mất sớm…” hai cha con Lương Dũng Tuyền và Lương Viện bắt đầu tranh cãi. Đường Phong đứng bên cạnh nghe, lòng nhủ thầm: tốt nhất đừng để đại tiểu thư này đi theo, Hoàng Đại Hổ cũng đừng đi theo là tốt nhất, nhưng nếu bắt buộc phải chọn lựa giữa hai vị này, thì anh thà chọn Hoàng Đại Hổ còn hơn.

Hai cha con Lương Dũng Tuyền và Lương Viện nói qua nói lại mãi không dứt. Lương Dũng Tuyền, đường đường là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty đa quốc gia lớn, vậy mà cũng không nói nổi con gái. Cuối cùng, Đường Phong đành phá vỡ cuộc tranh cãi của hai cha con họ bằng cách nói với Lương Dũng Tuyền: “Lương tiên sinh, tôi có thể dùng điện thoại của ông một chút không? Tôi muốn hỏi ý kiến…”

Lương Dũng Tuyền hiểu ý của Đường Phong, không biết làm sao, đành buông tha cho Đường Phong: “Đường Phong, để cậu chê cười rồi, cậu đừng thấy tôi ở ngoài oai phong, việc trong nhà chúng tôi, ồ…” nói xong, Lương Dũng Tuyền kéo Lương Viện và Hoàng Đại Hổ cùng nhau ra khỏi phòng sách.

Đường Phong thấy phòng sách rộng thênh thang chỉ còn lại mình mình, vậy là gọi điện thoại cho Hàn Giang, Hàn Giang nghe xong điều kiện của Lương Dũng Tuyền, do dự hồi lâu rồi mới nói với Đường Phong: “Cậu có thể đồng ý điều kiện của ông ta.”

“Để Hoàng Đại Hổ gia nhập thật sao?”

“Thì giờ không phải hết cách rồi sao! Ngoài ra, cậu phải cẩn thận hơn nữa, chúng ta nhận được một số tin tức rất không tốt, Triệu Vĩnh cũng đã tới Hồng Kông rồi!”

“Ồ! Triệu Vĩnh đến đây làm gì?”

“Cậu ấy có nhiệm vụ của cậu ấy, cậu chỉ cần đem kệ tranh ngọc về là được rồi!”

Sau khi nói chuyện với Hàn Giang xong, Đường Phong trả lời Lương Dũng Tuyền: “Chúng tôi chấp nhận điều kiện của ông, Hoàng Đại Hổ sẽ quay về cùng tôi!”

“Ông chủ, ông yên tâm, tôi nhất định bảo đảm an toàn cho kệ tranh ngọc.” Hoàng Đại Hổ lập tức cam kết với Lương Dũng Tuyền.

Lương Dũng Tuyền hài lòng gật gật đầu, nhưng Lương Viện lại bĩu môi, cô ta không hài lòng. Đường Phong cười thầm trong bụng, nhưng chẳng mấy chốc anh nhận ra là không nên ở lại đây lâu, thà đi sớm còn hơn, nên liền đề nghị với Lương Dũng Tuyền: “Lương tiên sinh, nếu đám người đó đã xuất hiện ở Hồng Kông rồi, thì an toàn là ưu tiên hàng đầu, tôi nghĩ đi sớm là tốt nhất.”

Lương Dũng Tuyền gật đầu, nói: “Để Đại Hổ chuẩn bị chút đã, chúng ta ăn xong bữa tối sẽ đi.”

Bữa tối xong xuôi, đợi Hoàng Đại Hổ chuẩn bị xong, Lương Viện nhất quyết muốn tiễn Hoàng Đại Hổ và Đường Phong ra sân bay. Lương Dũng Tuyền cũng bó tay, đành phải đồng ý.

Lương Dũng Tuyền tiễn Đường Phong và Lương Viện tới cổng, giao chiếc cặp khóa mật mã đựng kệ tranh ngọc cho Đường Phong, nhưng Lương Viện cướp ngay lấy chiếc cặp mật mã, ôm khư khư trong lòng.

Lương Dũng Tuyền chán nản lắc đầu với Đường Phong, rồi lại dặn dò Hoàng Đại Hổ: “Cậu phải cẩn thận đấy!”

“Ông chủ, ngài yên tâm.” Hoàng Đại Hổ gật đầu đầy tự tin.

7

Ánh trăng trải thảm trên núi Thái Bình, trên vịnh Victoria, phía xa xa đèn hoa lấp lánh. Trong thời khắc này, cảnh vật quả là đẹp tựa như hoa. Nhưng Đường Phong chẳng còn tâm trí mà để lưu luyến, anh ngả người vào ghế sau chiếc Mercedes, hồi tưởng lại những gì mình gặp phải trong lần tới Hồng Kông này. Ban đầu, vốn chỉ muốn gặp gỡ Lương Dũng Tuyền, hỏi xem kệ tranh ngọc có ở trong tay ông ta không, vậy mà không ngờ, hóa ra lại có thể đưa được kệ tranh ngọc trở về, tuy phải kèm theo một điều kiện, nhưng chuyến đi Hồng Kông này, thật chẳng uổng công!

Nghĩ tới đây, Đường Phong liếc nhìn sang Lương Viện đang ngồi bên cạnh, Lương Viện trợn tròn mắt cũng đang nhìn Đường Phong. Đường Phong không kìm được liền hỏi Lương Viện: “Bây giờ cô không sợ kẻ bị tình nghi là tôi nữa sao?”

“Hừm! Đương nhiên là tôi không sợ anh!”

Đường Phong bó tay lắc lắc đầu, đột nhiên như nhớ ra điều gì đó: “Tôi nghe cô nói chuyện thấy không giống con gái Hồng Kông lắm.”

“Đúng vậy, hồi nhỏ, cha tôi thường đưa tôi đi du lịch ở đại lục, tôi còn học mấy năm ở Bắc Kinh nữa mà, sau đó mới đi Mỹ du học, vừa mới về nước gần đây thì ông nội đã bị hại rồi…” Lương Viện bất giác rơi lệ.

Giữa lúc hai người nói chuyện, chiếc Mercedes rẽ sang một ngã rẽ trên núi, trước mặt bỗng nhiên xuất hiện một chiếc Toyota Pickup và vài người mặc đồng phục màu vàng cam, chặn ngang phần lớn đường, dáng vẻ như là công nhân thi công đường. Đường Phong lập tức trở nên cảnh giác, con đường này khá heo hút, lại là buổi tối, ngộ nhỡ xảy ra sự cố… Tài xế chầm chầm dừng chiếc Mercedes lại, nhưng tay vẫn nắm chặt vô lăng, đề phòng bất trắc. Hoàng Đại Hổ sờ sờ khẩu súng Luger P89 cỡ đạn 9 ly do Mỹ sản xuất đang nằm dưới lớp vỏ áo vest. Khẩu súng này anh ta được người bạn làm cảnh sát ở Mỹ trước khi chết để lại cho anh nên anh luôn mang theo bên mình phòng thân. Băng đạn đầy ự, tổng cộng có 15 viên, với bản lĩnh của anh, mấy người trước mặt nếu có mưu đồ gì, 15 phát đạn thừa đủ để tiễn họ lên Tây thiên!

Ngồi trên xe quan sát một lúc, không thấy có gì bất thường, mấy người đó quả thật đang thi công, có lẽ mình quá đa nghi rồi. Đường Phong cũng bớt phần cảnh giác, Hoàng Đại Hổ cũng đỡ căng thẳng hơn, anh quay lại nhìn Đường Phong một cái, sau đó nhảy xuống xe, bước lên phía trước, hét lên với mấy công nhân đang thi công: “Có nhầm không đấy hả mà thi công lúc này, mau nhường đường đi!”

Một người trong số đó có vẻ là tổ trưởng, trả lời Hoàng Đại Hổ: “Đợi một chút, xong ngay đây!” Nói xong, anh ta hô hào những người khác nhường đường. Hoàng Đại Hổ càng lơ là cảnh giác, nhưng đột nhiên cảm thấy đâu đó có chút không bình thường… ở đâu không bình thường nhỉ? Hoàng Đại Hổ nhìn chằm chằm vào đám người trước mặt, đột nhiên nhận ra - không đúng! Người ban nãy vừa trả lời anh, không phải nói tiếng Quảng Đông, mà lại nói tiếng phổ thông rất chuẩn. Chính trong giây phút Hoàng Đại Hổ tỉnh ngộ, đám người trước mặt đột nhiên lôi từ chiếc Pickup xuống mấy khẩu súng liên thanh có nòng giảm thanh MP510A3, Hoàng Đại Hổ định rút súng ra nhưng đã quá muộn, “Tạch! Tạch! Tạch! Tạch…” một loạt đạn ồ ạt bắn ra, hơn chục phát đạn găm thẳng vào người Hoàng Đại Hổ, Hoàng Đại Hổ đáng thương chưa kịp rút súng đã bị bắn cho xối xả!

Đường Phong và Lương Viện ngồi trong Mercedes tận mắt chứng kiến cảnh tượng này, vô cùng hoảng hốt. May mà tài xế phản ứng nhanh, vội vàng lùi xe lại. Súng liên thanh lập tức bắn điên cuồng về phía chiếc Mercedes. Đường Phong giữ Lương Viện cúi rạp xuống ghế sau, tài xế gập người xuống, khó nhọc đánh vô lăng. May mà bác tài kỹ năng điêu luyện, khởi động, rẽ ngoặt, quay đầu đều thành công, tiếng phanh xe khốc liệt xé toạc màn đêm yên tĩnh, đúng lúc tài xế quay đầu xe, chuẩn bị dốc hết sức tháo lui về phía sau thì từ đằng sau bỗng xông lên một chiếc BMW màu xanh đậm, chặn ngang đường rút lui của chiếc Mercedes.

Ba người nhảy ra từ trong xe BMW, rút súng bắn liên hồi về phía chiếc Mercedes. Đi kèm tiếng thét thất thanh của Lương Viện, cơ thể và đầu tài xế bị từng viên đạn bắn trúng, máu tươi và óc trắng bắn tung tóe lên tấm kính chắn gió đang vỡ vụn…

Người trong xe BMW từng bước từng bước áp sát chiếc Mercedes, mở cửa sau xe, một tên béo trong số đó tướng mạo dữ tợn, trên mặt có ba vết sẹo cười nham hiểm: “Khà khà, Đường tiên sinh, và cả tiểu thư này nữa, chúng tôi đợi lâu lắm rồi đấy, mau đi theo chúng tôi!” Nói xong, mấy người còn lại liền lôi Đường Phong và Lương Viện đang cứng đờ cả người ra khỏi chiếc Mercedes và định cướp chiếc cặp khóa số trong tay Lương Viện, Lương Viện gào khóc, ra sức giữ chặt chiếc cặp trong lòng.

“Các người là ai?” Đường Phong cố gắng giữ bình tĩnh, chất vấn.

“Ba vết sẹo” cười nhạt: “Là ai? Giống các người, là những người hứng thú với thứ trong chiếc cặp khóa số này.” Nói xong, “ba vết sẹo” bước tới sau lưng Lương Viện vẫn đang gào khóc, vung tay, dùng báng súng CZ75 do Tiệp Khắc chế tạo đập mạnh vào gáy Lương Viện, khiến cô ngất đi, sau đó hắn giật lấy chiếc cặp trong tay Lương Viện, ôm Lương Viện lên chiếc BMW. Đường Phong cũng bị áp giải lên xe, chiếc Pickup đi trước, BMW theo sau, lao vun vút xuống núi.

Mấy phút sau, Đường Phong ngồi trong BMW nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát kêu hú, trong lòng bỗng nhen lên một tia hy vọng, nhưng “ba vết sẹo” lại không hề hoảng hốt, quay đầu lại nhìn xe cảnh sát đang bám đuôi phía sau, cười nhạt hai tiếng, ánh mắt lộ ra sự hung tợn, hắn ra lệnh cho tài xế vượt mặt chiếc Pickup, sau đó lạnh lùng cười rồi gầm gừ: “Cho chúng mày lên Tây Thiên luôn!”

“Ba vết sẹo” nói xong, Đường Phong liền nghe thấy tiếng nổ ầm ầm phía sau lưng, rung chuyển tới mức đôi tai anh cũng tê cả đi. Anh không biết phía sau xảy ra chuyện gì, nhưng từ điệu cười nhạt trên mặt “ba vết sẹo” thì có thể nhận ra xe cảnh sát phía sau đã lành ít dữ nhiều.

8

Đường Phong và Lương Viện bị áp giải lên một chiếc tàu chở hàng cũ nát, tàu hàng chầm chậm rời khỏi bến. Cái tên “ba vết sẹo” đó xem ra là thủ lĩnh của đám người này, hắn bố trí xong việc trên boong tàu liền áp giải Đường Phong và Lương Viện chui vào trong khoang, cầm lấy chiếc cặp khóa số, ép hỏi Lương Viện: “Mật mã của chiếc cặp này là bao nhiêu?”

Lương Viện vừa tỉnh lại trước khi lên tàu, mới cử động được cổ và gáy thì đã đau buốt thấu tận tâm can. Cô trợn mắt nhìn gã béo có ba vết sẹo trước mặt, hét lên: “Mật mã? Tôi không biết, ông mau thả chúng tôi ra, nếu không để cha tôi biết, sẽ cho các người chết cũng không yên đâu.”

Đã đến lúc này rồi mà Lương Viện vẫn còn giở tính tiểu thư ra đây, Đường Phong nghe vậy vừa lo vừa tức, lại cũng buồn cười. Anh nhìn sang tên “ba vết sẹo”, mặt hắn lộ rõ vẻ dâm tà: “Em gái mi nhon, em nói sao mà sợ thế! Cha em là ai nhỉ? Có phải Lương Dũng Tuyền không, ha ha, danh tiếng của cha em quả đúng như sấm đánh bên tai, anh thật sự sợ quá đi!” nói xong, “ba vết sẹo” còn thò cả cánh tay béo múp míp sờ nắn khuôn mặt trắng nõn của Lương Viện. Lương Viện nghiến răng, xấu hổ cúi đầu. “Ba vết sẹo” đang định giở trò sàm sỡ cơ thể Lương Viện, thì một tên đồng bọn bỗng hớt hải lao vào khoang tàu: “Đại ca, không ổn rồi, phía sau có thuyền đang đuổi theo chúng ta.”

“Ba vết sẹo” nghe vậy, đẩy Lương Viện lại, gào lên với hai tên cướp trong khoang tàu: “Tao ra ngoài xem sao, chúng mày trông chừng hai đứa nó.” Nói xong, “ba vết sẹo” liền giương thẳng khẩu súng máy AEK999 thông dụng lên, lao ra khỏi khoang tàu.

Đường Phong lại lóe lên tia hy vọng, anh đã có thể nghe rõ tiếng động cơ trực thăng từ phía xa xa, còn có cả tiếng bước chân hoảng loạn, tiếng chửi mắng của đám cướp trên boong tàu.

“Các người đã bị bao vây, lập tức buông vũ khí đầu hàng, nếu không chúng tôi sẽ phóng hỏa!...” Phía sau vang lên giọng nói kiên định đầy sức mạnh.

Đường Phong trong khoang tàu nhận ra đây là giọng của Hàn Giang, anh mừng rỡ nói nhỏ với Lương Viện: “Chúng ta sắp được cứu rồi!” Lập tức, họ nghe thấy tiếng hỗn loạn trên sàn tàu, xem ra nhóm cướp đã loạn hết cả lên rồi đây. “Ba vết sẹo” gầm gừ hét lên ra lệnh cho đám thuộc hạ: “Nhanh! Tăng hết tốc độ chạy trước, chỉ cần tới Công Hải thì sẽ có thuyền tới tiếp ứng cho chúng ta, đến lúc đó, chúng không dám làm gì chúng ta cả!”

Đường Phong nhận thấy tàu chở hàng đang tăng tốc hết sức để tháo chạy. Anh và Lương Viện nhìn nhau, hai người đều đang nghĩ kế để thoát thân, nhưng khi họ chưa kịp nghĩ ra cách gì thì, “ba vết sẹo” đã đột nhiên lao trở lại khoang tàu, quẳng khẩu súng máy nặng trịch xuống, móc ra khẩu súng cầm tay CZ75, ra lệnh cho một tên cướp khác: “Mày tóm lấy đứa con gái này, theo tao ra ngoài!” Nói xong, “ba vết sẹo” dùng cánh tay trái thô thiển kẹp lấy cổ Đường Phong, tay phải giữ súng gí chặt vào thái dương Đường Phong rồi bước lên sàn tàu, tên cướp kia thì kẹp lấy Lương Viện, cũng theo sau lên sàn tàu. Trên sàn tàu, gió biển vi vu, ở đây đã không còn nhìn thấy đèn đóm trên vịnh Victoria nữa, phía xa xa chỉ có ánh sao thưa thớt tỏa sáng, xem ra chỗ này đã cách Hồng Kông rất xa rồi, chắc là sắp tới Công Hải rồi.

“Ba vết sẹo” đưa Đường Phong tới đuôi thuyền, gào thét về phía chiếc ca nô đang lao tới: “Chúng mày đừng lên đây, trong tay bọn tao có con tin!” Hét xong, “ba vết sẹo” lại lo sợ quay đầu lại nhìn, xem tàu hàng còn cách Công Hải bao xa?

Hàn Giang đứng sau ca nô nhìn thấy Đường Phong và Lương Viện, anh lập tức dùng loa phóng thanh hét lên: “Các người không chạy được nữa đâu, khẩn trương phóng thích con tin! Nếu không thì…”

“Nếu không cái rắm! Mày tưởng tao ngu chắc, phóng thích con tin? Tao bây giờ mà phóng thích con tin, lập tức sẽ bị chúng mày bắn cho thủng lỗ chỗ!”. “Ba vết sẹo” hằn học cướp lời Hàn Giang.

Hàn Giang thấy tình hình như vậy, liền hạ giọng ra lệnh qua máy bộ đàm, mấy xạ thủ bắn tỉa trên ca nô đã nhắm chuẩn vị trí “ba vết sẹo” cùng những tên cướp khác, sẵn sàng chuẩn bị bắn tỉa, đồng thời, một chiếc trực thăng Z-9 tức tốc bay sát xuống mạn tàu hàng. Vài cọng tóc trên đầu “ba vết sẹo” đều đã bị cánh quạt của chiếc trực thăng thổi tung cả lên, bọn cướp hoảng loạn, lần lượt ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, lo sợ thành viên đội đặc chiến từ trên không trung leo xuống…

“Ba vết sẹo” hoảng hốt nhìn chằm chằm vào chiếc trực thăng trên đỉnh đầu, dồn hết sự tập trung về phía bầu trời, tay phải cầm súng từ từ rời khỏi thái dương của Đường Phong, run lẩy bẩy nhắm lên trời, cánh tay siết cổ Đường Phong cũng không còn thít chặt như trước nữa… Đây là cơ hội tốt nhất, cũng là cơ hội duy nhất! Đường Phong thấy vậy liền quyết định dùng cùi chỏ chọc mạnh vào mạng sườn “ba vết sẹo”, khiến hắn gào rú ầm lên. Đường Phong lại vung tay, hất rơi khẩu súng trong tay “ba vết sẹo”. Rồi Đường Phong nhanh như chớp chộp lấy khẩu súng cầm tay CZ75, nhắm vào tên cướp đang uy hiếp Lương Viện nổ một phát súng. Phát súng này tuy không trúng nhưng lại khiến tên cướp hoảng sợ, thả tay khỏi người Lương Viện. Đường Phong do không bỏ lỡ cơ hội, lao lên ôm chặt lấy Lương Viện, cùng cô nhảy ào xuống biển.

9

Đường Phong ôm Lương Viện từ từ ngoi lên mặt nước, chiếc trực thăng S-76 từ từ bay lơ lửng trên đầu họ, mặt biển bị gió quạt thổi từ chiếc trực thăng làm dậy lên từng lớp sóng khổng lồ, trực thăng thả thang dây xuống, Đường Phong tay phải kéo thang dây, tay trái ôm Lương Viện, khó nhọc leo lên. Trước khi Lương Viện bị uống vài ngụm nước biển mặn chát vốn đã bất tỉnh nhân sự, giờ thì đã tỉnh lại, thấy mình được Đường Phong ôm chặt cứng, cô vừa xấu hổ vừa giận dữ, điệu đà gào lên với Đường Phong: “Anh bỏ tôi ra, đồ tồi, định lợi dụng cơ hội sàm sỡ tôi hả?”

Nhưng Lương Viện càng gào, đôi ngực căng tròn mây mẩy của cô càng áp sát vào lồng ngực rắn rỏi của Đường Phong, khiến cô càng thêm xấu hổ tức giận. Đường Phong lúc này vừa mệt vừa lạnh, làm gì rảnh rỗi mà có hứng sàm sỡ gái đẹp, anh khẽ hét lên với Lương Viện: “Đừng động đậy nữa, nếu còn ngọ nguậy, tôi mà buông tay thật thì cô sẽ rơi xuống biển đấy!”

“Tôi rơi xuống biển cũng không cần anh lo, đồ lưu manh!” Lương Viện vẫn ngoan cố. Đúng lúc này, chiếc trực thăng phía trên không hiểu vì lí do gì đã lắc mạnh một cái, Lương Viện hét toáng lên, lúc này thì hay rồi, Đường Phong không cần phải làm gì, cô ta đã chủ động ôm chặt lấy cổ anh, hơn nữa lại còn ôm rất chặt, tới nỗi Đường Phong không thở được…

Khi Đường Phong và Lương Viện được cứu lên bờ, thì Hàn Giang đã đợi ở trên đó từ rất lâu rồi. Đường Phong mặt trắng bệch, thở hổn hển hỏi Hàn Giang: “Sao anh tới Hồng Kông nhanh vậy?”

“Hừm! Tôi đến muộn một bước, cái mạng quèn của cậu đã nộp lại đây rồi.” Rồi Hàn Giang chững lại một lúc, quay đầu về phía Lương Viện hỏi: “Vị này là... tiểu thư Lương Viện sao?”

“Đúng, cô ta chính là thiên kim Lương Viện - con gái của Lương Dũng Tuyền.” Đường Phong trả lời thay Lương Viện.

“Cô hoảng sợ lắm phải không? Tôi là Hàn Giang, hiện đang phụ trách vụ án của ông nội cô, cũng phụ trách cả sự việc này. Nếu cô có ý kiến, yêu cầu hay là nhớ ra manh mối gì có giá trị về sự việc này đều có thể nói với tôi.” Hàn Giang vừa nói vừa thân thiện bắt bắt tay Lương Viện.

Lương Viện nhìn Hàn Giang, đưa ra yêu cầu của mình: “Yêu cầu duy nhất của tôi chính là cùng hành động với các anh, tóm lấy hung thủ sát hại ông nội tôi.”

“Việc này…” người vốn luôn hành sự quyết đoán như Hàn Giang cũng bắt đầu trở nên do dự.

“Sao? Anh không đồng ý? Nếu anh không đồng ý, tôi sẽ không giao kệ tranh ngọc cho các anh!” Lương Viện cứng đầu nói.

“Anh thấy rồi đấy, cô tiểu thư này mới là kẻ đeo bám vướng víu!” Đường Phong nói nhỏ bên tai Hàn Giang.

Trong lúc Hàn Giang đang khó xử thì một chiếc trực thăng từ từ hạ xuống bên cạnh họ. Triệu Vĩnh xách chiếc cặp khóa số nhảy ra khỏi trực thăng, báo cáo với Hàn Giang: “Chiếc cặp đã được tôi giành lại, chỉ có điều không biết vật đó có còn nguyên vẹn hay không?”

“Đúng! Chính là chiếc cặp này!” Không chờ Hàn Giang mở miệng, Đường Phong đã nhận ngay ra chiếc cặp có để kệ tranh ngọc đang ở trong tay Triệu Vĩnh.

Lương Viện giành ngay lấy chiếc cặp khóa số trong tay Triệu Vĩnh, rồi cho tới khi nhìn thấy kệ tranh ngọc còn nguyên vẹn cô mới yên tâm. Đoạn cô lại quay đầu, hỏi Hàn Giang: “Sao rồi, đội trưởng Hàn, suy nghĩ xong chưa? Cho phép tôi tham gia không?”

Hàn Giang bó tay lắc lắc đầu, nhưng anh không lập tức đồng ý với Lương Viện ngay, mà hỏi lại cô ta: “Lương tiểu thư, cô có biết đám người mưu đồ bắt cóc bọn cô là ai không?”

“Làm sao mà tôi biết được! Có bao nhiêu người hứng thú với kệ tranh ngọc. Nhưng… nhưng tôi nghi ngờ đám người này rất có khả năng chính là đám người đã giết hại ông nội tôi.” Lương Viện suy đoán.

“Làm thế nào mà biết được?”

“Trực giác mách bảo tôi vậy, trực giác của tôi từ trước tới nay đều rất chuẩn.”

“Khà khà, xem ra cô giống hệt tôi, đều rất tin vào trực giác của mình.” Trực giác của Hàn Giang đã từng nhiều lần giúp anh hóa giải hoạn nạn, anh luôn tự hào về điều đó, nhưng lúc này đây anh vẫn muốn tin vào những chứng cứ hơn.

10

Lúc này, một chiếc Mercedes đã dừng lại ngoài đường cảnh giới, Hàn Giang nhìn thấy người đang xuống xe chính là Lương Dũng Tuyền, anh hất hất tay về phía cảnh sát của cảnh giới tuyến, Lương Dũng Tuyền liền vượt qua cảnh giới tuyến, bước về phía họ.

Lương Dũng Tuyền mặt mày sa sầm, sau khi bắt tay Hàn Giang xong liền nhìn chằm chằm Đường Phong và Lương Viện, một lúc sau mới mở miệng nói: “Sao rồi? Đường Phong, tôi đã nói trước rồi, đám người đó sẽ không khách sáo với cậu như tôi đâu, giờ thì cậu đã ý thức rõ ràng về những nguy hiểm mà các cậu phải đối diện rồi chứ?”

“Đúng vậy, nhóm tội phạm này thực sự rất lớn mạnh.” Đường Phong không thể không thừa nhận.

“Còn con nữa, Lương Viện!” Lương Dũng Tuyền quay lại nói với Lương Viện: “Giờ thì chắc con cũng đã biết sự việc này nguy hiểm đến nhường nào rồi, con còn muốn đi cùng nhóm của Đường Phong không?”

“Muốn! Cha, bây giờ Hoàng Đại Hổ đã chết, cha hãy để con đi cùng Đường Phong và các anh ấy, nhất định con sẽ tóm được hung thủ sát hại ông nội.” Lương Viện ngây thơ nhìn Lương Dũng Tuyền.

Lương Dũng Tuyền vừa nghe thấy những lời này, tức giận tới nỗi cứng miệng không thốt nên lời. Ông trợn mắt nhìn Lương Viện, kìm nén mãi, cũng không thốt ra được lấy một câu, rút cuộc, hậm hực lườm Lương Viện một cái rồi bực tức bỏ đi.

Triệu Vĩnh mang chiếc cặp khóa số đựng kệ tranh ngọc nhảy lên trực thăng, trên bờ chỉ còn lại ba người Đường Phong, Lương Viện và Hàn Giang. Cả ba đều đang đăm chiêu suy nghĩ về kế hoạch bước tiếp theo của riêng mình, bỗng Đường Phong đột nhiên hỏi Lương Viện: “Tôi có một câu muốn hỏi cô mãi... Ông nội cô đã từng nói gì với cô trong thời gian sau khi mua kệ tranh ngọc về? Hoặc là… hoặc là có hành động bất thường nào không?”

Lương Viện nghĩ một lúc rồi nói: “Sau khi mua kệ tranh ngọc này về, ông nội thường ở trong phòng, giống như đang nghiên cứu gì đó vậy, có lúc ông nội cũng đi ra ngoài thăm một số người bạn cũ, đều là người quen của ông nội. Còn nữa, ông nội không cho tôi và cha tiếp xúc với kệ tranh ngọc này, tôi cũng chỉ mới nhìn thấy nó có một lần sau hội chợ đấu giá, ngoài những điều này ra, tôi không thấy ông nội có gì không bình thường.”

“Cô nghĩ tiếp xem, thật sự hết rồi sao?” Đường Phong vẫn hy vọng có thể lấy được một vài manh mối có giá trị từ Lương Viện.

Lương Viện ngẫm nghĩ hồi lâu, ánh mắt đột nhiên sáng lên: “Đúng rồi, nếu anh không nhắc tôi cũng quên mất, trước khi đi Quảng Châu ông nội tôi có nhận được một bức thư.”

“Thư?” Đường Phong và Hàn Giang đều kinh ngạc.

“Ừm, chính trong sáng hôm đó, tôi phát hiện ra một bức thư trong hòm thư, thư gửi cho ông nội, nhưng trên phong bì lại không đề địa chỉ của người gửi, lúc đó tôi cảm thấy rất lạ, thời buổi này còn có ai viết thư nữa nhỉ? Thêm nữa, còn không có địa chỉ của người gửi, sau đó, tôi đưa thư cho ông nội. Bây giờ nghĩ lại, có lẽ việc ông nội đi Quảng Châu chắc là có liên quan rất lớn tới bức thư đó.”

“Bức thư đó bây giờ có còn không?” Đường Phong truy hỏi.

“Ông nội xem xong đã đốt ngay rồi. Tôi hỏi ông nội về nội dung bức thư, ông nội chỉ nói muốn một mình yên tĩnh một lúc, tôi liền rời khỏi phòng sách. Ông nội ở lại một mình trong phòng sách khoảng hơn nửa tiếng đồng hồ, tôi đợi tới khi ông ra, thì ông nói với tôi là ông phải đi Quảng Châu một chuyến. Lúc đó tôi nói muốn đi cùng ông, nhưng ông nội không cho và nói hôm sau có thể sẽ quay luôn, nhưng không ngờ…” Lương Viện nói tới đây, đã lại bắt đầu thút thít.

“Đốt rồi?... Xem ra Lương tiên sinh đi Quảng Châu không chỉ vì tìm tôi.” Đường Phong lẩm bẩm.

“Thông tin mà Lương Viện nói cũng rất quan trọng, mục đích mà Lương lão tiên sinh đến Quảng Châu có lẽ là để có được những hồ sơ tài liệu này, sau khi có được những hồ sơ tài liệu này, ông mới đi tìm Đường Phong, sự việc sau đó, chúng ta đều đã biết rồi.” Hàn Giang phân tích.

“Những hồ sơ đó rút cuộc có giá trị gì đối với việc giải mã bí mật của kệ tranh ngọc?” Đường Phong không hiểu nên thắc mắc.

“Vậy thì phải đợi tới khi chúng ta quay lại Bắc Kinh mới biết được.” Hàn Giang nói xong, một cơn gió biển mặn chát thổi tới, tuy là mùa hè, nhưng gió biển lại khiến cả ba người khẽ rùng mình vì lạnh.
 

hoahongden12

Active Member

1

Trong một căn nhà cao tầng với vẻ ngoài rất phổ biến nằm ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh, Triệu Vĩnh dẫn Đường Phong và Lương Viện vào một căn mật thất kéo rèm dày cộm. Trong mật thất, ngoài Hàn Giang, còn có một lão tiên sinh tóc bạc phơ ngồi trên xe lăn đang hiền từ nhìn Đường Phong và Lương Viện cùng một người đàn ông khác chạc tuổi Hàn Giang, tay cầm tẩu thuốc, đeo kính gọng vàng, dáng vẻ học thức.

Đường Phong và Lương Viện ngồi ngay ngắn, Hàn Giang mở lời: “Ngồi ở đây đều là người của chúng ta, tôi sẽ nói thẳng luôn; trước tiên, tôi thay mặt tổng bộ cảm tạ tiểu thư Lương Viện và tiên sinh Lương Dũng Tuyền đã trao lại kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ. Xin tiểu thư Lương Viện hãy yên tâm, sau khi sự việc này kết thúc, kệ tranh ngọc đương nhiên sẽ được hoàn lại nguyên vẹn, ngoài ra, thông qua phê chuẩn đặc biệt của tổng bộ, sẽ cho phép cô tham gia hành động của chúng tôi.”

“Ồ! Đội trưởng Hàn, thật sao?” Lương Viện không dám tin vào điều đó.

Hàn Giang trịnh trọng gật gật đầu: “Đúng vậy, Lương tiểu thư, cô không nghe lầm, tuy cô không phải là thành viên chính thức của lão K, nhưng tôi đã coi cô như là một trong những thành viên của chúng tôi rồi.”

“Hì hì, Đường Phong không cho tôi tham gia, anh ta luôn cự nự với tôi.” Vừa nói, Lương Viện vừa lườm Đường Phong một cái, Đường Phong chẳng biết phải làm sao, chỉ lắc đầu, khiến mọi người đều bật cười.

Cười xong, Hàn Giang chỉ vào một vị tiên sinh tóc bạc phơ, nói với Đường Phong và Lương Viện: “Vị này chắc không cần phải giới thiệu với các bạn nữa đâu nhỉ, nhà sử học nổi tiếng, giáo sư La Trung Bình. Giáo sư La Trung Bình bao năm nay đắm đuối nghiên cứu lịch sử Tây Hạ, nhiều năm chuyên sâu nghiên cứu khảo sát cố địa Tây Hạ, là người rất có uy tín trong lĩnh vực Tây Hạ học ở nước ta. Đường Phong, cậu và giáo sư La cũng được coi là quen biết lâu rồi, chắc cậu vẫn chưa biết, giáo sư La cũng là thành viên của lão K chúng ta đấy!”

Đường Phong nghe thấy, vô cùng kinh ngạc. La Trung Bình gật đầu: “Đúng vậy, tôi chính là K4, đội trưởng Hàn là bang chủ, cứ nhất định lôi bộ xương già như tôi vào đấy.” Nói xong, giáo sư La quay lại nói với Lương Viện: “Viện Viện, ông là bạn thân lâu năm của ông nội cháu, ông rất buồn khi ông nội cháu gặp nạn, cháu phải tin rằng đội trưởng Hàn chắc chắn sẽ tóm được hung thủ, chúng ta nhất định sẽ hóa giải những bí mật bao trùm lên kệ tranh ngọc.” Lương Viện mắt ngấn lệ, gật đầu lia lịa.

Lúc này, Hàn Giang lại giới thiệu tiếp: “Giáo sư La học vấn tinh thông từ cổ chí kim, không những chỉ chuyên sâu nghiên cứu lịch sử và văn tự cổ, mà còn tinh thông vài ngoại ngữ; những tài liệu mà các cậu mang về, giáo sư La đã dịch hết ra rồi, sau đây sẽ mời giáo sư La giảng giải sơ bộ cho chúng ta.”

Giáo sư La nhìn mọi người đã ngồi yên vị, lúc này mới lấy những tài liệu bí mật đó ra, bắt đầu giới thiệu: “Những tài liệu tiếng Nga mà các cậu mang về này quả thật rất khó hiểu. Đây đều là những tài liệu tối mật, tôi không biết những tài liệu này sao lại lưu lạc trong nước, nhưng chúng thật sự rất quan trọng, hỗ trợ rất lớn cho việc chúng ta giải mã những bí mật phía sau kệ tranh ngọc. Tôi đã xem xét tất cả tài liệu, phần lớn đây là tài liệu nghiên cứu lịch sử Tây Hạ của một vài học giả Liên Xô, còn cả một ít văn kiện thông thường, nhưng trong đó có một phần tài liệu vô cùng quan trọng.” Nói xong, giáo sư La đưa cho mọi người xem phần tài liệu tuyệt mật của KGB.

Mọi người đổ dồn ánh mắt lên văn kiện tuyệt mật trong tay giáo sư La. Giáo sư La nhấc cặp kính lão, mở tập tài liệu tuyệt mật trên bìa có in ba chữ tiếng Nga màu đen “КГВ”. “Tập tài liệu tuyệt mật của KGB này, thực ra là bảy bức thư tuyệt mật.”

“Bảy bức thư tuyệt mật?” mọi người đều ngạc nhiên thắc mắc.

Nét mặt giáo sư La đanh lại, ông bắt đầu đọc và giải thích bảy bức thư tuyệt mật này: “Tôi đã dịch bảy bức thư này sang tiếng Trung, sau đây mọi người xem đi, xem xong sẽ nộp lại để thống nhất bảo quản.”

2

Bức thư thứ nhất là vào năm 1938, thư của nhà Hán học Liên Xô nổi tiếng Ivanovich Ivanov (Aleksei Ivanovich Ivanov) gửi cho Lavrentiy Beria (Lavrenti Pavles dze Beria) thời đó là người đứng đầu cơ quan tình báo.

Đồng chí Lavrenti Pavles dze Beria:

Hãy cho phép tôi được gọi ngài như vậy. Theo như chỉ đạo của ngài và thuộc hạ của ngài dành cho tôi, những ngày này, trong nhà giam, tôi đã suy nghĩ đi suy nghĩ lại, mấy chục năm qua, bất luận là ở Trung Quốc, hay là ở nước ngoài, tôi luôn cố gắng hết sức trung thành phục vụ quốc gia. Từ trước tới nay chưa từng làm bất cứ một việc gì bất lợi cho quốc gia và nhân dân, bởi vậy, chỉ đạo của ngài và thuộc hạ của ngài khiến tôi không sao chấp nhận được.

Nếu như nói rằng những năm qua tôi đã làm sai việc gì, vậy thì, việc tôi có thể nghĩ ra chính là thành quả nghiên cứu mà tôi đã giấu ngài và quốc gia. Tôi đã làm việc này là vì thành quả nghiên cứu này khiến tôi vô cùng kinh ngạc, trước khi rút ra được kết luận cuối cùng, tôi không biết có nên công bố kết quả này với thế giới hay không. Nhưng, hiện giờ tôi đã quyết tâm, quyết định “thẳng thắn” với ngài, bởi vì nếu nhỡ tôi chết rồi, thành quả nghiên cứu này sẽ không còn ai biết, nếu thế tôi có chết cũng không nhắm được mắt.

Thành quả nghiên cứu này liên quan tới bí mật về một báu vật của cung điện Mùa Đông được chôn giấu. Đương nhiên, báu vật này không xuất thân từ cung điện, mà đến từ Đông Phương xa xôi. Hơn 900 năm qua, tại phía tây Trung Quốc đã từng xuất hiện một đế quốc do người Đảng Hạng gây dựng, sùng bái màu trắng, người Hán gọi đế quốc này là “Tây Hạ”, người Mông Cổ gọi quốc gia này là “Đường Ngột Thích”. Đế quốc màu trắng này một thời từng ở trên đỉnh cao của lịch sử Trung Quốc, mãi tới tận năm 1227 mới bị Thành Cát Tư Hãn diệt vong. Kể từ đó, tất cả những gì liên quan tới đế quốc màu trắng liền mất tích, chôn vùi trong sa mạc cát vàng miên man, giống như chưa từng tồn tại thế giới này.

Mấy trăm năm sau, khi nhân thế đã hoàn toàn lãng quên đế quốc màu trắng này, nhà thám hiểm trứ danh Coats Ivanov của nước ta trong một chuyến khảo sát Tây Hạ, Trung Quốc, đã vô tình phát hiện ra Hắc Thành - một tòa thành cổ thời Tây Hạ đã bị cát vàng chôn vùi từ lâu. Trong tòa thành cổ này, Coats Ivanov đã tìm thấy một lượng lớn văn hiến Tây Hạ và tượng phật quý báu cùng rất nhiều văn vật khác, trong đó, có một văn vật Tây Hạ vô cùng quý hiếm, nó được gọi là “kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu”. Từ rất lâu rồi không ai biết tới báu vật này, và nó ngủ say trong kho văn vật của cung điện Mùa Đông. Cũng giống như Coats Ivanov vô tình phát hiện thấy Hắc Thành, trong một lần tình cờ, tôi đã phát hiện ra báu vật mà Coats Ivanov mang về từ Hắc Thành đó trong cung điện Mùa Đông. Bao năm qua, tôi đã nghiên cứu tìm tòi để giải mã bí mật của báu vật này. Mấy lần trước tới Trung Quốc điều tra thực địa, cuối cùng tôi đã phát hiện ra, phía sau báu vật này có ẩn giấu một bí mật kinh hồn… Nhưng, đúng lúc nghiên cứu của tôi tới thời khắc mấu chốt, thì tôi lại bị ngài đưa vào nhà giam.

Tôi cũng không cầu xin ngài để được tự do, nhưng xin ngài hãy suy nghĩ về lời khẩn cầu của tôi. Cho dù tôi đã phạm vào trọng tội, nhưng xin ngài hãy cho phép tôi được tiếp tục công việc nghiên cứu của mình, để bí mật kinh hồn đó được phơi bày trước ánh sáng. Hy vọng ngài sẽ cân nhắc kỹ lưỡng đề nghị của tôi, bởi dù sao thì đây cũng là việc có lợi cho ngài và cho quốc gia của chúng ta, và cũng là để đáp lại tâm nguyện cuối cùng của tôi.

Aleksei Ivanovich Ivanov

Sau khi đọc xong bức thư thứ nhất, giáo sư La nhìn mọi người nói: “Ivanovich Ivanov là nhà Hán học nổi tiếng của nước Nga, đã từng nhiều lần tới Trung Quốc, ông từng phát hiện ra cuốn “Phiên Hán hợp thời chưởng trung châu”[4] trong số những văn vật Tây Hạ được khai quật tại Hắc Thành, đây là cuốn từ điển song ngữ tiếng Tây Hạ và tiếng Hán. Nhờ phát hiện được cuốn từ điển này, mà người đời sau đã đọc hiểu được những điều kiện sáng tạo ra văn tự Tây Hạ đã thất truyền, cũng có nghĩa là, Ivanovich Ivanov là học giả đầu tiên trong giới học thuật có thể đọc và hiểu được văn tự Tây Hạ cổ xưa. Từ bức thư này có thể nhận ra, năm 1938 Ivanovich Ivanov đã rơi vào vòng tù tội, đó cũng là lúc công việc nghiên cứu kệ tranh ngọc Tây Hạ của ông đang ở trong giai đoạn then chốt, ông không muốn từ bỏ nghiên cứu, vậy là ở trong ngục ông đã viết bức thư này cho giám đốc cơ quan tình báo Liên Xô - Beria. Trong thư có nhắc tới kệ tranh ngọc và công việc ông đang nghiên cứu, hy vọng có thể được trao trả tự do, tiếp tục công việc nghiên cứu của mình.”

“Vậy sau đó Beria có đồng ý lời thỉnh cầu của ông ấy không?” Lương Viện nóng lòng hỏi.

Giáo sư La không vội vã cũng không chần chừ, đáp: “Vậy thì phải đọc bức thư thứ hai rồi.”

3

Bức thư thứ hai là của Beria trả lời thư cho Ivanovich Ivanov nửa tháng sau.

Aleksei Ivanovich Ivanov:

Tôi đã đọc bức thư anh viết cho tôi, với học thức uyên bác của anh, tôi rất ngưỡng mộ, đặc biệt là những nghiên cứu về “đế quốc màu trắng” của Trung Quốc cổ đại. Nhưng tôi phải nói rõ ràng với anh rằng, tôi không hứng thú với những nghiên cứu của anh, tôi cũng tin rằng quốc gia chúng ta cũng không có bất cứ hứng thú gì với việc này. Hội nghị đại biểu toàn quốc vừa trải qua một cuộc tranh luận kịch liệt, và thấy rằng nghiên cứu lịch sử của anh không có chút lợi ích gì do chúng tôi, chúng tôi cần là cần tương lai, một tương lai hoàn toàn mới, chứ không phải là quá khứ cổ xưa đại xa lắc xa lơ của anh! Tỉnh ngộ đi, Ivanovich Ivanov. Chỉ khi nào anh thực sự ngẫm nghĩ về hành vi phạm tội của mình, thừa nhận với nhân dân, lúc đó anh mới có cơ hội nhận được sự khoan hồng. Ngoài ra, không còn con đường nào khác! Đừng tham vọng dựa vào những sáng tạo theo tưởng tượng về sự ly kỳ của lịch sử Đông Phương để được trao trả tự do! Được rồi, cứ vậy nhé, tôi không muốn lãng phí thời gian với anh và mớ nghiên cứu vô vị của anh, bởi vì còn rất nhiều việc đang chờ đợi tôi. Tôi cảm thấy thời gian đang rất thúc gấp gáp, còn anh, thời gian còn lại cũng không nhiều nữa đâu, hy vọng anh tự lo cho mình.

Lavrenti Pavles dze Beria

“Từ bức thư thứ hai có thể nhận thấy, Beria lúc đó chức cao vọng trọng, ra điều ngạo mạn, ông không hứng thú với nghiên cứu của Ivanovich Ivanov, càng không tin tưởng cái gọi là thành quả nghiên cứu mà Ivanovich Ivanov nói tới, nên đương nhiên sẽ không phê chuẩn cho ông ta tiếp tục nghiên cứu. Beria thậm chí còn cho rằng Ivanovich Ivanov vì muốn mưu cầu mạng sống nên đã tự tưởng tượng ra bí mật Đông Phương gì đó. Thậm chí sau đó Beria cũng không thay đổi ý định, Ivanovich Ivanov có viết thư tiếp cho Beria nữa hay không, chúng ta cũng không biết được, bởi vì sau đó không có bất cứ thông tin gì liên quan tới vấn đề này.” Đường Phong đọc xong bức thư thứ hai, mở lời trước.

Giáo sư La Trung Bình gật đầu: “Đúng vậy, hai bức thư này hoàn toàn phù hợp với tình hình mà tôi tìm hiểu được. Theo như tôi biết, Ivanovich Ivanov và Aleksandrovich Nevsky - người học trò mà ông hài lòng nhất, đều chết vì trận ‘đại gột rửa’, vào khoảng năm 1938. Vì cái chết của Ivanovich Ivanov và nhiều người khác mà từ đó trở về sau, càng không có ai nghiên cứu những văn tự và văn vật Tây Hạ đó nữa. Nên tôi suy đoán tấm kệ tranh ngọc Tây Hạ từ đó trở đi chắc là cứ nằm mãi trong kho văn vật của cung điện Mùa Đông.”

“Vậy sao lại có đội thám hiểm liên hợp đó nhỉ? Chắc chắn là sau đó có người bắt đầu nghiên cứu lại về kệ tranh ngọc Tây Hạ.” Đường Phong suy đoán.

Giáo sư La gật gù đồng tình: “Đường Phong, cậu nói không sai, sau đó lại có người phát hiện ra kệ tranh ngọc Tây Hạ này và bắt đầu tiến hành nghiên cứu lại. Người này chính là giáo sư Hán học thế hệ mới Menshikov, năm đó ông mới gần 20 tuổi, đang học tại Đại học Leningrad; thầy giáo của ông ta là nhân vật xuất chúng trong giới Hán học Liên Xô lúc đó, Alekseev. Cũng chính nhờ phát hiện và nỗ lực của họ nên mới có đội thám hiểm liên hợp sau này, tiếp theo chúng ta sẽ tiếp tục đọc bức thư thứ ba.”

4

Bức thư thứ ba là vào năm 1951, Menshikov (Lev N. Menshikov) sau này trở thành giáo sư Hán học nổi tiếng, viết cho thầy giáo của ông viện sỹ Viện khoa học Liên Xô, nhà Hán học nổi tiếng Alekseev (Vasily Mikhailovich Alekseev):

Thưa thầy kính mến,

Khi viết bức thư này, em cảm nhận rõ đôi tay mình đang run rẩy. Thầy đừng lo lắng, đây không phải vì nguyên nhân sức khỏe của em, mà là bởi một sự thật kinh hoàng mà hôm qua em phát hiện được ở cung điện Mùa Đông đã khiến em kích động vô cùng.

Tuần trước, theo sự chỉ đạo của thầy, em và Misha đã đến thực tập tại viện khoa học viện nghiên cứu Đông Phương học, khi tra cứu và đọc những tài liệu nghiên cứu phức tạp này, Misha vô tình phát hiện ra một số tài liệu nghiên cứu mà Ivanovich Ivanov viết vào những thập niên 20, 30. Thầy đã biết rồi đấy, tìm kiếm tài liệu là việc làm khô khan và đau khổ, nhưng phần tài liệu nghiên cứu này của Ivanovich Ivanov lại khiến em và Misha vô cùng kích động và phấn khích. Trong phần tài liệu này, Ivanovich Ivanov có nhắc tới, vào cuối thập niên 20, ông vô tình phát hiện ra một báu vật đến từ vương triều Tây Hạ Trung Quốc trong cung điện Mùa Đông, tên gọi của báu vật này là “kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu”. Theo như Ivanovich Ivanov nói thì, kệ tranh ngọc này có khắc rất nhiều ký hiệu kỳ quái, Ivanovich Ivanov đã nghiên cứu kệ tranh ngọc này trong một thời gian dài, phán đoán những kí hiệu kỳ quái trên kệ tranh ngọc đó chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất từ lâu, và ông đã nhận diện được một số văn tự Tây Hạ trên bề mặt kệ tranh, rồi thông qua việc giải nghĩa những văn tự này, ông đã phát hiện ra một bí mật kinh hoàng ẩn giấu phía sau báu vật Tây Hạ đó. Đáng tiếc là sau đó Ivanovich Ivanov đã bị chết trong ngục nên ông đã không thể tiếp tục hoàn thành nghiên cứu của mình.

Đọc tới đây, em và Misha đã không thể chờ đợi thêm được nữa, hai chúng em lập tức lao tới cung điện Mùa Đông. Trong kho văn vật ngun ngút của cung điện Mùa Đông, rút cuộc chúng em cũng tìm thấy kệ tranh ngọc Tây Hạ đó. Khi em mở chiếc hộp gỗ tử đàn có đựng kệ tranh ngọc ra, em vô cùng kinh ngạc, đây là một báu vật tuyệt mỹ mà em chưa từng được chiêm ngưỡng, em không biết còn có thể dùng từ ngữ nào để hình dung cảm giác của em lúc đó. Kệ tranh ngọc được tạc thành từ cả tấm bạch ngọc Nephrite vùng Hòa Điền Tân Cương, khung kệ tranh ngọc có chạm khắc hai vòng hoa sen cuốn quanh, giữa hai vòng hoa sen lại chạm khắc một hàng châu báu. Em nhìn thấy những ký hiệu kỳ quái trên kệ tranh ngọc, đó có lẽ chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất từ lâu mà Ivanovich Ivanov từng nhắc đến. Tuy cả em và Misha đều không hiểu nổi một kí tự nào trên đó, nhưng hai chúng em đều cảm thấy những kí hiệu không ai hiểu đó đúng như Ivanovich Ivanov từng nói, nhất định chứa đựng một bí mật kinh khủng nào đó.

Em và Misha quyết định tiếp tục ở lại cung điện Mùa Đông nghiên cứu kệ tranh ngọc Tây Hạ này, và sẽ lấy chủ đề đó để viết luận văn. Em gửi kèm theo thư này hai bức ảnh của kệ tranh ngọc Tây Hạ, hy vọng nhận được sự giúp đỡ và chỉ đạo của thầy.

Chúc thầy mau chóng phục hồi sức khỏe!

Học sinh của thầy

Đọc xong bức thư thứ ba, tất cả mọi người trong mật thất đều im lặng, họ lại tiếp tục giở bức thư thứ tư ra.

5

Bức thứ tư là thư hồi âm của Alekseev cho Menshikov.

Lev N. Menshikov thân yêu:

Đang bệnh nhận được thư của em, thầy được an ủi rất nhiều. Không! Đúng ra phải nói là phấn khích, thư của em khiến thầy củng cố thêm lòng tin, thầy là người đã động viên em chọn lựa con đường nghiên cứu học thuật này. Thầy biết, với một thanh niên trẻ tuổi như em, cả ngày vùi đầu nghiên cứu trong đống hồ sơ, tài liệu, sách vở quả là rất khô khan, đặc biệt lại là nghiên cứu văn minh Phương Đông xa lắc và cổ xưa. Nhưng, chàng thanh niên, mong em hãy tin vào tầm nhìn của thầy, thầy không thể nhìn lầm em, em rất có thiên phú trong lĩnh vực này, chỉ cần em kiên trì, thầy tin rằng, sau này em nhất định sẽ thay thế thầy, vượt qua thầy.

Thầy rất vui mừng khi thấy em hứng thú với văn minh Tây Hạ. Em biết rồi đấy, nhờ phát hiện kinh động thế giới của Coats Ivanov về Hắc Thành tại Trung Quốc năm 1909, quốc gia chúng ta đã nắm giữ được một lượng lớn văn hiến, tài liệu, văn vật gốc về nghiên cứu lịch sử và văn hóa Tây Hạ, mà thậm chí là cả Trung Quốc, cố hương của nền văn minh này, cũng không thể có nhiều tài liệu gốc như vậy. Do đó, văn minh Tây Hạ tại Trung Quốc và cả nghiên cứu về Tây Hạ học đều đang ở chỗ chúng ta. Nhưng bất hạnh ở chỗ, kể từ sau khi Ivanovich Ivanov chết, nghiên cứu về văn minh Tây Hạ của chúng ta đã bị ngắt quãng, chúng ta hiện giờ đang vô cùng thiếu những học giả trẻ như em, tiến hành những nghiên cứu liên quan, rồi nhất định sẽ tới một ngày chúng ta có thể quảng bá Tây Hạ học.

Còn về báu vật em nhắc tới trong thư, từ những năm trước, Ivanovich Ivanov đã từng đề cập tới với thầy, nhưng sau đó cùng với sự ra đi của ông, báu vật này cũng dần bị người ta quên lãng, nếu không có sự nhắc nhở của em, có lẽ tới lúc chết thầy cũng không nhớ ra báu vật đó. Dựa vào kinh nghiệm lâu năm và trực giác của thầy, thầy có thể khẳng định với em rằng, nghiên cứu của em và Misha về kệ tranh ngọc Tây Hạ này rất quan trọng. Thông qua tường thuật của em trong thư, và cả hai bức ảnh đó nữa, thầy tin rằng ý nghĩa của kệ tranh ngọc Tây Hạ này vô cùng trọng đại. Thầy vẫn chưa biết nó ẩn giấu bí mật gì, nhưng thầy tin tưởng vào trình độ học thuật của Ivanovich Ivanov, bởi ông đã nhiều năm nghiên cứu báu vật này, mà đến khi chết vẫn lưu luyến không quên, nên nhất định là có phát hiện gì quan trọng về nó.

Viết tới đây thôi, hy vọng sẽ được gặp mặt nói chuyện với em và Misha, và để tận mắt nhìn thấy báu vật Tây Hạ đó. Cuối cùng, than vãn với em một câu, mùi bệnh viện thực là quá khó ngửi, bác sỹ ở đây cũng rất đáng ghét, nên rất mong sớm được ra viện để được công tác cùng các em.

Đúng rồi, thầy đột nhiên nhớ ra câu thơ, nếu như thầy nhớ không lầm, thì chắc là thế này: “Hắc Đầu Thạch Thất hoang thủy vực, xích diện phụ chủng bạch cao hà, trường di dược nhân quốc tại bỉ” (viết bằng tiếng Trung). Thập niên 30, cũng chính là trước khi Ivanovich Ivanov bị bắt, ông đã từng gửi một bức thư cho thầy. Trong thư, Ivanovich Ivanov vô cùng phấn khích, kể rằng ông đã có được bước đột phá trọng đại trong nghiên cứu Tây Hạ học, nhưng ông không nói là có được đột phá gì, mà chỉ viết mấy câu thơ không đầu không cuối này bằng chữ Hán ở cuối thư. Lúc đó thầy không hứng thú lắm với việc nghiên cứu về Tây Hạ, bởi vậy cũng không nghiên cứu sâu. Không ngờ, sau đó thì nghe tin Ivanovich Ivanov bị bắt giam, nên bức thư đó trở thành bức thư cuối cùng ông ấy viết cho thầy. Bởi vậy mấy năm sau đó, thầy thường lôi bức thư này ra đọc lại, rồi thời gian dài trôi qua, thầy cũng thuộc cả mấy câu thơ bằng tiếng Hán này, nhưng thầy vẫn không hiểu hàm ý của chúng. Sau đó, bức thư bị thất lạc trong chiến tranh vệ quốc, thật là đáng tiếc! Hy vọng mấy câu thơ này có thể hỗ trợ cho nghiên cứu của các em.

Vasily Mikhailovich Alekseev

Đọc xong bức thư này, Đường Phong nói: “Bức thư thứ ba và bức thư thứ tư cho thấy rõ, sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, kệ tranh ngọc Tây Hạ và tài liệu nghiên cứu của Ivanovich Ivanov đã lần nữa thu hút sự chú ý của Alekseev và Menshikov cùng những học giả Liên Xô khác. Họ chắc chắn đã tiến hành nghiên cứu và đạt được những thành quả xuất chúng về vấn đề này. Nhưng rút cuộc họ nghiên cứu cụ thể tới bước nào, chúng ta cũng không biết được, nên chỉ có thể từ ngôn ngữ trong hai bức thư này để tìm ra một số manh mối mà thôi.”

Giáo sư La Trung Bình đeo kính lão, nhìn hai bức thư đã được dịch ra này, trầm tư hồi lâu mới cất lời: “Quan trọng là phải xem Alekseev và Menshikov đã tìm thấy bao nhiêu tài liệu nghiên cứu của Ivanovich Ivanov. Vì từ nội dung trong thư mà phán đoán, cho tới nay Ivanovich Ivanov chắc là người tiếp cận gần nhất với chân tướng của bí mật. Bởi vậy, nếu như tài liệu nghiên cứu của Ivanovich Ivanov vẫn còn tồn tại, vậy thì, sẽ hỗ trợ rất lớn cho công tác nghiên cứu của nhóm Menshikov. Nhưng những năm 30 là thời kỳ vô cùng hỗn loạn, tài liệu nghiên cứu của rất nhiều học giả đều đã bị mất, tôi suy đoán, có lẽ Menshikov chỉ tìm thấy một phần tài liệu của Ivanovich Ivanov, còn về nghiên cứu sau này của họ, đạt được thành quả gì thì cũng không rõ nữa. Nhưng, mấy câu thơ đó…”

“Đúng vậy, mấy câu thơ đó nghĩa là gì nhỉ?” Đường Phong truy hỏi.

Giáo sư La lắc đầu, giải thích: “Theo như thói quen xưng hô của người Nga, ‘Misha’ rõ ràng không phải là tên thật của người đó, chỉ là tên gọi thân mật giữa những người bạn hoặc người thân với nhau, bởi vậy tôi cũng không thể phán đoán người này rút cuộc là ai, nhưng từ nội dung của hai bức thư có thể thấy, cái người Misha này chắc là bạn học của Menshikov, hai người họ đã cùng nhau phát hiện ra kệ tranh ngọc tại cung điện Mùa Đông…”

“Hay là ta xem luôn bức thư thứ năm đi!” Chưa kịp đợi giáo sư La nói xong, Lương Viện đã hấp tấp mở bức thư thứ năm ra.

6

Bức thứ năm, viết năm 1951, thư của Suslov (Mikhail Andreyevich Suslov), nhà lãnh đạo văn hóa chủ quản và tư tưởng Liên Xô viết cho Alekseev.

Đồng chí Mikhail Andreyevich Suslov thân mến:

Hôm trước, hai học sinh của ông đã tường thuật lại với tôi về thành quả nghiên cứu gần đây của họ. Mong ông lượng thứ, vì kiến thức về phương diện lịch sử, tôi biết rất ít, đặc biệt là về văn minh Đông Phương xa xôi, tôi càng chưa từng chuyên sâu nghiên cứu. Nhưng gần đây, Viễn Đông đang có những biến động hoàn toàn khác biệt, sự biến động này khiến chúng tôi cảm thấy vui mừng. Vì sự biến động này cũng chính là yêu cầu mà ông và học sinh của ông đề xuất - tới Trung Quốc để khảo sát thực địa.

Tuy tôi hoàn toàn có thể hiểu được tâm trạng nóng ruột muốn đến Trung Quốc để khảo sát của ông và học sinh, cũng có thể hiểu giá trị nghiên cứu khổng lồ bao hàm trong đó, nhưng, tôi rất lấy làm tiếc khi phải thông báo với ông rằng, đề nghị của ông và học sinh, hiện tại, ít nhất là thời gian tới vẫn không thể thực hiện được. Đây cũng là đáp án cuối cùng của trọng tâm vấn đề, tôi vô cùng xin lỗi!

Ông biết đấy, hiện tại Viễn Đông đang tiến hành một cuộc chiến tranh đáng sợ, kẻ thù của chúng ta và kẻ thù của chính quyền mới ở Trung Quốc đều đang cật lực ngăn chặn tiến trình giải phóng và kiến thiết Trung Quốc - nơi mà ông định đến. Ở đó cướp bóc hoành hành, điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt, càng có khả năng gặp phải sự phá hoại của thế lực đối địch nước ngoài. Bởi vậy, vì chúng tôi đã từng có trải nghiệm qua những kinh nghiệm về sự thận trọng, nên quyết định đình chỉ hoạt động khảo cổ của ông, dù chỉ là tạm thời, để đợi tới khi tình hình ổn định, điều kiện chín muồi, chúng tôi sẽ cân nhắc lại đề nghị của ông.

Chúc ông sớm phục hồi sức khỏe.

Mikhail Andreyevich Suslov

“Từ bức thư này có thể nhìn ra vấn đề, Alekseev và Menshikov cùng những người khác, vì muốn tiến thêm một bước bóc gỡ bí mật của kệ tranh ngọc, nên đã đề xuất với chính quyền việc muốn tới Trung Quốc để khảo sát thực địa. Từ đó, tôi suy đoán nghiên cứu của họ nhất định đã có rất nhiều tiến triển, bởi vậy mới nóng lòng tới Trung Quốc khảo sát đến thế. Và cũng từ bức thư này ta có thể nhận ra, chính quyền đã không đồng ý với yêu cầu của họ, ít nhất là tới năm 1951 cũng vẫn chưa đồng ý.” Đường Phong đọc xong thư lên tiếng trước.

Triệu Vĩnh tiếp lời: “Trong thư nhắc tới ‘Viễn Đông đang tiến hành một chiến tranh đáng sợ’, chắc là ám chỉ chiến tranh Triều Tiên, điều này phù hợp với niên đại trong thư, hơn nữa dải tây bắc lúc đó quả thực không ổn định, cân nhắc tới nhân tố an toàn, bởi vậy chính quyền Liên Xô đã cự tuyệt đề nghị của Alekseev và mọi người.”

“Khà khà, chính quyền cự tuyệt đề nghị của Alekseev và mọi người, tôi thấy không phải vì nhân tố an toàn gì cả, mà chủ yếu là do nghiên cứu của Alekseev và Menshikov vẫn chưa đánh động được những nhân vật lớn ở tầng cấp cao kia, vì trong tiền đề không đủ chứng cứ thì họ vốn sẽ không tin tưởng đề nghị của Alekseev và Menshikov, mà chỉ coi đó là sự hoang tưởng của những phần tử tri thức. Nhưng nếu như có đủ chứng cứ, để chính quyền tin tưởng, thì bắt buộc phải đi khảo sát thực địa, bởi vậy sự việc mới gác lại tại đây.” Giáo sư La Trung Bình phát biểu quan điểm của mình.

“Vậy sau đó, rút cuộc Alekseev có tới Trung Quốc không nhỉ?” Lương Viện hỏi giáo sư La.

Giáo sư La lắc đầu, thở dài: “Rất không may, không có sau này nữa, bởi vì năm đó Alekseev đã qua đời trong bệnh viện.”

“Á? Vậy sao?” Lương Viện giật mình.

Sau một hồi trầm ngâm, giáo sư La phá vỡ sự im lặng: “Chúng ta tiếp tục đọc bức thư thứ sáu đi, bức thư thứ sáu, cũng là bức quái dị nhất, thần bí nhất, dài nhất trong bảy bức thư.

7

Bức thư thứ sáu viết năm 1958, nhưng họ tên của cả người viết và người nhận thư đều bị che đi rồi.

(Phần xưng hô bị bôi đen):

Hôm trước, khi tới tham quan cung điện Mùa Đông và viện nghiên cứu Đông Phương học học viện khoa học Liên Xô tại Leningrad, em thấy rất nhiều văn vật cổ có xuất xứ từ khu vực tây bắc nước ta. Những văn vật này, phần lớn là thuộc thời đại đế quốc Nga, được những nhà thám hiểm người Nga khai quật và đánh cắp mang về, trong đó, có kinh thư thời nhà Đường lấy ra từ Động Tàng Kinh Đôn Hoàng, cũng có cả văn hiến Tây Hạ lấy ra từ Hắc Thành. Những văn vật quý báu này, trước đây rất ít người trong nước biết tới, nên em có thể được coi là người Trung Quốc đầu tiên đã nhìn thấy những văn vật quý báu này. Đây không biết nên gọi là hạnh phúc hay là bất hạnh nữa? Nếu suy nghĩ sâu xa thì đây là hạnh phúc của cá nhân em, nhưng lại là bất hạnh lớn của quốc gia, vì báu vật của Trung Quốc lưu lạc tha hương tới đất nước khác, người trong nước lại không hề hay biết, thì đúng là nỗi bất hạnh lớn của đất nước rồi!

Đặc biệt là những văn vật Tây Hạ quý báu đó, trước đây, đến cả người được mang danh là “học giả” như em cũng đều chưa từng nghe thấy, nên thế nhân càng không biết được trên đời này hóa ra còn có những báu vật như vậy. Tại cung điện Mùa Đông, các nhà nghiên cứu Liên Xô còn đặc biệt bày ra cho em xem một báu vật Tây Hạ, mà theo như họ nói thì báu vật này tên là “kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu”. Nhà nghiên cứu Liên Xô còn kể cho em nghe một số thành quả nghiên cứu của họ về kệ tranh ngọc. Tuy em không hoàn toàn hiểu hết, nhưng có thể nhận ra là Liên Xô vô cùng coi trọng kệ tranh ngọc Tây Hạ đó.

(Một dòng phía dưới bị bôi đen)

Hôm nay em tới Mátxcơva, khi quan chức cao cấp của phía Liên Xô đón tiếp em, họ đã chính thức đề xuất mong rằng họ có thể cử một đoàn thám hiểm tới khảo sát khu vực tây bắc Trung Quốc. Em cảm thấy việc này không hề đơn giản, mà rất có khả năng là liên quan tới kệ tranh ngọc Tây Hạ đó. Nhưng khi em hỏi thăm về nội dung khảo sát cụ thể thì bất luận là quan chức hay là các nhà nghiên cứu của Liên Xô đều úp úp mở mở, có gì đó khó nói phải giấu giếm…

(Hai dòng sau đó bị bôi đen)

(Dòng đầu bị bôi đen)

Theo ngu ý của em, để phía Liên Xô đơn độc thám hiểm là không thể, chỉ có tổ chức đội thám hiểm liên hợp, may ra việc này còn có thể…

(Mười dòng sau đó gần như bị xóa toàn bộ, không thể đọc được)

“Sao bức thư này lại loạn lên thế nhỉ? Đằng sau vẫn chưa viết xong, hơn nữa người gửi thư, người nhận thư cũng không biết là ai?” Lương Viện đọc xong bức thư liền hỏi ngay.

Giáo sư La nói: “Bởi vậy ông mới gọi bức thư này là thư của nhân vật bí ẩn. Trong thư không chỉ có những chỗ đề cập tới thân phận của người nhận thư đều đã bị bôi đen, mà còn cả rất nhiều nội dung khác cũng đã bị bôi đen.”

“Ông gọi người nhận thư là nhân vật bí ẩn, vậy người gửi thư thì sao? Hình như ông biết người đó là ai?” Đường Phong hỏi.

Giáo sư La lắc đầu, đáp: “Đường Phong, tôi không thể khẳng định người gửi thư đó là ai, nhưng từ giọng điệu và tường thuật trong thư mà phán đoán, người gửi thư và người nhận thư chắc là người Trung Quốc. Bức thư này khác với những bức kia, và người gửi thư này theo như tôi phán đoán, có lẽ là một học giả rất quan trọng của nước ta thời đó, địa vị của người này đồng thời cũng rất cao, nếu không thì phía Liên Xô sao lại đề xuất tới việc cử đoàn thám hiểm liên hợp với ông ta làm gì?”

“Ừm, giáo sư La nói có lý. Đây quả thực là một bức thư kỳ lạ, mà bức thư này vốn được viết bằng tiếng Trung sao?” Đường Phong lại hỏi giáo sư La.

“Không! Bức thư này không phải viết bằng tiếng Trung, mà cũng được viết bằng tiếng Nga.”

“Một học giả nổi tiếng của Trung Quốc mà lại dùng tiếng Nga viết thư cho một người Trung Quốc? Sao kỳ lạ vậy?” Đường Phong không khỏi kinh ngạc, nhân vật bí ẩn này rút cuộc là ai?

“Điều này ít nhất cũng cho thấy nhân vật nhận thư bí ẩn này cũng tinh thông tiếng Nga, chỉ có điều chúng ta không biết người nhận thư này là ai…”

Triệu Vĩnh ngắt lời giáo sư La: “Điều mà tôi quan tâm nhất là bức thư này đã bị ai bôi đen? Có xuất hiện điều gì kỳ lạ không? Là người gửi thư tự bôi đen hay người nhận thư bí ẩn bôi đen hoặc là người nào khác? Sao bức thư này lại rơi vào tay KGB?”

“Có lẽ bức thư này vốn không gửi đi, hoặc là người bôi đen bức thư chính là KGB.” Đường Phong phán đoán.

Triệu Vĩnh phản bác: “Đây đều là những hồ sơ tuyệt mật của KGB. Nếu đã liệt vào hồ sơ tuyệt mật như vậy, thì KGB không hà cớ gì phải bôi đen vài chỗ trong bức thư như vậy, nếu như thật sự không yên tâm, thì họ chắc chắn sẽ chọn cách tiêu hủy nó đi rồi.”

Đường Phong không còn lời nào để nói lại, lúc này, Lương Viện lại nóng vội hỏi: “Các anh đừng có tranh luận nữa, sau đó thì sao?”

“Sau đó? Sau đó thì có đội thám hiểm liên hợp giống như cơn ác mộng đó!” Giáo sư La rầu rĩ nói.

8

Bức thứ bảy, thư của chủ tịch KGB Shelepin (Alexander Nikolayevich Shelepin) gửi cho Sakharov (Victor Mikhailovich Sakharov), bộ trưởng đầu tiên của KGB (Bức thư này không có thời gian cụ thể)

Đồng chí Mikhailovich Sakharov:

Sự thất bại của hành động “Hắc Thành” đã khiến chúng ta tổn thất rất nhiều đồng chí ưu tú, vì vậy tôi rất tiếc khi phải thông báo với anh rằng, chúng ta phải lập tức dừng ngay hành động lần này lại.

Người đảng viên cộng sản chúng ta đều không tin vào thần thánh, càng không thể tin tưởng vào bất cứ truyền thuyết thần ma quỷ quái nào, nhưng lần này trong sa mạc tại tây bắc Trung Quốc, những điều ly kỳ đáng sợ mà đội thám hiểm gặp phải đã khiến tôi không thể giải thích được bằng bất cứ cách nào; cũng có thể là đã có sự phá hoại của thế lực thù địch nước ngoài, nhưng ở phương diện này, chúng ta cũng không có chứng cứ xác thực. Vật báu ẩn giấu bí mật của vương triều Tây Hạ đến từ Trung Quốc đó, tôi nghĩ chỉ có thể để lại cho thế hệ sau thám hiểm nghiên cứu mà thôi, còn tôi và anh cùng thế hệ chúng ta khả năng không còn cơ hội để bóc trần những bí mật trong đó nữa.

Dưới đây là mệnh lệnh của tôi:

1. Lập tức chấm dứt hành động “Hắc Thành”, điều toàn bộ thành viên của chúng ta về, bao gồm các nhà khoa học của các chuyên ngành, nhân viên đặc công, quân nhân. Đồng thời, việc điều tra liên quan tới nguyên nhân thất bại của lần hành động này, cùng kế hoạch tìm kiếm thành viên mất tích cũng dừng lại.

2. Toàn bộ thành viên tham gia hành động lần này, bao gồm các nhà khoa học, nhân viên đặc công, quân nhân, bất luận họ biết được bao nhiêu vấn đề có liên quan đến hành động lần này, nhất loạt yêu cầu họ phải kí cam kết bảo mật, cam kết vĩnh viễn không được tiết lộ bất cứ bí mật nào liên quan tới hành động “Hắc Thành”, nếu không họ sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc nhất.

3. Với mấy vị chuyên gia biết rõ nhất về sự tình cung điện Mùa Đông và viện nghiên cứu Đông Phương của Học viện khoa học, anh hãy sắp xếp một thời gian thích hợp, tôi muốn gặp mặt họ nói chuyện.

4. Tiêu hủy toàn bộ văn kiện liên quan tới hành động “Hắc Thành”, việc này phải do anh đích thân thực thi.

5. Còn về vật báu đến từ vương triều Tây Hạ Trung Quốc, cũng do anh tìm kiếm nơi nào an toàn nhất để cất giữ. Ghi nhớ là: cất giữ vĩnh viễn! Nếu không được tổng bộ cho phép, thì tuyệt đối không được để vật này lộ diện, nếu như một ngày nào đó vật này xuất hiện trở lại, nhất định sẽ dẫn tới một sự hỗn loạn đáng sợ mới, điều đó tôi không hy vọng nhìn thấy.

6. Với những thành viên may mắn sống sót, cố gắng hết sức cấp cứu, còn về sắp xếp sau này cho họ, tôi sẽ cân nhắc tiếp.

Như vậy đi, tổng cộng là 6 điểm, mong anh nhớ kĩ và nghiêm túc thi hành. Bởi cấp độ bảo mật của hành động “Hắc Thành” rất cao, sẽ không tiếp tục phát tài liệu liên quan, thư này đọc xong, lập tức phải tiêu hủy.

Shelepin

“Từ bức thư của Shelepin, chúng ta có thể biết được rằng KGB đã gọi cuộc thám hiểm lần đó là hành động “Hắc Thành”, hơn nữa trong thư ông ta cũng đã nói rất rõ, hành động cuối cùng đã thất bại, cũng có nghĩa là họ đã không tìm ra được bí mật chôn giấu trong kệ tranh ngọc.” Giáo sư La phân tích.

Đường Phong tiếp lời: “Như vậy, đối chiếu với tình hình mà Lương lão tiên sinh nói, Lương Vân Kiệt là phiên dịch tiếng Nga của đội thám hiểm, cũng tham gia vào chuyến thám hiểm đó, kết quả đội thám hiểm đã gặp nạn tại sa mạc Badain Jaran, gần như toàn quân tan tác. Lương lão tiên sinh là người duy nhất của phía Trung Quốc may mắn sống sót.”

Giáo sư La Trung Bình gật gù: “Đúng vậy, tôi cũng là người nắm được tình hình của chuyến thám hiểm đó, lần đó xém chút nữa tôi cũng được chọn để tham gia vào đoàn thám hiểm. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ, khi danh sách của đoàn thám hiểm được công bố, tôi đã buồn bã đến nhường nào, còn mấy thanh niên được chọn mà tôi quen thì đã hưng phấn vô cùng, nhưng, sau đó…” Giáo sư La gần như chìm trong hồi ức, mãi một lúc sau, ông mới tiếp tục kể: “Sau khi đoàn thám hiểm gặp nạn, tôi ngày càng hứng thú với lịch sử Tây Hạ. Tôi càng quyết tâm hoàn thành cho được tâm nguyện vẫn còn dang dở của đoàn thám hiểm. Bởi vậy, bao năm qua tôi đã nhiều lần thâm nhập vào sa mạc Badain Jaran, Hạ Lan Sơn, Sa mạc Tengger, vùng phía Tây Xuyên và nhiều nơi khác để khảo sát, tìm kiếm văn minh Tây Hạ đã mất tích.”

“Bao nhiêu năm kiên trì như vậy, ngài đã trở thành đại gia về văn hóa lịch sử Tây Hạ rồi.” Đường Phong nói.

Giáo sư La hất hất tay: “Bởi vậy tôi thường nghĩ, năm đó bị rớt khỏi đoàn thám hiểm, là sự may mắn của tôi? Hay là không may? Câu hỏi này tới tận giờ tôi vẫn chưa trả lời được.”

“Nhưng tôi vẫn chưa hiểu là trong thư, Shelepin đã ra lệnh tiêu hủy tất cả những văn kiện liên quan, vậy tại sao hôm nay chúng ta vẫn có thể đọc được bảy bức thư tuyệt mật này? Còn cả mệnh lệnh cất giữ vĩnh viễn báu vật Tây Hạ của ông ấy, báu vật đó chắc là kệ tranh ngọc. Nếu như kệ tranh ngọc bị cất giấu vĩnh viễn, thì tại sao giờ đây nó lại lộ diện?” Câu hỏi của Lương Viện lại khiến mọi người chìm trong suy tư.

“Văn kiện có khả năng lọt ra ngoài ra từ nội bộ KGB. Sau khi Liên Xô tan rã, KGB bị giải tán, rất nhiều văn kiện vốn là tài liệu cơ mật của KGB bị thất lạc. Còn về việc kệ tranh ngọc tại sao lại xuất hiện, tôi không biết, cũng có khả năng giống như đống tài liệu này bị thất thoát ra từ KGB vậy, cũng có khả năng là từ con đường khác nào đó.” Hàn Giang vốn trầm tư từ đầu tới giờ bỗng phát biểu suy đoán của mình.

“Ừm, tôi hoàn toàn đồng ý với phán đoán của đội trưởng, nhưng, còn có một nghi vấn lớn nhất, đó là từ nội dung của bảy bức thư này có thể nhận thấy, chắc chắn là các học giả Liên Xô thông qua việc nghiên cứu kệ tranh ngọc đã thu được những manh mối rất quan trọng, bởi vậy mới có thể thuyết phục được các lãnh đạo cấp cao đồng ý cho họ tới Trung Quốc khảo sát. Vậy rút cuộc họ đã phát hiện ra điều gì trên kệ tranh ngọc?” Đường Phong nói ra nghi vấn trọng tâm.

“Không sai, đúng như Đường Phong nói, nhất định mấy vị học giả Liên Xô đó đã phát hiện ra điều gì trên kệ tranh ngọc, hiện tại kệ tranh ngọc này đang ở trong tay chúng ta, chúng ta cũng phải nhanh chóng tìm hiểu kệ tranh ngọc này để hóa giải bí mật bao trùm lên nó, dĩ nhiên, phải trông cậy vào những nghiên cứu của giáo sư La rồi.”

Mọi người cùng đổ dồn ánh mắt hy vọng về phía giáo sư La. Giáo sư La cười khan hai tiếng, nói: “Các bạn đừng nhìn tôi như thế, kệ tranh ngọc trải qua bao nhiêu năm như vậy, những kí hiệu trên bề mặt... ồ, chính là những văn tự Tây Hạ mà Đường Phong nói, đã loang lổ không nhìn rõ nữa rồi. Hiện giờ tôi đang điều chế một loại chất lỏng đặc biệt, các bạn muốn nhìn rõ những văn tự Tây Hạ trên kệ tranh ngọc này thì hãy chờ thêm một thời gian nữa; còn sau khi xử lý xong xuôi, có thể giải mã được những văn tự Tây Hạ để tìm ra bí mật của kệ tranh ngọc này hay không, thì còn phải xem vận may của chúng ta nữa.”

Đường Phong nghe xong những lời của giáo sư La liền quay lại nhìn nhìn Hàn Giang, trong lòng hai người không hẹn mà gặp cùng nảy sinh một suy nghĩ kỳ lạ: ta đã tiếp cận được chân tướng của bí mật, hay là đang càng lúc càng xa rời bí mật đó đây?
 

hoahongden12

Active Member
Tử Thư Tây Hạ
Quyển 1 - Chương 6: Tứ Bình

1

Một tuần sau, Đường Phong, Lương Viện, Hàn Giang, Triệu Vĩnh và giáo sư La lại tập hợp trong mật thất của ngôi nhà nhỏ. Tấm kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ đang nằm ngay ngắn trên chiếc bàn trước mặt họ… Giáo sư La Trung Bình sau một tuần đóng cửa nghiên cứu, đã cơ bản giải mã được những kí hiệu bí ẩn trên bề mặt kệ tranh ngọc.

Giáo sư La phát cho mọi người bốn bản in thác bản của bề mặt kệ tranh ngọc, ông giới thiệu: “Từ bảy văn kiện tuyệt mật đó, chúng ta đã biết được năm đó Ivanovich Ivanov đã phát hiện ra một số kí hiệu bí ẩn trên bề mặt kệ tranh ngọc. Ivanovich Ivanov, Alekseev và Menshikov đều cho rằng, những kí hiệu bí ẩn này chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất nhiều năm qua, và họ đã tiến hành một số công việc dịch nghĩa. Nhưng kệ tranh ngọc mà Đường Phong mang về này, do năm tháng bào mòn, cộng thêm điều kiện bảo tồn sau này không tốt, nên những kí hiệu bí ẩn trên bề mặt đó giờ đều bị cáu bẩn, mờ nét, bản in thác bản mà mọi người đang nhìn thấy là do tôi dùng một loại chất lỏng đặc biệt để lau rửa, kệ tranh ngọc sau khi được rửa sạch sẽ thì mới tiến hành lấy thác bản, nên bản in thác bản giờ cũng khá là rõ ràng rồi. Văn tự Tây Hạ là một loại văn tự chết, hiện nay ở nước ta, thậm chí là trên toàn thế giới, số người có thể đọc hiểu được văn tự Tây Hạ không vượt quá 20 người. Tôi tuy bất tài, nhưng đã bao năm học hành nghiên cứu văn tự Tây Hạ, bởi vậy cũng may mắn nhận biết được một vài văn tự Tây Hạ.” Giáo sư La nói.

Lương Viện hiếu kỳ ngắt lời giáo sư La: “Giáo sư đừng giảng bài cho chúng cháu nữa, nếu giáo sư có thể đọc hiểu thì mau mau nói cho mọi người biết, những văn tự Tây Hạ trên đó nghĩa là gì đi ạ?”

Giáo sư La cười nói: “Viện Viện, cháu đừng nóng vội, nếu muốn phá giải bí mật ẩn giấu trong kệ tranh ngọc Tây Hạ, mọi người ở đây vẫn bắt buộc phải nghe ông lải nhải. Không nói để các bạn đọc hiểu được văn tự Tây Hạ, thì ít nhất cũng phải để các bạn đại khái hiểu được văn hóa lịch sử Tây Hạ; có như vậy các bạn mới có thể hiểu rõ được giá trị và văn hóa ẩn chứa bên trong kệ tranh ngọc này, bởi vậy ông phải giảng bài cho mọi người trước đã.”

“Giảng bài? Cháu vừa mới tốt nghiệp từ Mỹ về, đến đây lại phải lên lớp sao?” Lương Viện tỏ ra nhụt chí.

Hàn Giang nghiêm mặt nói với mọi người: “Trên phương diện học thuật, giáo sư La là chuyên gia, chúng ta đều là học sinh, hơn nữa còn là học sinh tiểu học, bởi vậy bắt buộc phải nghe giáo sư La giảng bài cho chúng ta trước đã. Còn riêng Đường Phong, về phương diện này dĩ nhiên không phải là học sinh tiểu học, nhưng tôi có yêu cầu cao hơn với anh, nên anh lại càng phải chăm chú nghe giảng hơn chúng tôi, chăm học hơn chúng tôi.”

Những lời Hàn Giang nói khiến Đường Phong cảm thấy áp lực tăng lên gấp đôi. Anh bắt đầu hiểu ra tác dụng và giá trị của mình trong đội ngũ này, nhưng lúc này anh cũng không thể biết mình có khả năng đáp ứng được yêu cầu của Hàn Giang hay không, đặc biệt là việc đọc hiểu văn tự Tây Hạ đã thất truyền.

2

Giáo sư La bật máy chiếu lên, trên màn hình máy chiếu xuất hiện một ngọn núi tuyết nguy nga, dưới núi tuyết là rừng cây um tùm hun hút, đang có một đám người quấn trên người những tấm da thú đang đuổi bắt dã thú, hoàn toàn là cảnh tượng của một xã hội nguyên thủy. Tiếp đó, giáo sư La bắt đầu bài giảng của ông: “Người Đảng Hạng kiến lập vương triều Tây Hạ, từng là một chi của người Khương cổ. Vào thời viễn cổ, người Khương cổ sinh sống tại đông bắc cao nguyên Thanh Tạng, tại đây họ đã sáng tạo ra văn hóa Tây Khương. Người Đảng Hạng chính là một chi trong bộ lạc Tây Khương. Vào khoảng thế kỷ thứ tư, người Đảng Hạng bắt đầu bước lên vũ đài lịch sử Trung Quốc. Kể từ đó, người Đảng Hạng đã không ngừng nghỉ tiến những bước tiến di chuyển của họ. Vào thời kỳ cuối Nam Bắc triều, người Đảng Hạng bắt đầu hoạt động tại thượng lưu sông Hoàng Hà và khu vực bắc Tứ Xuyên, cũng chính là vùng đông nam tỉnh Thanh Hải và dải Tùng Phan, Hắc Thủy, Bắc Xuyên, Mậu Huyện của Tứ Xuyên. Trong ‘Tùy thư - Đảng Hạng truyền’ có ghi chép lại: Đảng Hạng lấy thị tộc để phân chia bộ lạc, họ lớn thì hơn năm vạn người, họ nhỏ thì hơn nghìn người. ‘Tục thượng vũ lực, vô pháp lệnh, các vi sinh nghiệp, hữu chiến trận tắc tương đồn tụ, vô dao phú, bất tương vãng lai. Mục dưỡng ngưu, dương, trư dĩ cộng thực, bất tri giá sắc’. Người Đảng Hạng lúc đó chủ yếu sống bằng chăn nuôi gia súc, săn bắt, vẫn còn chưa biết sản xuất nông nghiệp, thuộc thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy. Sau này, Đảng Hạng Khương dần dần phát triển thành tám bộ lạc lớn là: thị tộc Tế Phong, thị tộc Phí Thính, thị tộc Vãng Lợi, thị tộc Pha Siêu, thị tộc Dã Từ, thị tộc Phòng Đương, thị tộc Mễ Cầm, thị tộc Thác Bạt, trong đó thực lực của bộ lạc Thác Bạt là mạnh nhất.”

“Vậy thì, cái từ ‘Đảng Hạng’ này từ đâu mà có vậy?” Lương Viện lại tò mò hỏi.

Giáo sư La giải thích: “Cái tên ‘Đảng Hạng’ này là kết quả của dịch âm sang tiếng Hán, khả năng lớn là dân tộc Hán cổ đã vay mượn cách gọi Đảng Hạng của một vài dân tộc thiểu số khác ở Tây Bắc, ví dụ như người Mông Cổ gọi người Đảng Hạng là ‘Đường Cổ Đặc’ hoặc ‘Đường Ngột Thích’. Hầu hết các điển tịch tiếng Hán cũng tiếp tục dùng cách xưng hô này. Trong lúc đó, người Đảng Hạng lại tự gọi mình là ‘Miến Dược’ hoặc ‘Nhĩ Dược’, cách xưng hô này gần giống với cách gọi người Đảng Hạng của người Tạng. Trong văn hiến của dân tộc Tạng cổ, người Tạng gọi người Đảng Hạng trong thời kỳ Thổ Phiên di cư tới vùng Đông Bắc cao nguyên Thanh Tạng là Nhĩ Dược.”

“Cũng có nghĩa là người Đảng Hạng thời kỳ này đã từ phía tây Tứ Xuyên di chuyển tới vành đai hồ Thanh Hải?” Đường Phong truy hỏi.

“Đúng vậy, nhưng thời kỳ này, trên cao nguyên Thanh Tạng, một vương triều khác là Thổ Phiên cũng phát triển, mở rộng ra bên ngoài. Để trốn tránh sự xâm lược và nô dịch của Thổ Phiên, các bộ lạc Đảng Hạng đã lần lượt di chuyển về một vương triều mới nổi lên - Đại Đường. Triều Đường đã tiếp nạp họ, người Đảng Hạng liền di chuyển tới khu vực hành lang Hà Tây và khu vực Cam Nam. Sau loạn An Sử[5] người Đảng Hạng lại di chuyển tới dải Thiểm Bắc, Hà Sáo, và từ đó định cư lại tại đây.”

Đường Phong tiếp lời giáo sư La: “Phần lịch sử sau đó tôi đã biết rồi.”

“Vậy thì sau đây sẽ tới lượt cậu nói nhé.” Giáo sư La đang muốn thử Đường Phong.

Đường Phong tiếp tục phần giới thiệu của giáo sư La: “Sau khi người Đảng Hạng định cư tại khu vực Thiểm Bắc, Hà Sáo, họ đã phát triển rất nhanh chóng và lớn mạnh. Những năm cuối thời Đường, thiên hạ đại loạn, từng nhóm người lớn mạnh khởi nghĩa, lãnh tụ kiệt xuất Thác Bạt Tư Cung của người Đảng Hạng đã dẫn dắt người Đảng Hạng không ngừng mở rộng thực lực của bộ tộc, và đã lập đại công trong việc trấn áp khởi nghĩa Hoàng Sào, được triều Đường phong làm Định Nan quân tiết độ sứ, phong tước Hạ quốc công và ban tặng họ “Nguy Danh”. Bởi vậy trong sử sách cũng gọi hoàng tộc Tây Hạ là họ Ngôi Danh. Kể từ đó, người Đảng Hạng từng bước chiếm hữu vùng đất của 5 châu gồm: Ngân Châu, Hạ Châu, Hựu Châu, Tuy Châu, Tịnh Châu, trở thành chư hầu một phương. Sau khi triều Tống được thiết lập, triều đình thực thi chính sách bóc lột, thời Tống Thái Tông, hậu duệ của Thác Bạt Tư Cung là Ngôi Danh Kế Bổng tiếp tục kế nhiệm chức Định Nan quân tiết độ sứ. Không lâu sau, nội bộ quý tộc Đảng Hạng phát sinh đấu đá tranh giành quyền lực, triều Tống nhân cơ hội dụ dỗ Ngôi Danh Kế Bổng dẫn dắt tộc người đầu hàng, thuận theo triều Tống và dâng tặng vùng đất 5 châu: Ngân Châu, Hạ Châu, Hựu Châu, Tuy Châu, Tịnh Châu. Kể từ đó, nội bộ dân tộc Đảng Hạng phân tách và đứng trước nguy cơ suy vong. Lúc này, trong những người Đảng Hạng không muốn thuận theo triều Tống, có một người đứng lên kêu gọi, dẫn lĩnh tộc người tháo chạy tới Địa Cân Trạch, cách đông bắc Hạ Châu 300 lý (khoảng 150km), tự xưng vương, chống lại triều Tống. Người này chính là người đặt nền móng cho vương triều Tây Hạ - Thác Bạt Kế Thiên.

Hơn 20 năm sau đó, người Đảng Hạ dưới sự lãnh đạo của Thác Bạt Kế Thiên, đã mở mang bờ cõi, chinh phạt bốn bề, mở rộng lãnh thổ, khai phá vùng sa mạc rộng lớn, không chỉ lấy lại lãnh thổ 5 châu đã mất, mà còn công chiếm trấn địa trọng điểm của tây bắc bấy giờ là Linh Châu. Đến thời kỳ con trai của Thác Bạt Kế Thiên, là Thác Bạt Đức Minh cầm quyền, người Đảng Hạng một mặt xoay xở với hai cường quốc Tống, Liêu, một mặt chinh chiến với Thổ Phiên, Hồi Cốt, mở rộng về hướng tây, khống chế huyết mạch trên con đường tơ lụa - vành đai Hà Tây, từng bước thiết lập bờ cõi của nước Tây Hạ sau này, đồng thời xây dựng đô thành của vương triều Tây Hạ dưới chân núi Hạ Lan, đặt tên là Hưng Khánh Phủ.

Năm 1038, con trai của Thác Bạt Đức Minh là Nguyên Hạo, trải qua một thời gian dài chuẩn bị, từ bỏ họ tên mà hoàng đế nhà Tống ban tặng, tự xưng là họ Ngôi Danh, chính thức xưng đế, kiến lập nên vương triều của người Đảng Hạng, lấy quốc hiệu Đại Hạ, người đời sau thường gọi vương triều này là “Tây Hạ”. Vào thời kỳ huy hoàng nhất của vương triều Tây Hạ, Hoàng Hà được coi là ranh giới phía đông, phía tây kéo dài mãi đến Tây vực, khống chế con đường tơ lụa, phía nam đối đầu với Túc Quan, phía bắc dựa vào đại sa mạc, diện tích hơn cả ngàn dặm, bao gồm Ninh Hạ, toàn bộ Cam Túc và Thiểm Tây, Nội Mông Cổ, Thanh Hải, một phần địa phận của Tân Cương ngày nay. Nguyên Hạo sau khi xưng đế, đã xây dựng bộ điển chương chế độ hoàn chỉnh, còn sáng tạo ra một hệ thống cả văn tự Tây Hạ độc đáo nữa.”

3

Giáo sư La nghe Đường Phong tường thuật xong, mỉm cười nói: “Đường Phong, lịch sử Tây Hạ mà cậu vừa nói rất chính xác, vì cậu đã nhắc đến Nguyên Hạo sáng lập ra văn tự Tây Hạ, vậy tiếp theo tôi sẽ nói về văn tự Tây Hạ đã thất truyền.” Giáo sư La bấm nút điều khiển, một số ký tự kỳ lạ liền hiện ra trên màn hình máy chiếu, rồi ông tiếp giảng giải với mọi người: “Những ký tự đặc biệt trên màn hình máy chiếu này chính là văn tự Tây Hạ. Trước khi Nguyên Hạo xưng đế, dân tộc Đảng Hạng vốn không có văn tự riêng. Những năm đầu, khi người Đảng Hạng còn sống du mục trên vùng cao nguyên Thanh Tạng, do ngôn ngữ Đảng Hạng gần gũi với Tạng ngữ, nên họ đã vay mượn chữ cái của Tạng văn để phiên âm ngôn ngữ của mình. Sự sáng tạo ra chữ viết Tây Hạ đã đánh dấu cho một bước phát triển mới, lên một mình độ cao hơn của văn minh dân tộc Đảng Hạng. “Tống sử” ghi: “Nguyên Hạo tự chế phiên thư, mệnh Dã Lợi Nhậm Vinh diễn dịch chi, thành thập lưỡng quyển, tự hình thể phương chỉnh loại bát phân, nhi họa pha trùng phục. Giáo quốc nhân kỷ sự dụng phồn thư, nhi dịch ‘Hiếu kinh’, ‘Nhĩ Nhã’, ‘Tứ ngôn tạp tự vi phồn ngữ’.” Thẩm Khoát người Tống thì viết trong “Mộng khê bút đàm”: “Nguyên Hạo quả bản, kỳ đồ ngẫu khuất tiên sáng tạo phiên thư, độc cục nhất lầu thượng, lũy niên phương thành, chí thị hiến chi.” Trong hai đoạn văn ghi chép này, đã nói rằng, trước khi Nguyên Hạo kiến lập vương triều Tây Hạ, đã ra lệnh cho đại thần thuộc hạ Dã Lợi Nhậm Vinh sáng tạo ra văn tự Tây Hạ, lệnh cho nhân dân trong trước sử dụng loại chữ mới này. Nguyên Hạo còn phiên dịch rất nhiều điển tịch Hán văn thành chữ Tây Hạ. Thực ra, theo ý kiến của tôi, văn tự Tây Hạ vốn không phải do cá nhân nào sáng tạo ra, mà là được từng bước hình thành trong dân gian, cuối cùng được Dã Lợi Nhậm Vinh sưu tầm thu thập chỉnh sửa mà thành.” Giáo sư La giới thiệu liền một mạch sự ra đời và hoàn thiện của văn tự Tây Hạ.

Lương Viện nhìn chằm chằm vào những văn tự Tây Hạ kỳ quái trên màn hình máy chiếu, đột nhiên hỏi: “Giáo sư, sao cháu thấy mấy văn tự Tây Hạ này hơi giống tiếng Hán nhỉ, nhưng cháu chẳng hiểu được chữ nào cả.”

“Khà khà! Viện Viện, cháu quan sát khá lắm, văn tự Tây Hạ chính là Hán tự vay mượn, biến đổi mà thành. Các bạn xem, văn tự Tây Hạ, về kết cấu rất giống Hán tự. Cũng giống như chữ ô vuông, do nét chấm, ngang, sổ, mác, hất, quai, móc câu… tạo thành, đến cả thể chữ cũng giống như Hán tự, có 5 loại thể chữ: Khải, Hành, Thảo, Triện, Lệ. Những người lần đầu nhìn thấy văn tự Tây Hạ đều nhầm rằng đây là chữ Hán, thực ra đây hoàn toàn là một loại văn tự khác. Cho tới nay, tổng cộng đã phát hiện ra hơn 5000 chữ trong văn tự Tây Hạ, tuy giống chữ Hán, nhưng không có bất cứ một chữ nào tương đồng với chữ Hán. Điều này đã phản ánh ý thức dân tộc mạnh mẽ của người Đảng Hạng. Chúng ta xem lại mấy văn tự Tây Hạ này nhé, nét nhiều nhưng rời rạc, nhiều nét nghiêng, đặc biệt là nét phẩy, nét mác, bởi vậy mới có sách lịch sử viết về văn tự Tây Hạ là ‘loại phù triện’, ý nói là nét chữ Tây Hạ nhiều mà rời rạc, mù mờ khó hiểu. Bởi vậy, sau khi Tây Hạ diệt vong, văn tự Tây Hạ nhanh chóng biến mất, chôn vùi trong tai họa rình rập.

Sau khi Tây Hạ bị người Mông Cổ tiêu diệt, văn tự Tây Hạ cũng nhanh chóng biến mất trong dòng chảy lịch sử, mấy trăm năm sau không ai hay biết. Mãi cho đến những năm Gia Khánh triều Thanh, một học giả người Cam Túc là Trương Tấu trở về quê dưỡng bệnh, khi đến một ngôi miếu ở Vũ Uy, phát hiện thấy một căn phòng nhỏ đóng kín, ông hỏi một nhà sư ở đó là: “Trong phòng có vật gì?” Nhà sư nói: “Trong phòng là một tấm bia, tấm bia này rất quái dị, e rằng là yêu nghiệt, bởi vậy mới để trong phòng đóng kín cửa.” Trương Tấu bao năm làm quan bên ngoài, nghe nhiều biết nhiều, không tin vào truyền thuyết ma quỷ nên đã yêu cầu nhà sư mở cửa phòng để xem thử là yêu nghiệt gì. Nhà sư không còn cách nào khác, đành phải mở cửa phòng cho Trương Tấu vào. Trương Tấu phát hiện trong phòng quả nhiên có một tấm bia, chữ trên tấm bia là những văn tự mà một đại học giả như ông chưa từng được biết đến, Trương Tấu lúc đó kinh ngạc thất sắc. Khi ông cẩn thận rón rén đi vòng ra sau tấm bia thì phát hiện ra mặt sau tấm bia có khắc chữ Hán, số chữ nhiều gần bằng chữ ở mặt trước. Trương Tấu bấy giờ mới hốt hoảng hiểu ra, hóa ra văn tự ở mặt trước chính là văn tự Tây Hạ đã biến mất! Tấm bia này chính là “Lương Châu trùng tu Hộ Quốc Tự cảm ứng tháp bia”[6] rất nổi tiếng, hiện vẫn bảo tồn trong viện bảo tàng tại thành phố Vũ Uy.

Kể từ đó về sau, văn tự Tây Hạ dần dần được giới học thuật coi trọng. Năm 1909, nhà thám hiểm người Nga Kozlov tại di chỉ Hắc Thủy Thành thuộc lãnh thổ Ejinaqi đã đào trộm một lượng lớn văn hiến có viết văn tự Tây Hạ trên đó. Kozlov vận chuyển tất cả những văn hiến Tây Hạ này tới Petersburg, nhà Hán học nước Nga Ivanovich Ivanov đã phát hiện ra cuốn “Phiên Hán hợp thời chưởng trung châu” nổi tiếng trong văn hiến Tây Hạ được Kozlov chuyển về. Đây là một cuốn từ điển song ngữ tiếng Tây Hạ và tiếng Hán, do học giả Tây Hạ là Cốt Lạc Mậu Tài biên soạn. Ivanovich Ivanov nhờ có cuốn từ điển này đã đọc hiểu không ít văn hiến Tây Hạ cổ xưa. Ở nước ta, người bắt đầu nghiên cứu một cách hệ thống văn tự Tây Hạ là hai cha con học giả nổi tiếng La Chấn Ngọc và La Phúc Trường. Năm 1913, hai cha con La Chấn Ngọc và La Phúc Trường có được một phần của “Phiên Hán hợp thời chưởng trung châu” từ chỗ Ivanovich Ivanov. Trải qua nhiều năm nghiên cứu, La Phúc Trường đã dùng “Sáu phương pháp tạo nên chữ Hán truyền thống” là: tượng hình, chỉ sự, hình thanh, hội ý, giả tá, chuyển chú để phân tích văn tự Tây Hạ, giúp mọi người nâng cao rõ rệt kiến thức về cấu tạo văn tự Tây Hạ. Sau đó, ngày càng có nhiều học giả nghiên cứu văn tự Tây Hạ, nhưng do văn tự Tây Hạ biến mất đã nhiều năm nên đã không còn giá trị thực tế, cộng thêm nét chữ của văn tự Tây Hạ nhiều mà rời rạc, mù mờ khó hiểu, thế nên cho tới tận ngày nay, số học giả có thể nắm vững văn tự Tây Hạ chỉ còn lại thưa thớt vài người.”

4

Chính trong lúc mọi người đang rất đỗi ngạc nhiên về văn tự Tây Hạ cổ xưa thì Hàn Giang lại nhìn chằm chằm kệ tranh ngọc trước mặt, không nói một lời. Bề mặt kệ tranh ngọc này rút cuộc khắc nội dung gì? Có thực sự ly kỳ đáng sợ như vậy không? Bao nhiêu người vì nó mà mất mạng, huyết chú đáng sợ!… Văn tự trên kệ tranh ngọc, anh không hiểu nổi một chữ, thật là một cuốn thiên thư, không! Phải nói là tử thư! Nghĩ tới đây, Hàn Giang đột nhiên lên tiếng: “Giáo sư, vậy thì tiếp theo chúng ta sẽ giải thích nội dung của tử thư bí ẩn trên kệ tranh ngọc nhé.”

“Tử thư?” Mọi người nghe thấy từ này thốt ra từ miệng Hàn Giang đều rất đỗi sợ hãi. Giáo sư La cũng hơi sững sờ, liền cười đáp: “Không sai, đội trưởng Hàn nói không sai, đây quả thực là một cuốn tử thư.”

“Tử thư! Lẽ nào giáo sư cũng không biết sao?” Đường Phong ngạc nhiên hỏi.

Giáo sư La trầm ngâm hồi lâu, đáp: “Tôi vừa nói ban nãy rồi đấy, văn tự Tây Hạ giống như chữ Hán, có năm thể thư: Khải, Hành, Thảo, Triện, Lệ. Cho tới nay, tôi đã từng nhìn thấy bốn thể chữ Khải, Hành, Thảo, Triện trong văn tự Tây Hạ, chỉ có duy nhất thể chữ Lệ là chưa từng thấy trong văn tự Tây Hạ. Còn văn tự trên kệ tranh ngọc này, từ kinh nghiệm bao năm qua của tôi cho thấy, chúng vừa không phải là thể chữ Khải Tây Hạ, cũng không phải là thể chữ Hành Tây Hạ, càng không phải là thể chữ Thảo Tây Hạ hay thể chữ Triện Tây Hạ, bởi vậy bước đầu tôi phán đoán, văn tự Tây Hạ trên kệ tranh ngọc chắc là thể chữ Lệ Tây Hạ mà nhân thế chưa từng nhìn thấy!”

“A! Sao phức tạp vậy, vì chưa có ai từng nhìn thấy, vậy thì cũng chẳng có ai hiểu đâu nhỉ?” Lương Viện không giấu nổi sự thất vọng.

“Khà khà, các bạn không phải sốt ruột đâu! Dù lần đầu tiên tôi đọc những văn tự này cũng không hiểu, nhưng rút cuộc cũng chỉ là thể chữ không giống, văn tự vẫn là văn tự Tây Hạ, nếu là thể chữ Khải và thể chữ Hành Tây Hạ thường thấy, thì chỉ cần một tiếng đồng hồ là tôi có thể dịch ra. Nguyên nhân đóng cửa một tuần là do cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy thể chữ Lệ. Vẫn may, thông qua một tuần nghiên cứu, tôi vừa đọc vừa mù mờ đoán nên cũng dịch được đại khái nội dung văn tự trên kệ tranh ngọc, chỉ có điều tôi cũng không thể hoàn toàn khẳng định…” nói tới đây, giáo sư La ngưng bặt.

Hàn Giang nhìn giáo sư La đầy tin tưởng: “Giáo sư, bất luận là chính xác hay không, ngài cứ nói xem sao.”

Giáo sư La gật gật đầu, bắt đầu dịch những văn tự trên kệ tranh ngọc: “Văn tự trên kệ tranh ngọc phân thành hai phần trước sau, chữ ở phần trên ít hơn, hơi giống như phần mở đầu trong toàn bộ bài văn, bước đầu tôi tạm dịch ra, toàn bộ phần mở đầu này là: Tử tôn hữu nan, tứ bình hợp nhất, thiên sơn vạn thủy, cửu tử nhất sinh, Hạn Hải Mật Thành, nại trường sinh thiên tí hựu, khả đắc phục quốc chi tư, phục quốc chi nhân, phi ngã tử tôn, tất thụ huyết chú. Tổng cộng có bốn mươi tư chữ, văn gốc không có dấu câu, dấu câu ở giữa là do tôi thêm vào, đây chỉ là bản dịch ban đầu của tôi, thâm tâm cũng không chắc chắn, đặc biệt là ‘Hạn Hải Mật Thành’ mấy chữ đó đã bị bào mòn, rất không rõ ràng.”

“Giáo sư, bốn mươi tư chữ này nghĩa là gì?” Đường Phong nói ra sự thắc mắc trong lòng mọi người.

Sắc mặt giáo sư La đanh lại, hình như ông đang băn khoăn cân nhắc trùng trùng, mọi người đợi mãi một lúc lâu sau mới nghe thấy giáo sư La nói: “Bốn mươi bốn chữ này, theo như suy đoán ban đầu của tôi, có liên quan tới một bí mật lớn của vương triều Tây Hạ…”

5

Giáo sư La nói tiếp: “Dưới đây tôi sẽ đọc và giải thích từng câu, câu thứ nhất ‘tử tôn hữu nan’, tôi suy đoán chữ ‘nan’ này, chắc là chỉ đại nạn mà vương triều Tây Hạ gặp phải, chẳng hạn như khi thời kỳ đất nước gặp hoạn nạn, cũng ý nói là con cháu hậu duệ, nếu như đến lúc gặp đại nạn; câu thứ hai ‘tứ bình hợp nhất’, câu này tôi trăn trở suy nghĩ mãi, ngẫm nghĩ mãi mà chẳng ra, nhưng sau đó tôi phân tích xong toàn bộ, lúc quay lại nhìn câu này mới ngộ ra, bởi vậy chúng ta tạm thời không xem câu này, tiếp tục; hai câu sau là ‘thiên sơn vạn thủy, cửu tử nhất sinh’, hai câu này về mặt chữ nghĩa không khó giải thích, chúng nói về gian nan, nguy hiểm, gian nan và nguy hiểm gì nhỉ? Tôi nghĩ chắc là chỉ con đường gian nan, vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh; xem tiếp câu sau ‘Hạn Hải Mật Thành’, Hạn Hải Mật Thành là ý gì đây? Tôi lúc đầu cũng nghĩ không ra, nhưng tôi liên kết câu này với hai câu trước lại với nhau thì gần như đã hiểu ra, vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh là vì đi đâu đây? Là bởi vì đi đến Hạn Hải Mật Thành.”

“Hạn Hải Mật Thành? Đây là nơi nào mà phải vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh mới tới được? Bí ẩn thật đấy!” Lương Viện hỏi giáo sư La.

Giáo sư La lắc lắc đầu: “Cả đời ta nghiên cứu lịch sử Tây Hạ nhưng cũng chưa bao giờ nghe thấy nơi nào tên là Hạn Hải Mật Thành cả.”

“Có khi nào nghĩa là thế này không nhỉ, Hạn Hải là một địa danh, Mật Thành là một địa danh, ‘Mật Thành’ nghe có vẻ giống tên của một thành phố.” Lương Viện đoán mò.

Đường Phong cũng suy đoán theo: “Hạn Hải, tôi thấy không có ý nghĩa gì đặc biệt cả, chính là chỉ sa mạc, Hạn Hải Mật Thành, ghép lại là nói về một thành trì bí mật trong sa mạc, gọi là Mật Thành.”

Giáo sư La nghe Đường Phong phân tích, khẽ gật đầu: “Điểm này tôi đồng ý với quan điểm của Đường Phong, Mật Thành rất có khả năng là một thành trì ẩn giấu trong sa mạc. Chúng ta xem tiếp, câu sau ‘nại trường sinh thiên tí hựu’, câu này chắc là không có ý nghĩa thực tế gì, chỉ là ý nghĩa cầu nguyện ông trời phù hộ. Trung Quốc cổ đại, rất nhiều dân tộc du mục ở phương bắc như Mông Cổ, Khiết Đan, Đảng Hạng… đều sùng bái ông trời. Khi ra ngoài chinh chiến, săn bắn, phàm là có hoạt động gì quan trọng, họ đều phải cử hành nghi thức, cầu nguyện ông trời phù hộ. Hai câu sau, ‘khả đắc phục quốc chi tư, phục quốc chi nhân’, theo như suy đoán của tôi, nghĩa là nói vượt qua sông núi ngàn trùng, thập tử nhất sinh, tìm thấy Hạn Hải Mật Thành là có thể có được tài nguyên phục quốc, nhân lực để phục quốc, ‘phục quốc chi tư’ may mà còn dễ lý giải, chính là của cải, của cải có thể đủ để phục quốc các bạn thử nghĩ xem phải có bao nhiêu?”

“Tôi đã hiểu ra chút ít rồi, thảo nào mấy trăm năm nay, bao nhiêu người muốn có được kệ tranh ngọc này, hóa ra không chỉ là vì báu vật này, mà còn vì kho tài nguyên phục quốc khác thường đó!” Lời của Đường Phong khiến mọi người đều bừng tỉnh.

Trước mắt mọi người bừng lên ánh sáng, gần như chuỗi sự việc này đã lần ra đầu mối, nhưng giáo sư La vẫn chau mày băn khoăn: “Các bạn đừng vui mừng vội, việc này không đơn giản chỉ là tranh giành một đống của cải khổng lồ. ‘Phục quốc chi tư’ thì dễ lý giải, nhưng ‘phục quốc chi nhân’ thì nên lý giải thế nào đây?”

Phục quốc chi nhân! Lẽ nào là một đội quân? Sao lại như vậy được, mọi người đều chìm trong im lặng. Giáo sư La nói tiếp: “Được! Chúng ta tạm thời không để ý tới ‘phục quốc chi nhân’ này nữa, xem tiếp hai câu cuối cùng, ‘phi ngã tử tôn, tất thụ huyết chú’.”

Khi mấy từ “tất thụ huyết chú” thốt ra từ miệng giáo sư La, trong lòng tất cả mọi người trong mật thất đều run rẩy, huyết chú! Huyết chú đáng sợ! Hóa ra chính là nội dung khắc trên kệ tranh ngọc này.

“Phi ngã tử tôn, tất thụ huyết chú. Hai câu này tuy đáng sợ, nhưng lại dễ hiểu, đây là lời nguyền rủa lúc đó của người chế tác ra kệ tranh ngọc này, nếu như người nào không phải con cháu Tây Hạ đoạt được kệ tranh ngọc, tìm thấy Hạn Hải Mật Thành, thì sẽ bị huyết chú.” Giáo sư La giải thích xong, lại nhìn mọi người, ai ai cũng nặng trĩu tâm trạng, đến ngay cả Hàn Giang và Triệu Vĩnh vốn không tin quỷ thần mà sắc mặt cũng sầm xuống.

Vẫn là Lương Viện hỏi trước: “Vậy thì chúng ta cũng sẽ gặp phải lời nguyền của huyết chú?”

Giáo sư La cười đáp: “Thực ra, đây phần lớn là cách người xưa dùng để đe dọa người khác.”

“Giáo sư, có lẽ ngài vẫn chưa biết, nửa tháng nay, ngoài Lương Vân Kiệt ra, đã có một số người vì kệ tranh ngọc này mà mất mạng.” Hàn Giang rút cuộc cũng mở miệng.

Lời của Hàn Giang khiến giáo sư La cũng kinh ngạc. Trầm ngâm một hồi, giáo sư La mới khó nhọc nhoẻn một nụ cười: “Mọi người không cần phải lo lắng, dựa vào bao năm nghiên cứu của tôi, sau khi vương triều Tây Hạ bị diệt vong, rất nhiều người Đảng Hạng đã gia nhập đại quân Mông Cổ, người Mông Cổ gọi những người Đảng Hạng này là quân ‘Đường Ngột Thích’, trong đó có một nhánh sau này đã lấy chữ ‘Đường’ làm họ của mình, định cư tại nội địa, do đó mà nói, Đường Phong, cậu xem ra rất có khả năng là hậu duệ của người Đảng Hạng đấy! Vì đã là con cháu của người Đảng Hạng, nên cũng không nhất thiết phải lo lắng huyết chú gì đâu, khà khà.”

“Cái gì? Tôi là hậu duệ của người Đảng Hạng! Giáo sư La, ngài đừng an ủi chúng tôi như thế chứ!” Mọi người đều biết giáo sư La bịa ra một lý do để an ủi mọi người, nhưng Đường Phong vẫn cứ bóc mẽ ông.

“Được rồi, đừng loanh quanh với cái ‘huyết chú’ nữa, chúng ta khi đã gia nhập lão K, thì sẽ không sợ huyết chú nào cả!” Lời của Hàn Giang cất lên rất đanh thép và đầy cương quyết.

6

Hàn Giang nhìn khắp mọi người trong phòng một lượt, rồi nghiêm túc nói: “Bóc gỡ bí mật của kệ tranh ngọc vốn rất nguy hiểm, nhưng tôi không tin huyết chú nào hết. Lẽ nào con người mấy trăm năm trước còn có thể sống lại để cản trở chúng ta? Chỉ có những đối thủ tham lam, hung tàn, họ mới thực sự là kẻ thù của chúng ta! Giáo sư La, ngài vẫn chưa giải thích xem câu thứ hai nghĩa là gì?”

Giáo sư La nhìn Hàn Giang, tiếp tục giải thích: “Trước đó tôi đã nói rồi, ban đầu tôi cũng không hiểu câu thứ hai ‘tứ bình hợp nhất’ nghĩa là gì? Nhưng khi tôi đọc và giải thích xong toàn văn, quay lại xem câu thứ hai, hình như bắt đầu lý giải hàm ý của tứ bình hợp nhất. ‘Tứ bình hợp nhất’, tôi suy đoán chắc là có bốn kệ tranh ngọc…”

“Bốn kệ tranh ngọc?” Giáo sư La nói tới đây, mọi người đều tròn mắt kinh ngạc.

“Đúng vậy, bốn kệ tranh ngọc, chỉ có ghép bốn kệ tranh ngọc lại với nhau, mới có thể biết được vị trí chính xác của Hạn Hải Mật Thành, các bạn xem…” vừa nói, giáo sư La vừa đeo găng tay trắng vào, lật úp mặt sau kệ tranh ngọc lên, chỉ vào một vài chỗ lõm, nói: “Mọi người hãy nhìn viền những chỗ lõm xuống ở mặt sau, theo như suy đoán của tôi, mặt sau kệ tranh ngọc là một tấm bản đồ được khắc chìm.”

“Bản đồ?”

“Nói chính xác là bản đồ hướng tới Hạn Hải Mật Thành.”

“Liệu đó có phải là một bức bản đồ kho báu?” Lương Viện hỏi.

Giáo sư La cười đáp: “Cháu muốn nói vậy cũng được, nhưng chỉ có một bức thì không đủ, phải tập hợp bốn kệ tranh ngọc này, ghép chúng lại với nhau, mới có thể nhìn rõ bản đồ hướng tới Hạn Hải Mật Thành.”

“Ồ!” Lương Viện gật gật đầu.

“Cũng với ý nghĩa như vậy, văn tự Tây Hạ trên mặt chính của kệ tranh ngọc, trừ phần thứ nhất mà chúng ta đã giải mã được ra, phần chữ chính to hơn ở phía dưới, theo tôi suy đoán thì chính là địa điểm mà bốn kệ tranh ngọc được cất giấu, cũng có khả năng vẫn còn một số tin tức liên quan tới Hạn Hải Mật Thành. Dưới đây chúng ta sẽ xem xem phần chữ chính trên kệ tranh ngọc, thông qua bước đầu phiên dịch, phần chính của kệ tranh ngọc dịch sang chữ Hán là ‘Hắc Đầu Thạch Thất hoang thủy vực, xích diện phụ chủng bạch cao hà, trường miên di dược nhân quốc tại bỉ’.”

Giáo sư La đọc tới đây rồi im bặt. Lương Viện thúc giục: “Giáo sư, sao ông không đọc tiếp ạ?”

“Hết rồi, ông đã đọc hết rồi.”

“Cái gì? Phần chữ chính chỉ có mấy chữ này thôi sao?” mọi người vô cùng thất vọng.

“Đúng vậy, phần chữ chính của kệ tranh ngọc này chỉ có hai mươi mốt chữ.”

Đường Phong nghe mấy câu chữ Tây Hạ mà giáo sư La phiên dịch, bỗng nhiên kinh ngạc: “Mấy… mấy câu này hình như tôi đã được nghe qua, đúng rồi, chính là bảy bức thư đó, thư của viện sỹ Alekseev viết cho Menshikov, ở cuối bức thư đó, Alekseev đột nhiên viết thêm một đoạn, nói rằng năm đó, trước khi Ivanovich Ivanov chết, đã từng nhắc tới mấy câu thơ, chính là mấy câu này.”

“Đúng! Đường Phong, khi tôi phiên dịch ra mấy câu này, tôi cũng đã rất ngạc nhiên, điều đó cho thấy năm đó Ivanovich Ivanov đã từng giải mã được mấy câu thơ này, đáng tiếc sau đó ông đã qua đời, không thể tiếp tục nghiên cứu được nữa.”

“Vậy bài thơ đó nghĩa là gì nhỉ? Có liên quan gì tới kệ tranh ngọc?” Đường Phong hỏi.

“Câu thơ này thuật lại địa điểm mà chắc là thời kỳ đầu người Đảng Hạng đã từng sinh sống, ‘bạch cao hà’, tôi cho rằng đó là chỉ lưu vực Bạch Hà thuộc tây bắc Tứ Xuyên hiện nay, đây vốn là nơi tụ tập sinh sống của người Đảng Hạng thời kỳ đầu, còn Hắc Đầu Thạch Thất rất có khả năng chính là nơi cất giấu một trong ba kệ tranh ngọc còn lại. Nếu như suy đoán của tôi đều chính xác thì sẽ có ý nghĩa học thuật vô cùng trọng đại đối với việc viết lại toàn bộ lịch sử Tây Hạ.” Có thể nhận thấy, giáo sư La đã cất cao giọng khi nói tới đây.

“Nói như vậy, tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất chính là mục tiêu tiếp theo của chúng ta rồi!” Triệu Vĩnh vừa nói vừa đưa ánh mắt thăm dò về phía Hàn Giang.

Mọi người đều nhìn Hàn Giang, nhưng Hàn Giang vẫn im lặng, và Đường Phong lại là người cất lời: “Các vị, không phải tôi nghi ngờ trình độ nghiên cứu của giáo sư La, nhưng chỉ dựa vào chút chứng cứ hiện giờ liền suy đoán là có bốn kệ tranh ngọc, rồi lại nói Hắc Đầu Thạch Thất gì đấy có cất giấu các kệ tranh ngọc khác, thì tôi vẫn chưa thể tin được. Hơn nữa, chúng ta cũng không biết vị trí cụ thể của Hắc Đầu Thạch Thất này ở đâu thì đi tìm thế nào đây?”

Giáo sư La rất bình tĩnh nói: “Tôi đã nói rồi, tất cả những điều này đều chỉ là suy đoán của cá nhân tôi, nhưng cậu hỏi vừa rồi khiến tôi nhớ ra, trên kệ tranh ngọc có một chứng cứ có thể chứng minh cho phán đoán của tôi, có thể các bạn vẫn chưa biết trên kệ tranh ngọc này còn có một chữ Hán.”

“Ồ! Trên kệ tranh ngọc có một chữ Hán, sao tôi không nhìn thấy nhỉ?” Đường Phong tỏ rõ vẻ nghi ngờ.

Giáo sư La xoay kệ tranh ngọc chếch đi một chút rồi, chỉ lên vách bên cạnh kệ tranh ngọc và nói với mọi người: “Mời các vị xem, ở đây có một chữ Hán rất nhỏ.”

Mọi người quây lại gần hơn, chăm chú quan sát, quả nhiên, tất cả đều nhận ra, trên vách bên cạnh kệ tranh ngọc, có một chữ “Bạch” nho nhỏ.

“Chữ ‘Bạch’ này lại nói lên điều gì đây?” Đường Phong thắc mắc.

“Nói lên điều gì? Chữ ‘Bạch’ này thực ra là tên của kệ tranh ngọc!”

“Tên? Tên của nó không phải là kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ sao?” Đường Phong cảm thấy đầu óc càng mụ mị hơn trước.

“Tôi đã từng nói rồi, tôi suy đoán tổng cộng có bốn kệ tranh ngọc, chỉ tới khi nào ghép bốn kệ tranh ngọc này lại với nhau mới có thể hoàn toàn biết được trên kệ tranh ngọc viết những gì, mới có thể nhìn rõ bản đồ phía sau kệ tranh ngọc. Vậy thì, người chế tác lúc tạo ra bốn kệ tranh ngọc này, nhất định đã đánh số hiệu cho từng kệ tranh ngọc. Chữ ‘bạch’ viết bằng chữ Hán này, chính là số hiệu của kệ tranh ngọc này hoặc là tên của nó: tên gọi đầy đủ của kệ tranh ngọc này chắc phải là: kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ tên Bạch.”

7

“Kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ tên Bạch? Vậy những kệ tranh ngọc khác thì đánh số hiệu gì đây?” Đường Phong hỏi.

“Hãy nghe tôi từ từ nói, mọi người biết rồi đấy, tên gọi ‘Tây Hạ’ này là tên gọi trong sử thi Hán văn, vốn không phải là quốc hiệu, mà người Đảng Hạng tự đặt. Quốc hiệu mà người Đảng Hạng tự đặt, trong giới học thuật có rất nhiều cách nói khác nhau. Rất nhiều học giả đều cho rằng, người Đảng Hạng tự xưng quốc gia của mình là ‘Đại Bạch Cao Quốc’ hoặc ‘Bạch Cao Đại Quốc’. Còn có một cách nói khác, cho rằng người Đảng Hạng tự xưng quốc gia mình là ‘Bạch Cao Đại Hạ Quốc’, tên gọi này là do học giả nước Nga Evgenij Ivanovich Kychanov nghiên cứu Tây Hạ, căn cứ vào cuốn “Đại tàng kinh Tây Hạ văn” được bảo tồn trong viện bảo tàng nhân loại học tại Stockholm Thụy Điển, phiên dịch từng chữ thành chữ Hán mà có được. Bản thân tôi cũng đồng ý hơn với cách nói này. Lại nói về kệ tranh ngọc trước mặt chúng ta, từ những văn tự khắc trên bề mặt có thể phán đoán, kệ tranh ngọc này chắc là kệ đầu tiên trong bốn kệ tranh ngọc, bởi vì, đối chiếu với bốn chữ ‘Bạch, Cao, Đại, Hạ’ mà tôi suy đoán, ba kệ tranh ngọc còn lại sẽ lần lượt là kệ tranh ngọc chữ ‘Cao’, kệ tranh ngọc chữ ‘Đại’, kệ tranh ngọc chữ ‘Hạ’.” Suy đoán của giáo sư La khiến mọi người tăng thêm lòng tin, và dường như đã càng lúc càng cận kề hơn với chân tướng của sự việc.

Giáo sư La tiếp tục nói: “Tôi bổ sung thêm một điểm, nếu như chúng ta thực sự tìm ra Hạn Hải Mật Thành, vậy thì ở đó sẽ có gì đây? Kho báu, cái này đương nhiên là có, thậm chí còn có rất nhiều rất nhiều kỳ châu dị bảo, nhưng tôi lại không hứng thú với kho báu. Năm 1908, Coats Ivanov đã phát hiện ra Hắc Thành và đã khai quật với con số lên tới hàng vạn văn vật Tây Hạ. Tôi nghĩ cái Hạn Hải Mật Thành này chắc chắn sẽ to hơn Hắc Thành, còn trọng đại, hoành tráng hơn thì tôi không dám tưởng tượng. Ở đó có thể chôn giấu bao nhiêu di sản văn hóa, làm chấn động thế giới, có lẽ sẽ có một bộ “Đại tàng thư” hoàn chỉnh bằng chữ Tây Hạ, có lẽ sẽ có vô số tượng phật tinh xảo, còn huy hoàng hơn cả Đôn Hoàng vĩ đại, có lẽ còn có rất nhiều những kỳ tích mà chúng ta có nghĩ cũng không nghĩ tới…” giáo sư La đã không thể giấu được sự hưng phấn, ông đã hoàn toàn say sưa trong Hạn Hải Mật Thành của mình.

Cuối cùng, Hàn Giang đứng thẳng dậy, tổng kết với mọi người: “Tôi cho rằng, suy đoán của giáo sư La là hợp tình hợp lý, mục tiêu tiếp theo của chúng ta là bắt buộc phải vượt mặt đối thủ, tìm đủ bốn kệ tranh ngọc, giải mã bí mật của Hạn Hải Mật Thành.”

“Nhưng, bước tiếp theo chúng ta phải hành động thế nào đây?” Đường Phong hỏi Hàn Giang.

Hàn Giang không trả lời, giáo sư La lên tiếng: “Muốn tìm kệ tranh ngọc Hắc Đầu Thạch Thất, tôi lại nhớ tới một manh mối. Vào thập niên 20, 30 của thế kỷ trước, nhà thám hiểm người Mỹ Joseph Rock hoạt động sôi nổi tại khu vực phía tây Tứ Xuyên. Rồi vào những năm cuối đời, trong một bài viết của mình, ông đã nhắc tới thông tin sau chuyến khảo sát núi tuyết Minya Konka nằm ở tận cùng tây bắc Tứ Xuyên, do một trận lở bùn đá đáng sợ nên ông đã tới nhầm một đào nguyên ngoại thế. Ở đó non xanh nước biếc, dân chúng hồn hậu, người dân sùng bái đạo Phật, nhưng lại gìn giữ một số lượng lớn phong tục tôn giáo nguyên thủy. Thủ lĩnh địa phương và Lạt ma tiếp đãi Rock vô cùng nhiệt tình, cuối cùng đã dẫn ông ra khỏi đào nguyên bên ngoài nhân gian đó. Rock nhiều năm sinh sống tại Trung Quốc, am hiểu sâu sắc văn hóa Trung Quốc, ông phát hiện ra phong tục tập quán và tướng mạo của những người sinh sống ở đó rất khác biệt so với cư dân của khu vực phía tây Tứ Xuyên khác. Bởi vậy ông cho rằng, cư dân ở đây là từ nơi khác di cư tới. Tiếp đó Rock đã táo bạo suy đoán: cư dân ở đó chính là hậu duệ của người Đảng Hạng di cư tới khu vực phía tây Tứ Xuyên, để chạy trốn sự truy sát của thiết kị binh Mông Cổ.”

8

Đường Phong nghiêng đầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi hỏi lại giáo sư La: “Tôi cũng từng nghe qua tại khu vực Xuyên Tây có hậu duệ người Đảng Hạng, nhưng trong trí nhớ của tôi, đó hình như là chỉ khu vực Mộc Nhã. Rock đã từng cho rằng, người Mộc Nhã chính là hậu duệ của người Đảng Hạng, nhưng sau này vì ông tới đào nguyên ngoại thế đó nên đã thay đổi quan điểm. Ông cho rằng cư dân sống ở đó càng giống hậu duệ của người Đảng Hạng hơn. Sau này Rock vẫn muốn đi tìm lại vùng đào nguyên đó, nhưng ông đi khắp hang động vách núi thuộc dải tây bắc Tứ Xuyên mà cũng không tìm thấy vùng đào nguyên ngoại thế này. Vậy là, Rock đã gọi vùng đất đó là ‘Shangri La cuối cùng’, trở thành điều tiếc nuối cuối cùng của cuộc đời ông.”

“Lẽ nào Rock không để lại vật gì đó, như một tấm ảnh chẳng hạn?” Đường Phong hỏi.

Giáo sư La lắc lắc đầu, “Không có, bản thân ông nói rằng, trước khi ông đi vào vùng đào nguyên ngoại thế đó, ông đã gặp phải một trận lở bùn đá đáng sợ. Ông đã thất lạc những người đồng hành khác, máy ảnh cùng những thiết bị khác mà ông mang theo cũng bị trôi theo bùn đá, bởi vậy không thể lưu lại hình ảnh hay tài liệu gì. Còn về lần đi lạc đó, ông chỉ để lại những dòng ghi chép ngắn gọn. Trong đoạn ghi chép này, Rock còn đặc biệt nhắc tới ngọn núi ở gần đó mà người địa phương sùng bái, và kể lại trong hang núi trên tuyết sơn có cất thánh vật của họ. Điều này hình như có mối liên hệ nào đó với Hắc Đầu Thạch Thất trong truyền thuyết.”

“Ý ngài là Hắc Đầu Thạch Thất rất có khả năng ở đó?” Lương Viện ngạc nhiên hỏi.

Giáo sư La khẽ gật đầu, đáp: “Khả năng này rất lớn, nếu giống như Rock từng suy đoán, ở đó có hậu duệ của người Đảng Hạng sinh sống, vậy thì, hang núi mà người địa phương thường nói rất có khả năng chính là Hắc Đầu Thạch Thất. Còn bản thân tôi vô cùng ngưỡng mộ Lock, ông là một nhà thám hiểm rất cẩn thận và nghiêm túc, đồng thời cũng là một học giả, tôi nghĩ độ tin cậy trong những lời nói của ông khá cao.”

Đường Phong hình như đã hiểu ra ý của giáo sư La, “Giáo sư La, ý của ông là muốn chúng tôi đi tìm kiếm đào nguyên ngoại thế mà Rock gọi là ‘Shangri La cuối cùng’, tìm kiếm hậu duệ của người Đảng Hạng ở đó, tìm hiểu tình hình liên quan tới Hắc Đầu Thạch Thất?”

“Đúng vậy, hiện nay đây chính là manh mối duy nhất của chúng ta, tôi tin chắc địa danh đó thực sự tồn tại.” Giáo sư La nói rất kiên định.

Đường Phong nhìn nhìn giáo sư La, rồi lại nhìn Hàn Giang, như muốn nghe ý kiến của anh. Hàn Giang trầm tư hồi lâu, lúc này mới cất lời: “Tôi tin tưởng vào phán đoán của giáo sư La, tìm thấy đào nguyên ngoại thế mà Rock đã từng đến, chính là mục tiêu của chúng ta.” Hàn Giang lại nhìn một lượt mọi người đang ngồi bên dưới, đưa ra mệnh lệnh: “Hành động lần này của chúng ta phải tiến hành trong tình trạng bảo mật, do tôi và Đường Phong thực thi, những người khác ở lại đây trấn thủ, khi tôi không có mặt, công việc ở đây do Triệu Vĩnh phụ trách.”

Nói xong, Hàn Giang quay ra bàn giao cho Triệu Vĩnh: “Sau khi tôi đi phải luôn luôn giữ liên lạc với tôi, đồng thời đảm bảo tốt viện trợ…” Hàn Giang đang nói thì Lương Viện liền ngắt lời anh, hỏi thẳng thừng: “Sao lần hành động này không cho tôi đi theo?”

Hàn Giang quay đầu lại nhìn Lương Viện, nghiêm mặt nói: “Lần hành động này, rất có khả năng chúng ta phải thâm nhập vào hang sâu trên tuyết sơn, có khi còn gặp phải sự công kích của kẻ thù, cô là con gái, sao mà đi được!”

“Vậy thì tôi làm gì?”

“Cô hãy ở đây chăm sóc giáo sư La, đợi tôi trở về.”

Lương Viện vẫn muốn tranh luận nhưng Hàn Giang không buồn để ý đến cô nữa, anh cùng Triệu Vĩnh đi ra khỏi mật thất, chỉ còn lại Lương Viện bĩu môi, đứng ngây trước cửa… Đường Phong thấy bộ dạng Lương Viện như vậy, không nhịn cười, đúng lúc đó thì bị Lương Viện nhìn thấy, cô trợn mắt lườm Đường Phong một cái, nói không chút hào khí: “Anh cứ cười đi, không cho tôi đi, tôi cũng sẽ đi bằng được, hừm! Từ bé đến lớn, chưa có ai từng ngăn cản được bổn cô nương.”

Đường Phong thu lại nụ cười, cũng bắt chước điệu bộ của Hàn Giang, nghiêm mặt nói với Lương Viện: “Tiểu thư Lương, đây không phải là nơi để cô giở thói đỏng đảnh đâu nhé, tôi thấy cô nên ở lại đây chăm sóc giáo sư La đi.”

Lương Viện bị Đường Phong chọc tức như vậy bèn đẩy xe lăn của giáo sư La, thở hổn hển bỏ đi, trong mật thất chỉ còn lại Đường Phong. Đường Phong đứng bên cửa sổ, vén một góc tấm rèm cửa dày cộm lên, phía xa xa, những dãy núi tĩnh mịch, trong lòng Đường Phong bỗng đột nhiên trào lên một dự cảm không lành.
 

hoahongden12

Active Member

1

Năm 1227, Hưng Khánh Phủ, thời khắc cuối cùng của vương triều Tây Hạ, bị kị binh Mông Cổ hùng mạnh nhất thế giới bao vây, nên thành quách đã cô độc vài tháng nay. Thành Cát Tư Hãn oai phong ngạo mạn, ngồi chỉnh tề trong lều, kiểm duyệt đội kị binh đã theo ông quét sạch đại lục Âu Á… Đột nhiên, một thiếu niên áo trắng từ trên trời rơi xuống, tay cầm bảo kiếm, rạch nát lều, tấn công Thành Cát Tư Hãn từ cửa lều. Thành Cát Tư Hãn né người tránh một đao, đang định rút dao phản kích thì thiếu niên này lại bồi thêm một kiếm, đâm thẳng giữa ngực Thành Cát Tư Hãn, kiếm bay vun vút như gió, Thành Cát Tư Hãn không còn chỗ nào để nấp, ngã nhào trong những nhát kiếm. Đợi tới khi các chư hầu đứng ngoài lao vào trong lều thì thiếu niên áo trắng đã cúi rạp người, bay ra khỏi lều, cuốn theo bụi trần… Nhìn lại thì Thành Cát Tư Hãn, bá vương của Âu Á đại lục này đã tắt thở. Chính trong thời khắc mà vị vĩ nhân này mê man lìa đời, ông, Bột Nhi Chỉ Cân Thiết Mộc Chân, Hãn vương vĩ đại nhất trên thảo nguyên trong lịch sử từ trước tới nay, với tấm thân tàn, lấy danh nghĩa trường sinh thiên chỉ lên trời thề rằng: dĩ tử chi, dĩ diệt chi, dĩ tuyệt chi! Vậy là, ngày đen tối nhất trong lịch sử vương triều Tây Hạ đã đến…

Vào cái đêm Hưng Khánh Phủ thành bị phá vỡ, kị binh Mông Cổ đã tuân theo lời trăn trối trước khi chết của Thành Cát Tư Hãn, triển khai thảm sát đẫm máu người Đảng Hạng, đàn ông đầu lìa khỏi xác, đàn bà thì bị làm nhục. Thiếu niên áo trắng tay giữ bảo kiếm, chỉ lo giết địch, cậu vừa đánh vừa rút lui, lui vào một mảnh sân to trong một ngôi nhà sâu hun hút, nhưng chỉ thấy xác người la liệt, máu chảy thành sông, hai tên lính Mông Cổ đang định hãm hiếp phụ nữ. Thiếu niên áo trắng xông lên, vung kiếm trong tay kết liễu hai tên lính Mông Cổ đó. Thiếu niên hỏi người phụ nữ: “Đây là phủ đệ của gia đình nào vậy?”

Người phụ nữ không trả lời, mà lôi một tay nải từ trong người ra, đưa cho thiếu niên: “Nhanh! Nhanh đưa tay nải này rời khỏi đây!”

“Trong này có gì vậy?” Thiếu niên không hiểu ý của người phụ nữ.

Người phụ nữ kìm nén sự đau đớn uất hận, xé nát tâm can hét lên với thiếu niên áo trắng: “Đây là hy vọng của người Đảng Hạng chúng ta, nhanh đem tay nải này rời khỏi đây, đi càng xa càng tốt…”

Nói xong, người phụ nữ lao đầu vào cột chết. Thanh niên áo trắng lau khô nước mắt, khoác tay nải, lao ra cửa. Ngoài đó, trừ xác của người Đảng Hạng ra thì chỉ còn lại đám kị binh Mông Cổ giết người tới đỏ cả mắt. Thiếu niên áo trắng vừa xuất hiện trên phố thì đã đụng ngay một kị binh Mông Cổ, hắn múa đao cong vút lao tới. Thiếu niên thấy vậy, nhưng không hoảng loạn, cầm chắc thanh kiếm, chỉ đợi tên kị binh Mông Cổ lao tới đâm mình. Tên kị binh Mông Cổ tiến lại phía cậu mỗi lúc một gần, thiếu niên đã có thể nhìn thấy máu tươi nhỏ từ lưỡi đao xuống. Chính trong giây phút tên kị binh Mông Cổ lao tới trước mặt, thiếu niên liền né người một cái, một ánh đao lóe sáng trên con phố, tên kị binh Mông Cổ ngã ngựa trong tiếng thét gào. Thiếu niên áo trắng chạy nhanh vài bước, bay lên không trung, nhảy lên con hắc mã của tên kị binh Mông Cổ, siết mạnh dây cương, ngựa đen quay đầu, phi thẳng ra khỏi cửa nam của Hưng Khánh Phủ. Trước cổng thành, người Mông Cổ bắn tên như mưa, thiếu niên áo trắng rạp người xuống lưng ngựa, lao qua vòng vây.

Hắc mã phi vun vút trên đường, qua thảo nguyên, sa mạc, hoang mạc, vách núi, rừng sâu. Thiếu niên cũng không biết mình đã đi được bao xa, cũng không biết con hắc mã này muốn đưa mình tới đâu, bởi chỉ có tiếng gió vun vút bên tai cậu… Đột nhiên, hắc mã hí lên một tràng dài, hai chân trước chồm lên cao, rồi khựng lại không chịu bước tiếp. Thiếu niên áo trắng kinh ngạc, tập trung quan sát, lúc này mới phát hiện ra phía trước chính là dãy núi tuyết trùng trùng điệp điệp nguy nga đang chặn đứng đường đi của mình! Còn phía sau, cậu đã nghe thấy tiếng vó ngựa của kị binh truy đuổi. Quay ngựa đại chiến một trận với truy binh, hay là vượt qua núi tuyết? Truy binh phía sau càng lúc càng gần, núi tuyết phía trước cao vút chạm mây, đi đâu về đâu? Đây thực là một vùng đất chết…

2

“Vùng đất chết! Tôi phải làm thế nào? Làm thế nào đây?” Đường Phong sau khi hét lên một tiếng thất thanh, rút cuộc đã tỉnh dậy, anh phát hiện xung quanh chẳng có truy binh nào cả, cũng chẳng có tuyết sơn, chỉ có một đám hành khách đang nhìn mình bằng ánh mắt kinh ngạc.

“Không có gì, ban nãy nằm mơ thấy ác mộng.” Nói xong, Đường Phong lại đổ người lên lưng ghế. Anh lau vệt mồ hôi trên trán, quay mặt đi, nhìn thấy tầng mây bên ngoài cửa máy bay, cuối cùng anh cũng nhớ ra, mình đang trên chuyến bay bay tới Thành Đô.

Mục tiêu hành động lần này của anh và Hàn Giang là tới vùng phía tây Tứ Xuyên, Cam Nam và khu vực Đông bắc Thanh Hải để tìm các kệ tranh ngọc khác. Nhưng khu vực này vắt ngang ba tỉnh Tứ Xuyên, Cam Túc, Thanh Hải, nối liền mấy chục ki lô mét vuông của mười mấy dân tộc Hán, Tạng, Khương, Hồi… Trên diện tích lãnh thổ rộng lớn như vậy, trong môi trường phức tạp như vậy, mà tìm kiếm một kệ tranh ngọc bé xíu, thì cũng đủ tưởng tượng ra sẽ khó khăn đến mức nào. Nhưng hiện giờ họ chỉ có một manh mối duy nhất, chính là “Hắc Đầu Thạch Thất” mà giáo sư La đã suy đoán ra từ những ghi chép ngắn gọn của nhà thám hiểm Rock.

Trong hai tháng qua, Đường Phong đã phải chịu đựng sự huấn luyện quá tải: hàng ngày dậy từ lúc 6 giờ sáng, cùng Triệu Vĩnh đeo đồ nặng chạy năm cây số, ăn sáng xong, vẫn còn cả một đống bài tập thể lực, tiếp theo đó Hàn Giang sẽ giới thiệu giảng giải cho Đường Phong về nguyên lý của các loại súng máy; ăn xong bữa trưa thì thực hành bắn súng; ba giờ chiều, Triệu Vĩnh giảng dạy dã ngoại sinh tồn, bao gồm cả việc làm thế nào để tồn tại trong điều kiện hoang dã không có thực phẩm và thuốc men. Nhưng điều khổ sở nhất mà anh phải làm là học cách ăn thịt sống. Mùi vị của thức ăn sống nơi hoang dã đã khiến Đường Phong thực sự không dám nếm thử. Triệu Vĩnh từng bắt ép Đường Phong ăn nguyên cả một con rắn sống, và chính vì con rắn này mà Đường Phong đã nôn mửa cả ngày. Triệu Vĩnh đành phải bó tay từ bỏ ý định huấn luyện Đường Phong trở thành người nhái hải quân lục chiến.

Từng đấy vẫn chưa thấm vào đâu. Buổi sáng, Đường Phong còn phải theo giáo sư La học văn tự Tây Hạ. Đối mặt với những văn tự đã biến mất 700 năm nay, Đường Phong vốn cho rằng mình có chút tài năng ngôn ngữ bẩm sinh nhưng giờ đều không có tác dụng gì cả. Hai tháng dạy như nhồi vịt với cường độ cao, Đường Phong cũng chỉ nắm được một vài từ vựng thường dùng. Chính sau hai tháng huấn luyện đặc biệt này, Đường Phong và Hàn Giang đã cùng nhau đáp chuyến bay từ Bắc Kinh tới Thành Đô.

Trước khi lên máy bay, Đường Phong đã thắc mắc với Hàn Giang: “Sao lần này chỉ có hai chúng ta, khu vực rộng lớn như vậy thì phải tìm tới bao giờ. Chúng ta hoàn toàn có thể điều động cả một đội quân để cùng tìm kiếm kệ tranh ngọc mà? Tại sao chúng ta phải đi máy bay dân dụng, sử dụng máy bay quân đội không phải càng an toàn và tiện lợi hay sao?”

Hàn Giang lắc lắc đầu, than thở: “Tiểu tử, cậu dù sao cũng không hợp với cái ngành này, thiếu nhiệt lắm! Cậu nghĩ xem, từ hành động thời gian trước của chúng ta cho thấy, đối thủ của chúng ta thực lực không hề tầm thường, nên phần lớn hành động của chúng ta đều không lọt qua được mắt chúng. Bởi vậy, hai chúng ta sẽ giống như những khách thông thường đến du lịch, đó mới là cách tìm kiếm kệ tranh ngọc tốt nhất; vì động tĩnh càng ít chúng ta càng an toàn. Hơn nữa, thực tế có kệ tranh ngọc hay không thì vẫn chưa dám khẳng định, chỉ là suy đoán của giáo sư La, cấp trên sẽ không phê chuẩn điều động nhiều nhân lực như vậy đâu.”

“Bởi vậy lần này chúng ta đi, ngoài một vài trang bị cho du lịch lữ hành thì không mang theo thứ gì khác cả. Bắt tôi tập bắn súng mãi như thế, mà kết quả lần này cũng không cho tôi mang súng theo.”

Hàn Giang nhìn Đường Phong một cái, cười nói: “Đâu chỉ mỗi cậu không mang súng, tôi cũng có mang theo đâu.”

“Cái gì? Anh không mang súng theo!” Đường Phong kinh ngạc, “Vậy ngộ nhỡ chúng ta gặp phải bọn tội phạm thì làm thế nào?”

“Đường Phong, cậu phải biết rằng, đặc công giỏi thật sự không cần phải mang theo bất cứ thứ vũ khí gì. Khi nào cần vũ khí, bất cứ thứ gì cũng có thể là vũ khí của chúng ta, kể cả một con dao gọt hoa quả. Hơn nữa cậu cũng có thể dùng vũ khí của kẻ địch. Bởi vậy nhân viên đặc công chúng tôi khi tập luyện không chỉ biết sử dụng mỗi loại súng máy chuyên dụng mà tất cả các loại súng của các quốc gia bọn tôi đều phải biết dùng.”

“Thảo nào anh và Triệu Vĩnh đều nắm rõ các loại súng như lòng bàn tay.”

“Thực tế lần này hành động cậu không cần phải quá lo lắng như vậy đâu, dù sao chúng ta cũng ở trong nước, đám tội phạm đó cũng không đến mức quá ngạo mạn. Hơn nữa, lúc nào ta cũng có thể yêu cầu sự chi viện của công an địa phương và Cơ quan an ninh quốc gia, bao gồm cả chi viện vũ khí. Bởi vậy lần này chúng ta sẽ đến đó giống như những người yêu thích du lịch lữ hành thực sự, nào cậu cứ thư giãn chút đi.”

“Mong là như thế, nếu như lần này quả thật là một chuyến du lịch vui vẻ thì tốt biết mấy!”

3

Đường Phong nhìn chằm chằm hồi lâu làm mây khói bên ngoài cửa sổ máy bay, đột nhiên anh quay mặt lại, khẽ ca thán: “Quả thực thời điểm này không phải là lúc thời tiết đẹp để đi du lịch, tháng Mười mà lại tới vùng núi cao...”

Hàn Giang trợn mắt, nói nhỏ: “Đúng vậy, hiện giờ quả thực không phải là mùa đẹp nhất để đi du lịch, nhưng may mà lúc này vẫn chưa tới mùa đông, thế nên chúng ta phải đến đó trước khi mùa đông tới, hoàn thành…”

Hàn Giang vẫn chưa nói hết câu đã liền im bặt, Đường Phong ngạc nhiên quay lại nhìn Hàn Giang, chỉ thấy Hàn Giang đang nhìn chằm chằm về hàng ghế phía trước bên trái anh. “Sao thế?” Đường Phong tò mò hỏi.

Đường Phong nhìn lên hàng ghế trước mặt, đó là hai người nước ngoài. Một ông già tóc bạc xám, nhìn tuổi tác cũng ngoài 60 tuổi, có lẽ cũng phải tới 70 tuổi, nhưng vai rộng lưng thẳng, thần thái vẫn rất trẻ trung. Người còn lại là một phụ nữ tóc ngắn màu nâu; người phụ nữ này khoảng ngoài 30 tuổi, phong thái duyên dáng, đang tập trung xem tạp chí.

“Sao thế? Anh phải lòng mỹ nữ đó rồi sao?” Đường Phong nửa đùa nửa thật.

“Nói thật với cậu nhé, tôi thấy hai người nước ngoài đó không giống người bình thường?”

“Có gì đặc biệt? Không phải là hai người tới Trung Quốc du lịch sao?”

“Giống như ban nãy cậu nói, hiện tại không phải là mùa du lịch.”

“Có khi người ta không đến vùng núi cao như chúng ta, mà chỉ loanh quanh gần Tứ Xuyên, Thanh Thành Sơn, Lạc Sơn Đại Phật chẳng hạn!”

“Dù thế nào thì tôi cũng thấy hai người này không đơn giản, cậu phải tin vào trực giác của tôi.”

Hàn Giang và Đường Phong thì thầm to nhỏ, hình như đã đánh động tới mỹ nữ người nước ngoài ở hàng ghế trên. Người đẹp mặt vô cảm quay lại mắt đối mắt với Hàn Giang. Hàn Giang vừa nhìn thấy ánh mắt của người đẹp liền hấp tấp thu lại ánh nhìn. Anh không hiểu tại sao mình lại như vậy, ánh mắt luôn tự tin như chim ưng từng khiến anh tự hào, nhưng hôm nay lại… Hàn Giang quay đầu ra hướng khác, đột nhiên, một hình dáng quen thuộc xuất hiện trong mắt anh. “Lương Viện?!” Hàn Giang giật mình kêu lên.

Nghe Hàn Giang thảng thốt, Đường Phong cũng nhảy dựng lên, nhìn theo ánh mắt của Hàn Giang. Quả nhiên, Lương Viện chậm rãi từ đầu lối đi tiến lại. Đường Phong rõ ràng không dám tin vào mắt mình, anh ra sức dụi mắt, không sai, chính là Lương Viện. Lúc này, Lương Viện ăn vận giống như một khách du lịch, khoác chiếc ba lô to màu xanh bước tới trước mặt Hàn Giang và Đường Phong, chưa kịp để hai người mở miệng, Lương Viện đã cười với Đường Phong: “Sao thế? Đường Phong, tôi nói rồi, trên thế giới này không ai có thể ngăn cản được bổn cô nương mà.”

“Cô… sao cô lại lên được đây?” Đường Phong lắp ba lắp bắp hỏi.

“Tôi đã lên đây như thế này đây!” Lương Viện đầy vẻ ngây thơ nói.

Đường Phong và Hàn Giang bốn mắt nhìn nhau, đối diện với cô tiểu thư Lương Viện này, hai người họ cũng hết cách. Hàn Giang nhìn Lương Viện gỡ ba lô xuống, hỏi: “Bên trong dày cồm cộm, đựng cái gì vậy?”

“Đều là những vật thiết yếu, còn có một vật quan trọng...” Lương Viện đáp.

“Vật quan trọng?”

“Kệ tranh ngọc.” Lương Viện nói nhỏ.

“Cái gì? Sao cô lại đem kệ…” Đường Phong ngạc nhiên tới nỗi hét thành tiếng, may mà bị Hàn Giang bịt ngay miệng lại mới không bật ra ngoài.

“Sao cô lại đem kệ tranh ngọc theo làm gì chứ?” Đường Phong hạ giọng khẽ chất vấn Lương Viện.

“Ờ, kệ tranh ngọc là do ông nội tôi mua về, tôi thích thì mang theo, ảnh hưởng gì tới anh.” Lương Viện hùng hồn trả lời Đường Phong.

Đường Phong chán nản lắc lắc đầu, đáp: “Kệ tranh ngọc là của gia đình cô, nhưng hiện giờ nó đã không thuộc về riêng gia đình cô nữa, bởi vì nó còn mang những giá trị lớn hơn, giá trị thật sự của nó không chỉ có mười triệu tệ.”

“Được rồi! Được rồi! Đùa với anh thôi, xem anh căng thẳng chưa kìa, kệ tranh ngọc là tôi đem theo, nhưng đấy không phải là ý của tôi, tôi chẳng to gan thế đâu, tôi hiểu tầm quan trọng của kệ tranh ngọc. Là giáo sư La bảo tôi đem theo, giáo sư La nói rằng các anh trên đường thám hiểm, rất có khả năng cần tới kệ tranh ngọc. Cũng không phải tôi lén lút chạy tới đây mà là do giáo sư La bảo tôi đưa kệ tranh ngọc theo, không biết chừng lại thật sự có giá trị đấy!”

“Giáo sư La này, nhất định là trúng kế của cô nhóc lừa đảo này rồi!” Hàn Giang cười, nói.

“Còn lâu ý! Giáo sư La chẳng ngăn cản gì tôi đến đây cả!” Lương Viện vẫn muốn tranh cãi.

Đầu óc Đường Phong lúc này lại căng lên như dây đàn, chuyến đi này vẫn còn chưa biết sẽ gặp phải gian khó hiểm nguy gì, giờ lại thêm vướng chân, thật là… Đường Phong vừa nghĩ tới đây, trong lòng liền rối như tơ vò, nhưng khi anh nhìn thấy khuôn mặt ngây thơ đáng yêu của Lương Viện, lại không nỡ nói thêm điều gì.

Hàn Giang cũng trong bộ dạng bó tay, anh nhìn Đường Phong lắc lắc đầu, không nói thêm gì nữa, rồi từ từ, anh nhắm mắt lại. Cũng không biết là qua bao lâu sau, đột nhiên, máy bay bỗng lắc lư dữ dội, Hàn Giang lập tức mở trừng mắt, anh nhìn Đường Phong và Lương Viện bên cạnh đang hốt hoảng, rồi lại nhìn nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay: một động cơ bên trái máy bay đã không biết biến đâu mất, một động cơ khác cũng đã ngừng hoạt động, cánh trái máy bay rạch nát nền trời xanh, kéo theo vệt khói đen dài tít tắp…

4

“Chuyện gì thế này?” Đường Phong hoảng hốt hỏi Hàn Giang.

“Máy bay xảy ra sự cố rồi!” Hàn Giang lo lắng đáp.

“Xảy ra chuyện? Sự cố kỹ thuật? Hay là…?” Đường Phong quá đỗi kinh ngạc.

“Không biết! Đừng hỏi tôi, tôi không phải là phi công!”

Trong khoang máy bay, tình hình bỗng trở nên hỗn loạn, cho dù là tiếp viên hàng không cố trấn tĩnh, duy trì nét mặt tươi cười đến thế nào đi chăng nữa, nhưng cũng không thể an ủi những hành khách đang hốt hoảng thất kinh, bởi tất cả mọi người đều cảm nhận được máy bay đang vù vù lao xuống. Hàn Giang di chuyển ánh mắt về phía cửa buồng lái, không biết phi công trong đó có thể ứng phó nổi với tình huống này hay không. Anh đột nhiên muốn manh động xông vào buồng lái. Anh tin rằng vào thời khắc này, trong số tất cả những người ở đây, mình chính là người có kinh nghiệm ứng phó với tình hình nguy hiểm này nhất.

“Chúng ta phải làm sao đây?” Rõ ràng là Đường Phong chưa từng gặp phải tình huống này bao giờ.

“Không thể ngồi nhìn máy bay rơi xuống thế này được, tôi nghĩ chúng ta có thể làm điều gì đó.” Hàn Giang vừa nói, vừa đứng dậy khỏi ghế, bước nhanh tới buồng lái. Đường Phong cũng lắc lắc lư lư đứng dậy, đi theo Hàn Giang vào trong đó.

Máy bay vẫn đang lao xuống với tốc độ chóng mặt, Hàn Giang đưa thẻ cho tiếp viên đứng ngoài cửa buồng lái, sau đó nói: “Để tôi thử xem sao, biết đâu lại hữu dụng.” Vậy là, tiếp viên dẫn Hàn Giang và Đường Phong vào buồng lái, trong buồng lái, cơ trưởng và phi công đang rối tung cả lên, thử mọi cách để khống chế máy bay.

Máy bay đã mất liên lạc với trung tâm chỉ huy, mặc cho cơ trưởng kêu gọi thế nào đi chăng nữa cũng không có bất cứ tín hiệu gì. Máy bay hiện giờ chỉ còn một bên động cơ đang hoạt động, nên không ngừng lao xuống vun vút. Vẻ mặt của cơ trưởng và phi công vô cùng lo lắng, Hàn Giang nói với cơ trưởng: “Tôi đã từng lái máy bay, có lẽ tôi có thể giúp các anh.”

Hàn Giang vẫn giữ được sự bình tĩnh trên nét mặt, nhưng sau khi anh ngồi lên vị trí cơ trưởng, chẳng mấy chốc anh đã hiểu ra rằng chút kinh nghiệm lái máy bay của mình cơ bản không đủ để ứng phó với tình huống đặc biệt này. Mấy phút sau, trên trán Hàn Giang đã đọng vệt mồ hôi…

“Để tôi thử xem sao!” Sau lưng Hàn Giang bỗng vang lên một giọng nói lơ lớ, Hàn Giang, Đường Phong, cơ trưởng và phi công cùng nhau quay đầu lại nhìn: trước cửa buồng lái là ông lão người nước ngoài tóc bạc xám, phía sau ông lão còn có một phụ nữ tóc ngắn màu nâu. Hàn Giang và Đường Phong nhận ra ngay hai người nước ngoài ban nãy trong khoang máy bay. Hàn Giang và ông lão đó bốn mắt nhìn nhau, chỉ thấy ông lão trước mặt mũi cao mắt sâu, tóc bạc xám, xem ra tuổi tác không thể dưới 70, nhưng hai mắt lại rực lên như hai ngọn đuốc, cơ thể tráng kiện rắn rỏi. Một câu tiếng Trung lơ lớ, không giống thỉnh cầu, mà giống mệnh lệnh không dễ hoài nghi hơn. “Người này quả nhiên không hề tầm thường!” Hàn Giang thêm bước nữa chứng thực cho phán đoán trước đây của bản thân.

Khi Hàn Giang vẫn còn đang chần chừ, ông lão người nước ngoài đó liền móc ra hộ chiếu của mình, giới thiệu với mọi người: “Trước đây khi phục vụ trong quân đội, tôi lái máy bay và cũng từng gặp phải sự cố này, các anh hãy để tôi thử xem sao.”

Đường Phong chú ý tới thông tin trên hộ chiếu của ông lão nước ngoài này: “Ivan Petrovich Makarov, người Nga…”

Hàn Giang quệt vệt mồ hôi trên trán, nhìn Makarov, anh đang khẩn trương phán đoán, giao máy bay cho một người nước ngoài khống chế?... Tuy bản thân từng được học qua kỹ năng lái máy bay, nhưng chưa từng gặp phải tình huống như thế này, anh quay lại nhìn cơ trưởng, vị cơ trưởng trẻ tuổi này e rằng cũng chưa từng gặp phải tình huống nào nguy hiểm như vậy, xem ra đành phải mạo hiểm thôi. Nghĩ tới đây, Hàn Giang hạ quyết tâm, nhường vị trí cơ trưởng và quay sang ông lão Makarov nước ngoài này, nói: “Tiếp theo phải trông cậy vào ngài rồi!”

Hàn Giang ngồi vào vị trí phụ lái, quay lại nói với mọi người: “Các anh hãy ra ngoài trấn an hành khách để yên tâm trước đã, chúng ta sẽ không sao cả.”

Đường Phong cùng mọi người lui hết ra khỏi buồng lái, trong buồng lái chỉ còn lại Makarov và Hàn Giang. Lúc này, chiếc máy bay trong trạng thái mất kiểm soát, đã hoàn toàn xa rời đường bay, rơi chếch xuống hướng tây bắc…

Makarov sau khi tìm hiểu độ cao và các loại tham số của máy bay, quả quyết nói: “Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, không có sân bay để có thể hạ cánh, đành phải tìm chỗ nào đó hạ cánh gấp vậy.”

“Tìm chỗ nào đó? Ông có biết chúng ta hiện đang ở đâu không?” Hàn Giang cảm thấy ý kiến của Makarov hoàn toàn không ăn khớp với thực tế.

Makarov nhìn Hàn Giang một cái rồi đáp: “Đương nhiên là tôi biết, phía dưới chúng ta là núi non trùng điệp, ở đây núi non dựng đứng hiểm trở, vực sâu thăm thẳm, hang động ngang dọc, thực tế rất khó tìm thấy một vùng đất bằng phẳng thích hợp để hạ cánh, nhưng dùng một câu tục ngữ của người Trung Quốc các bạn là: Thế gian không có con đường cùng.”

“Vậy ông có cách gì?”

“Phải khống chế được máy bay trước đã, bay về hướng tây bắc, ở đó chắc sẽ có chỗ thích hợp để hạ cánh.”

Hàn Giang lắc lắc đầu, cũng chỉ thế thôi, một phút, hai phút, ba phút… năm phút sau, cuối cùng Makarov và Hàn Giang đã lại khống chế chiếc máy bay như một kỳ tích, tốc độ rơi xuống của máy bay rõ ràng đang giảm, nhưng họ biết máy bay không thể chống cự được quá lâu, họ bắt buộc phải lập tức tìm thấy vùng đất thích hợp để hạ cánh.

5

Máy bay tiếp tục rơi xuống, 3800 mét, 3700 mét, 3600 mét, 3500 mét, 3400 mét… máy bay xuyên qua tầng mây, đột nhiên, Hàn Giang trợn trừng mắt, nói: “Trước mặt có một ngọn núi, mau, mau kéo lên, kéo lên!”

Makarov gần như cùng lúc cũng nhìn thấy đỉnh núi phía trước, ông kéo mạnh cần điều khiển, một bên cánh máy bay và quạt đuôi máy bay điều chỉnh phương hướng, thân máy bay lệch sang bên trái, gần như áp vào sườn núi, vụt qua mỏm núi.

Hàn Giang thở phào nhẹ nhõm, nói: “Ban nãy thật là nguy hiểm!”

Makarov không nói gì, vẫn vô cùng bình tĩnh, nhưng, Hàn Giang đã nhìn thấy vệt mồ hôi ướt đẫm trên trán ông. Đột nhiên, Makarov cười khan hai tiếng kỳ dị, Hàn Giang không hiểu: “Ông cười gì vậy?”

“Tôi đã nói rồi, thế gian không có con đường cùng, cậu xem trước mặt là cái gì?”

Hàn Giang nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay - đồng cỏ trên núi cao! Anh lập tức hiểu ra ý của Makarov: “Ông chuẩn bị hạ cánh xuống đây?”

“Còn có chỗ nào thích hợp hơn chỗ này sao?” Makarov vặn lại.

Hàn Giang gật đầu: “Đúng vậy, ở đây có thể hạ cánh, chỉ có điều…”

“Gì vậy?”

“Chỉ có điều… ông có để ý thấy không, từ góc độ của chúng ta nhìn ra, đồng cỏ trên núi cao này phía trước thì cao phía sau thì thấp, đằng sau lại toàn là bụi rậm, phía sau nữa lại là rừng rậm nguyên sơ. Nếu như chúng ta hạ cánh xuống đồng cỏ, rất có khả năng sẽ lao vào trong rừng rậm, nếu như không khống chế được, đâm vào cây to, hậu quả sẽ…”

“Hiện giờ không quan tâm được nhiều như thế đâu, nhiên liệu sắp hết rồi, đành phải mạo hiểm thôi, anh đi gọi cơ trưởng và mọi người giúp đỡ hành khách thực hiện phương án phòng hộ, ba phút sau, bắt đầu hạ cánh.”

Cơ trưởng dẫn tổ tiếp viên giúp đỡ hành khách chuẩn bị các phương pháp phòng hộ, mọi thứ chuẩn bị xong xuôi, Makarov dán mắt về đồng cỏ trên núi cao phía trước, ông quyết định không thả bánh xe máy bay xuống mà, trực tiếp hạ cánh bằng bụng máy bay. Làm như vậy, có hai nguyên nhân: một là bởi vì bánh xe bên trái đã bị hỏng, chỉ dùng hai bánh xe còn lại hạ cánh thì máy bay sẽ không vững; hai là để tăng độ ma sát, cố gắng hết sức khẩn cấp hạ cánh thành công trong cự ly ngắn, tránh cho máy bay lao vào rừng rậm.

Hàn Giang tính toán qua một chút, cự ly hạ cánh thích hợp của đồng cỏ chỉ chưa đầy 200 mét, tiếp theo đó là dãy bụi rậm hơn 100 mét, sau đó là đến rừng rậm rồi. Makarov điều khiển máy bay hạ cánh chuẩn xác trên đồng cỏ địa hình đổ dốc này, “Xẹt…..két… két!” bụng máy bay cọ xát mạnh vào đồng cỏ, may mà trên đồng cỏ có chút ẩm ướt, tránh khỏi ma sát kịch liệt dẫn đến khả năng tóe lửa.

Nhưng, đồng cỏ vẫn quá trơn, mà chỉ dài không tới 200 mét nên cơ bản không thể khiến máy bay dừng lại được. Máy bay lao thẳng vào bụi rậm, cát bụi, đất đá, củi khô, cành cây cùng lúc cuộn cả lại. Những bụi rậm thấp lè tè đã làm giảm tốc độ của máy bay, nhưng đồng thời cũng cọ vào bụng máy bay làm tóe lửa. Cánh bên trái máy bay nặng trình trịch, một tiếng nổ lớn phát ra, cánh bên trái đứt lìa, thân máy bay đột nhiên nghiêng hẳn sang bên trái, hành khách trong khoang máy bị lắc mạnh văng ra tứ phía, tiếng kêu thét thất thanh, tiếng gào khóc rền rĩ vang lên.

Trong buồng lái, Hàn Giang đã làm theo yêu cầu của Makarov bò rạp người xuống. Makarov ngồi trên ghế cơ trưởng vẫn ra sức khống chế máy bay, hy vọng máy bay không lao vào rừng rậm. Tốc độ của máy bay càng lúc càng chậm lại, nhưng cách rừng rậm cũng càng lúc càng gần rồi. Makarov trợn trừng mắt, con ngươi của ông đang mở to hết cỡ, ông đã có thể nhìn rõ cây đại thụ chọc trời ngay trước mặt…

“Rầm…!” Lại thêm một tiếng nổ lớn, máy bay vẫn không tránh khỏi việc đâm sầm vào cây đại thụ đó, may mà tốc độ lúc này đã chậm lại rất nhiều, sau khi đâm vào thân cây đại thụ, cuối cùng máy bay đã dừng lại. Chính trong giây phút máy bay đâm vào cây đại thụ, một cành cây khô có đường kính to bằng miệng bát, đã đâm vỡ cửa kính máy bay, chọc thẳng vào Makarov, Makarov không kịp né người, bị cành cây khô rạch rách vai, máu chảy đầm đìa.

Mọi thứ đã yên tĩnh trở lại, tiếng động cơ máy, tiếng ma sát giữa bụng máy bay và mặt đất, tiếng gào thét thất kinh, lúc này đều đã biến mất, trong khu rừng rậm nguyên sơ hoang vu này, chỉ còn lại tiếng khóc lóc và tiếng rên rỉ vọng ra từ khoang máy bay.

Hàn Giang lảo đảo nhoài người dậy, cánh tay trái của anh bị một vết rách, nhưng anh không buồn để ý tới điều đó mà lao ngay tới bên cạnh Makarov, hô lên: “Ông không sao chứ?”

Makarov khó nhọc mở to mắt, cố nở một nụ cười: “Tôi vẫn sống,” nói xong ông lại ngất lịm đi.

Hàn Giang thở phào một cái, nhưng ngay lập tức anh phát hiện ra máu vẫn đang tuôn xối xả trên vai của Makarov, anh nói: “Ông đừng cử động, để tôi ra ngoài tìm thuốc cho ông.”

Cú va đập mạnh khiến cho cửa khoang buồng lái đã hoàn toàn bị biến dạng, Hàn Giang mất rất nhiều sức lực, khó khăn lắm mới đạp được cửa ra ngoài. Mọi người trong khoang hành khách đổ nghiêng đổ ngả, người thì đang rên rỉ, người thì đang khóc lóc, chỉ có Đường Phong và tổ tiếp viên, và cả người đẹp cùng đi với Makarov là đã bò dậy. Hàn Giang tìm một chiếc rìu, bổ mạnh vào cửa máy bay, cửa bật ra, một luồng không khí tươi mới lạnh buốt xuyên thấu vào khoang máy bay, đem lại tia hy vọng mới cho tất cả mọi người đang tuyệt vọng trước cái chết.

Hàn Giang là người đầu tiên bò ra khỏi khoang máy bay, trước mắt anh là một vùng rừng rậm âm u. Đối diện với vùng rừng rậm tối đen này, Hàn Giang không biết điều gì đang chờ đợi họ phía trước. Hy vọng được sống sót trở về hay là lại tiếp diễn những ác mộng đáng sợ đây?

6

Tất cả hành khách đều được đưa ra khỏi máy bay, cơ trưởng đếm số người, cộng thêm cả tổ phi công và tiếp viên, tổng cộng có 48 người, không ai thiệt mạng. Đây cũng có thể coi là một kỳ tích không lớn cũng không nhỏ trong lịch sử ngành hàng không rồi, nhưng có mười mấy hành khách bị thương cũng nghiêm trọng, nếu không kịp thời cứu chữa khả năng sẽ nguy hiểm đến tính mạng.

Dưới sự giúp đỡ của Đường Phong, Hàn Giang và Lương Viện, người đẹp tóc nâu dìu Makarov đang hôn mê ra khỏi buồng máy, đặt ông dưới một gốc thông khuất gió. Makarov mở mắt, nhìn Hàn Giang và Đường Phong, rồi lại quay sang người đẹp tóc nâu, miệng lắp bắp: “Yelena, cha không sao đâu, con đừng quá đau buồn.”

Yelena nghe những lời Makarov nói, gật gật đầu, quệt lệ nơi khóe mắt, quay lại máy bay, lấy thuốc và băng gạc ra lau rửa vết thương cho Makarov, sau đó lại băng bó lại. Hàn Giang và Đường Phong cũng túc trực bên cạnh Makarov, nhặt nhạnh cành cây, nhóm một đống lửa, nhiệt độ trên núi chỉ khoảng 4 đến 5 độ, nên chỉ có đống lửa mới có thể đem lại chút hơi ấm cho ông ấy. Chờ Yelena băng bó vết thương cho Makarov xong, Hàn Giang thử hỏi cô ta bằng tiếng Anh: “Cô là bác sỹ à?”

Yelena nhìn Hàn Giang, không trả lời, Hàn Giang tưởng rằng cô gái xinh đẹp lạnh lùng này không biết tiếng Anh, vậy là anh quay sang Đường Phong. Đường Phong hiểu ý, hỏi lại lần nữa bằng tiếng Pháp.

Đường Phong hỏi xong, vẫn chưa thấy Yelena đáp lại, đang định mở miệng hỏi thêm lần nữa thì Yelena liền trả lời bằng thứ tiếng Hán rất trôi chảy: “Đúng vậy, tôi là bác sỹ.”

Hàn Giang và Đường Phong vô cùng bất ngờ, gần như cùng lúc nói: “Cô nói tiếng Trung giỏi vậy sao?”

“Hai anh làm gì vậy?” Yalena hỏi lại.

Hàn Giang cướp lời tự mình giới thiệu trước: “Tôi là Hàn Giang, nghề nghiệp cảnh sát.” Sau đó chỉ Đường Phong: “Anh ấy là Đường Phong, là giảng viên đại học, bạn của tôi, hai chúng tôi tới Tứ Xuyên du lịch.”

“Ồ? Cảnh sát biết lái máy bay? Cảnh sát Trung Quốc các anh đều giỏi vậy sao?” Yelena có vẻ không hề tin vào lời giới thiệu của Hàn Giang.

Hàn Giang thầm tự trách mình, bình thường vốn đầu óc phản ứng nhanh nhạy, nhưng dường như trước người đẹp này anh lại bị mất hồn, sao lại nói làm cảnh sát chứ, ban nãy cứ nói là phi công của công ty hàng không thì có hơn không. Giờ đã đâm lao thì đành phải theo lao, anh cố gắng giải thích: “Trước đây tôi từng phục vụ trong quân đội.”

“Không quân?”

“Không! Hải quân.”

“Hải quân không chiến ư?”

“Ừm! đúng vậy.” Hàn Giang càng giải thích càng không bình thường. Anh bắt đầu nghi ngờ đầu óc của mình, hay là lúc hạ cánh đập vào đâu nên có vấn đề nhỉ?

Hàn Giang ra sức che giấu thân phận của mình, anh đứng thẳng đơ trước mặt Yelena, giống như đứng trước kẻ địch, sợ rằng người đẹp ngoại quốc đứng trước mặt anh lại đặt ra câu hỏi moi móc gì đó, vạch trần thân phận thật sự của anh.

“Cởi áo ra đi.” Yelena đột nhiên ra lệnh.

“Cái gì?” Hàn Giang giật mình không tin vào tai mình.

“Tôi bảo anh cởi áo khoác ra, để tôi băng lại vết thương cho.”

Hàn Giang lúc này mới tỉnh lại, anh cởi áo khoác, để lộ ra cơ bắp rắn chắc, rồi ngồi yên cho Yelena sát trùng, lau rửa, băng bó vết thương trên cánh tay trái. Đường Phong đứng bên cạnh cười đầy ẩn ý, Hàn Giang nghe vậy ngoái đầu, hậm hực lườm Đường Phong một cái.

7

“Cô Yelena, tôi mạo muội xin hỏi cô là người nước nào vậy?” Hàn Giang mở lời.

Lúc này, Yelena đã băng bó vết thương cho Hàn Giang xong, nghe Hàn Giang hỏi, cô kiêu ngạo nhìn thẳng vào anh, hỏi ngược lại: “Ngài cảnh sát tiên sinh, ngài muốn kiểm tra hộ chiếu của tôi sao?”

“Không…” không để Hàn Giang nói hết, Yelena liền lôi cuốn hộ chiếu trong chiếc túi nhỏ mang bên mình ra, “bộp” một cái, cuốn hộ chiếu đã nằm gọn trong tay Hàn Giang. Hàn Giang không ngờ Yelena lại dùng chiêu này, anh hơi sững sờ, nhưng vẫn mở cuốn hộ chiếu của Yelena ra - Yelena Yiluovanuna Makarov, người Nga, nhập cảnh ba ngày trước tại Bắc Kinh.

Nhìn họ tên và tuổi tác, Yelena có vẻ như là con gái của Makarov, Hàn Giang gập hộ chiếu lại, trả cho Yelena rồi hỏi: “Ông lão đó là gì của cô?”

Yelena tỏ ra rất khó chịu với câu hỏi này của Hàn Giang, vẫn với vẻ ngạo mạn, cô nhìn chằm chằm Hàn Giang một cái. Lúc này Makarov đang nằm dưới gốc cây kế bên đã tỉnh lại, thần thái của ông xem ra đã tốt hơn ban nãy rất nhiều. Makarov vươn vươn vai, nói với Hàn Giang và Đường Phong: “Các cậu cứ gọi tôi là Makarov, Ivan Petrovich Makarov, theo thói quen của người Trung Quốc, các cậu cũng có thể gọi tôi là ông Mã, đây là con gái út Yelena của tôi.”

“Makarov tiên sinh, lần này mắc nợ ngài nhiều quá, nếu như không có ngài, hậu quả thật sẽ không thể tưởng tượng nổi.” Hàn Giang cảm kích nói.

Makarov hất hất tay: “Tôi cả đời làm việc trong quân đội đã từng trải qua tình huống như thế này, không ngờ lần này về hưu rồi mà vẫn gặp phải.”

“Ngài cũng từng phục vụ trong quân đội sao?” Hàn Giang hỏi.

“Đúng vậy, tôi phục vụ cho quốc gia 40 năm, cho tới khi về hưu.”

“Trong không quân?”

“Đúng vậy, không quân, phi công, phi công công huân.”

“Vậy thì ngài nhất định đã từng lái chiếc Su-27 rồi?” Đường Phong tò mò hỏi.

“Khà khà, chàng thanh niên, Su-27, Mi-29, hầu hết tất cả những máy bay của gia tộc Mi và gia tộc Sukhoi tôi đều đã lái qua, còn cả máy bay ném bom chiến lược Tu-160, cảm giác đó quả thật quá tuyệt.”

“Ngài cừ quá, từng lái nhiều máy bay như vậy! Thảo nào có thể hạ cánh thành công!” Đường Phong ca ngợi.

“Thế vẫn chưa là gì đâu, tôi còn đã từng lái máy bay của Mỹ nữa!” Makarov chìm đắm trong hồi ức về những ngày tháng huy hoàng đã qua.

“Vậy thì theo ngài, tại sao máy bay của chúng ta sao lại xảy ra sự cố?” Hàn Giang thỉnh giáo, làm đứt quãng hồi ức của Makarov.

“Xem ra có vẻ như là sự cố máy móc dẫn đến động cơ ngừng hoạt động trên không trung, nhưng cũng không thể ngoại trừ khả năng khác.” Makarov phán đoán.

“Khả năng khác?” Đường Phong kinh ngạc.

“Ý ngài là khả năng có người phá hoại?” Hàn Giang hạ giọng nói.

“Không! Tôi chỉ nói không loại trừ bất cứ khả năng nào, nguyên nhân chính dẫn đến máy bay hạ cánh khẩn cấp thì chỉ có đợi ban ngành hữu quan sau khi kiểm tra mới biết được.”

“Nếu như có người phá hoại thì đáng sợ quá!” Lương Viện hoảng hốt nhìn xung quanh.

Đường Phong cũng nhìn xung quanh, đột nhiên anh phát hiện ra cách chỗ họ không xa lắm có hai người đàn ông uể oải đang nằm bò dưới gốc cây thông, Đường Phong tiến lên phía trước hỏi: “Các anh không sao chứ?”

Người đàn ông trung niên đeo kính gọng vàng, xem ra thần sắc vẫn khá ổn, đang nhàn hạ hút thuốc bằng ống tẩu, nghe thấy vậy liền đứng dậy nói với Đường Phong: “Tôi vẫn ổn, chỉ có vị này là rơi từ trên ghế ngồi xuống lúc máy bay hạ cánh.”

“Hai anh đi cùng nhau sao?” Hàn Giang cũng bước lên.

Người đàn ông trung niên lắc đầu: “Tôi quen anh ấy trên máy bay, ghế của chúng tôi cạnh nhau, anh ấy tên là Stephen, từ Mỹ tới, còn tôi, đây là danh thiếp của tôi, mong nhận được sự quan tâm!”

Nói xong, người đàn ông trung niên lấy từ trong túi ra một xấp danh thiếp, kính cẩn đưa cho Đường Phong và Hàn Giang. Đường Phong vừa nhìn thấy tấm danh thiếp này liền chau mày, chỉ thấy tấm danh thiếp to hơn hẳn những danh thiếp thông thường này có in: Tiến sỹ khoa học - Đại học Oxford, tiến sỹ công trình học - Học viện Imperial, tiến sỹ lịch sử học - Đại học Yale, tiến sỹ quản trị kinh doanh - Đại học Columbia, tiến sỹ giáo dục học - Đại học Mátxcơva…

8

Đường Phong cầm danh thiếp, đọc tới nỗi hoa cả mắt, lòng nhủ thầm: kỳ tài vậy sao, mà sao mình từ trước tới nay chưa từng nghe danh nhỉ? Anh đưa mắt chuyển tới dòng cuối cùng của loạt chữ này, “Từ Nhân Vũ? Tiến sỹ Từ?” Đường Phong lẩm bẩm đọc dòng họ tên sau dòng chức danh.

“Chính là tại hạ.” Từ Nhân Vũ tươi cười rạng rỡ nói. Nhưng anh ta lập tức phát hiện ra có chỗ nào đó không bình thường, nên vội vàng móc ra một tấm danh thiếp, đưa cho Đường Phong, bối rối giải thích: “Ồ! Tấm ban nãy là danh thiếp trước đây của tôi, khoe khoang quá, khoe khoang quá, bởi vì lúc đó tôi không hiểu một đạo lý rằng, làm người nên khiêm tốn, nhất định phải khiêm tốn.”

Đường Phong đón lấy tấm danh thiếp mới từ tay Từ Nhân Vũ, thấy trên danh thiếp chỉ còn lại dòng tiêu đề: Tổng giám đốc công ty quốc phòng Tần Bình - tiến sỹ Từ Nhân Vũ.

“Công ty quốc phòng Tần Bình? Chế tạo vũ khí sao?” Hàn Giang hỏi.

“Không! Không! Chỉ là mấy thứ cò con, vớ vẩn thôi, đạn cao su, đạn hơi cay, có lúc cũng sản xuất một ít súng máy các loại. Đối tượng phục vụ của chúng tôi chủ yếu là công ty bảo vệ và phía cảnh sát.” Từ Nhân Vũ giải thích.

“Nói như vậy thì tôi chính là đối tượng phục vụ của anh rồi. Biết chơi súng không?” Hàn Giang cười hỏi Từ Nhân Vũ.

“Biết chút ít, chỉ có điều chơi không giỏi lắm, tôi chủ yếu phụ trách nghiên cứu chế tạo sản phẩm.”

“Tiến sỹ, hình như ở nước ta vẫn chưa có công ty nào như vậy thì phải?” Đường Phong hỏi lại Từ Nhân Vũ.

“Bởi thế nên công ty chúng tôi mới đăng ký ở Mỹ, có văn phòng đại diện tại Singapore, khà khà!” Từ Nhân Vũ giải thích.

“Thế lần này anh tới để…” do tình huống bất ngờ lần này nên với bất kỳ ai Hàn Giang cũng đều đề cao cảnh giác.

“Lần này tôi đến Thành Đô chủ yếu để thăm vài người bạn, không ngờ đến đây… thì xảy ra chuyện! Anh xem, bây giờ điện thoại cũng không gọi được, mấy người bạn của tôi còn chuẩn bị đón tiếp tẩy rửa bụi trần cho tôi nữa đấy!” Từ Nhân Vũ sốt sắng phân trần.

“Đón tiếp tẩy rửa bụi trần? Lùi lại vài ngày cũng không muộn, ít nhất anh cũng giữ được mạng sống của mình rồi!” Hàn Giang nói xong, cúi người xuống xem tình hình vết thương của Stephen. Stephen cắn chặt răng, trán đổ mồ hôi hột, nhưng sau khi Hàn Giang kiểm tra thì kết luận vết thương của Stephen không quá nghiêm trọng, trừ một số vết thương ngoài da, thì có cánh tay trái bị trật khớp. Hàn Giang cười, nói với Stephen: “Tôi thấy anh giống người Trung Quốc, sao lại lấy tên người nước ngoài vậy?”

Vừa hỏi, Hàn Giang vừa thừa lúc Stephen không để ý liền dồn sức, “rắc” một cái, cánh tay trái trật khớp của Stephen đã trở lại bình thường. Hàn Giang đứng dậy, phủi phủi tay nói: “Không sao nữa rồi, đứng dậy đi đi. Nhìn anh là biết thiếu luyện tập thể thao, chút chấn thương này mà cũng đau đến thế sao?”

Stephen dường như không buồn ghi nhận sự giúp đỡ của Hàn Giang, anh ta nhìn chằm chằm Hàn Giang một lúc rồi mới chống cánh tay phải ngồi dậy, mở miệng nói: “Stephen Mã, người Mỹ gốc Hoa,” nói xong câu này, anh ta liền tựa vào gốc cây, nhắm mắt lại, không để ý đến mọi người nữa.

“Người Mỹ gốc Hoa, như vậy nghĩa là anh ta họ Mã?” Đường Phong rì rầm nói nhỏ với Hàn Giang.

Hàn Giang không nói gì cả, anh lại nhìn Stephen một cái rồi cùng Đường Phong quay lại bên cạnh Makarov và Yelena. Lúc này, Lương Viện khó khăn lắm mới tìm thấy ba lô và hành lý của mình trong bộ khung tàn của máy bay, Đường Phong nhìn bộ dạng kéo ba lô và hành lý lôi thôi lếch thếch của Lương Viện liền cười, nói: “Bảo cô đừng có đi, cô lại đòi đi cho bằng được, giờ thì hối hận rồi chứ?”

“Tôi thèm vào hối hận! Bổn cô nương không phải vẫn khỏe mạnh đây sao! Anh đúng là đồ xấu xa, đến mức này rồi mà còn nhiếc móc tôi…” Tuy Lương Viện đã kìm nén, nhưng vừa nói cái đã bật khóc.

Đường Phong nhìn bộ dạng Lương Viện, bỗng nhớ tới lời dặn dò gửi gắm của Lương Dũng Tuyền, thấy có chút ái ngại, anh vội vàng giúp Lương Viện lau nước mắt trên má, và nói: “Đừng buồn nữa, ban nãy tôi chỉ định đùa cô chút thôi, chủ yếu là tôi lo lắng cho thứ trong túi cô kia.”

Đất cát và nước mắt trên mặt Lương Viện đã khiến khuôn mặt vốn xinh đẹp của cô trở nên nhem nhuốc. Sau khi cùng Đường Phong kiểm tra kệ tranh ngọc trong túi xong, cô mới yên tâm trở lại, vừa cười vừa quệt nước mũi.

Đường Phong, Hàn Giang, Lương Viện, Makarov và Yelena năm người chụm lại quanh đống lửa. Đường Phong gọi Từ Nhân Vũ và Stephen lại; Từ Nhân Vũ rất phấn khởi định lao tới nhưng Stephen lại không muốn đi, ngồi im lìm dưới gốc cây. Từ Nhân Vũ bước đi vài bước, quay đầu lại phát hiện ra Stephen vẫn chưa buồn nhúc nhích, đành phải bối rối hất hất tay về phía Đường Phong rồi quay lại bên cạnh Stephen. Stephen và Từ Nhân Vũ cũng nhóm một đống lửa nhỏ, đối diện nhưng cách nhóm của Đường Phong một khoảng xa xa.

“Đúng là đồ dị hợm.” Lương Viện khẽ oán thán.

“Mỗi người đều có cách nghĩ riêng của họ, không nên bắt ép.” Đường Phong nói.

“Chúng ta không thể cứ ngồi đây chờ chết được, phải nghĩ cách để nhanh chóng thoát ra ngoài thôi!” Hàn Giang đột nhiên nói.

Lời của Hàn Giang khiến mọi người cùng chìm trong im lặng. Mọi người không ai bảo ai mà đều cùng lúc hướng mắt nhìn ra xung quanh, xung quanh ngoài rừng rậm thì chỉ có rừng rậm… Hàn Giang ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, trời sắp tối rồi, tầng mây rất thấp, xem ra đêm nay sẽ có mưa, anh bắt đầu hối hận về sự tự tin thái quá của mình. Quả thật, cho dù thế nào đi chăng nữa, cũng nên nghe lời Đường Phong mang theo vũ khí mới phải.

9

Màn đêm đáng sợ kéo đến, nhiệt độ trên núi cao nhanh chóng tụt xuống xấp xỉ 0 độ C, hầu hết hành khách đều mệt mỏi rã rời, họ ngồi quây quanh đống lửa ngủ gà ngủ gật. Đường Phong nhìn Hàn Giang và Lương Viện bên cạnh, hai người đang thở đều đều, hai cha con người Nga dường như cũng đã ngủ say. Đường Phong vươn vai, nhìn về phía Từ Nhân Vũ và Stephen, nhưng anh chỉ có thể nhìn thấy một đống lửa bập bùng, không thấy rõ Từ Nhân Vũ và Stephen. Anh muốn đi tới đó xem sao, nhưng chợt nghĩ lại, hà tất đi làm phiền người khác, vậy là, anh lại tựa vào thân cây phía sau. Anh nhớ lại chuyện ban sáng, thật không ngờ vừa mới xuất phát đã phải trải qua việc đáng sợ đến vậy. Nghĩ mãi nghĩ mãi, cuối cùng Đường Phong cũng từ từ nhắm mắt lại... đang lúc nửa tỉnh nửa mê, Đường Phong đột nhiên nghe thấy một tiếng động. “Soạt... soạt… soạt!” Anh cảnh giác ngồi dậy, mở to mắt, nhìn xung quanh, hóa ra là một con sóc không an phận đã làm kinh động không gian.

Cử động của anh làm Hàn Giang bên cạnh tỉnh giấc, “Anh không ngủ được à?” Đường Phong hỏi Hàn Giang.

Hàn Giang cười đau khổ một tiếng, đáp: “Sao tôi có thể ngủ được lúc này.”

“Tôi cũng mãi không ngủ được...” Đường Phong dụi dụi mắt nói.

“Suỵt!” Hàn Giang lấy tay ra hiệu cho Đường Phong im lặng, ra dấu bảo anh theo mình tới chỗ trũng trên ngọn núi nhỏ bên cạnh để nói chuyện, tránh làm người khác bị thức giấc. Vậy là, hai người đứng dậy, rón ra rón rén đi tới chỗ trũng trên núi.

Đến chỗ trũng đó, Đường Phong mở miệng trước: “Anh thấy tai nạn máy bay ban sáng thế nào?”

“Tai nạn? Cái này thì có gì để nói, động cơ máy bay xảy ra sự cố, kết quả thì đã hạ cánh rồi mà!” Hàn Giang ban ngày chỉ lo cứu người, vốn chẳng có thời gian để nghĩ ngợi nhiều.

“Lẽ nào chỉ đơn giản như vậy sao?”

“Ý cậu là sao? Lẽ nào cậu nghi ngờ có người phá hoại?”

“Tôi không biết, nhưng tôi có một dự cảm không lành.” Nói xong, Đường Phong nhìn nhìn về phía Makarov và Yelena.

“Dự cảm không lành? Tôi thấy cậu bây giờ còn đa nghi hơn cả tôi đấy.” Hàn Giang lắc đầu nói.

“Thì đành chịu, ai bảo tại tôi đi cùng anh mà! Anh xem lại xem những hành khách trên chuyến bay này, ai ai lai lịch cũng khác thường!” Đường Phong lại nhìn về phía Stephen và Từ Nhân Vũ, nhưng chỗ họ đứng vốn không nhìn thấy Stephen và Từ Nhân Vũ.

“Ý cậu nói tới Makarov và Yelena?”

“Còn cả tên Stephen đó nữa, tôi ghét nhất người Trung Quốc mà lại lấy tên tây.”

“Người ta từ bé đã là người Mỹ rồi mà!”

“Ngoài ra, cái tên Từ Nhân Vũ đó, nhìn kiểu gì cũng thấy giống tên buôn lậu vũ khí!”

“Được rồi, đừng nói về họ nữa, hay là chúng ta bàn bạc bước tiếp theo nên làm thế nào đi?” Hàn Giang ngắt lời Đường Phong.

Hàn Giang lấy bản đồ quân dụng tỉ lệ 1:50000 mang theo người ra, dùng luồng ánh sáng từ đèn pin chỉ lên một khu vực nhỏ trên bản đồ, nói: “Trước tiên, chúng ta phải xác định vị trí hiện tại cái đã, theo như kinh độ và vĩ độ của GPS hiển thị, hiện giờ chúng ta đang ở trong vùng khu vực này.”

Đường Phong nhìn theo hướng ánh sáng đèn pin, tìm thấy vị trí mà Hàn Giang đánh dấu - gần kề Tùng Phan thuộc phía tây bắc Tứ Xuyên, ở đây toàn là núi cao ba bốn nghìn mét, rừng rậm bao phủ, vách núi ngang dọc, dân cư thưa thớt. Đường Phong nhìn vào điện thoại của mình, kể từ sau khi hạ cánh cho tới giờ đều không có tín hiệu, càng đáng sợ hơn nữa là nhiệt độ trên núi vẫn đang tiếp tục giảm, Đường Phong rùng mình một cái, nói: “Phía bắc Tứ Xuyên, Tùng Phan, ở đây là khu vực ngụ cư của người Khương cổ đại, giới sử gia đều cho rằng, tổ tiên của người Đảng Hạng chính là từ đây di cư tới phương bắc.”

“Ừm, đây đúng là khu vực mà chúng ta tìm kiếm, rút cuộc máy bay lại hạ cánh xuống đây, đúng là số phận an bài.” Hàn Giang thở dài, nói tiếp: “Hiện giờ, hai chúng ta đợi ở đây không phải là ý hay, phải ra khỏi đây, rời khỏi chỗ này đã.”

“Rời khỏi đây? Sau khi máy bay xảy ra chuyện đã phát đi tín hiệu kêu cứu rồi, tại sao không đợi người tới cứu viện?”

“Đợi người tới cứu viện? Không sai, máy bay đã phát đi tín hiệu kêu cứu, nhưng ở đây đều là núi non trùng điệp, cậu nhìn xem với thời tiết này, tầng mây dày như vậy, một khi trời đổ mưa, chắc chắn mây trên núi sẽ tụ lại dày đặc, thì nhân viên cứu viện khó có thể phát hiện ra chúng ta. Mười mấy người trong số hành khách bị thương cũng khá nặng, nhiệt độ trên núi lại thấp như vậy, thiếu thốn thuốc men, bác sỹ, tôi không dám tưởng tượng, nếu như chờ thêm vài ngày thì hậu quả sẽ đáng sợ như thế nào, bởi vậy hai chúng ta phải ra khỏi đây trước, để báo cáo với thế giới bên ngoài tình hình ở đây. Ngoài ra, để hoàn thành kế hoạch, chúng ta cũng cần phải nhanh chóng ra khỏi vùng núi này.”

Đường Phong hoàn toàn đồng ý với phân tích của Hàn Giang, nhưng anh vẫn phân vân: “Nhưng chúng ta phải đi theo hướng nào đây? Xung quanh toàn là rừng rậm nguyên sơ mênh mông, ngộ nhỡ chúng ta lạc mất phương hướng trong núi…”

Hàn Giang chau mày, im lặng ngẫm nghĩ, đáp: “Chúng ta đi về hướng đông, chắc là có thể tìm thấy đường xe chạy. Không phải lo lắng quá, chúng ta có bản đồ và GPS trong tay, nhất định sẽ tìm thấy đường.”

Hàn Giang và Đường Phong quay lại bên đống lửa, thấy Makarov và Yelena vẫn đang ngủ say nên không đánh động họ mà chỉ khẽ khàng đánh thức Lương Viện, sau đó ba người tới cạnh xác máy bay tìm cơ trưởng. Hàn Giang thuật lại cho cơ trưởng biết về kế hoạch của họ, rồi bàn giao lại cho cơ trưởng các thủ tục. Hàn Giang yêu cầu cơ trưởng tạm thời bảo mật việc ba người họ bỏ đi, tổ chức tốt hành khách trong khi chờ cứu viện, đợi ngày mai khi trời sáng mới tuyên bố với tất cả hành khách tin tức họ đi khỏi đây để tìm kiếm cứu viện.

Giao phó mọi việc cho cơ trưởng xong, Hàn Giang nói với Đường Phong: “Để tất cả những đồ không dùng đến trong túi lại, chỉ mang theo GPS, bản đồ, đèn pin, la bàn và điện thoại.”

Đường Phong chần chừ nói: “Lẽ nào không mang chút đồ ăn gì sao?”

“Không mang, để tất cả thực phẩm và thuốc men lại cho những hành khách khác.”

“Vậy thì chắc cũng phải mang theo một chai nước chứ?”

“Không, khát thì uống nước suối.” Hàn Giang nói như đinh đóng cột.

Đường Phong vừa nghe thấy vậy, suýt nữa lăn ra ngất: “Nhưng muốn tồn tại ở nơi hoang vu thế này cũng phải có vũ khí chứ!”

Hàn Giang vẫn chưa trả lời thì cơ trưởng đã bước tới, đưa cho Hàn Giang một “cậu chàng” bằng sắt đen sì sì, hóa ra là một khẩu súng ngắn kiểu 84 cỡ đạn 7,62 ly, cơ trưởng giải thích: “Đây là súng của cảnh sát hàng không, chuyên dùng để đối phó phần tử khủng bố trên máy bay, chưa chắc đã hợp với các anh, nhưng tôi nghĩ có thể các anh sẽ cần dùng tới nó, trong băng đạn chỉ có 6 viên, nên các anh hãy dùng tiết kiệm chút.”

Hàn Giang vốn định nói với cơ trưởng giữ súng lại để ứng phó tình huống đột xuất phát sinh, nhưng lời vừa đến miệng, anh đã nuốt lại, bởi bản thân anh hiểu rõ rằng, đoạn đường tiếp đây của anh và Đường Phong khả năng còn nguy hiểm hơn nhiều lần.

10

Sớm tinh mơ, trên núi có sương rơi, Đường Phong, Lương Viện và Hàn Giang thu dọn xong xuôi, bắt đầu tiến vào màn sương mù, nương tựa vào bóng đêm che chở, tiến về phía đông bắc. Họ phải vượt qua những dãy núi trùng điệp phía trước, sau đó gắng hết sức nhanh chóng tìm ra bất cứ một điểm dân cư nào, hoặc là tìm ra đường quốc lộ gần nhất.

Núi non hùng vĩ sâu thẳm tối đen, thêm cả sương mù dày đặc, trong rừng cây lại không có lấy một tia ánh sáng, ba người chỉ có thể dựa vào GPS và phương hướng của la bàn. Xuyên qua rừng rậm nguyên thủy không một bóng người, không có đường đi quả vô cùng khó khăn. Gió lạnh, hơi ẩm bao trùm lấy ba người, và cả đói khát cùng sự khủng hoảng trong lòng... chỉ có tiếng chim hót thỉnh thoảng lại văng vẳng khiến họ vẫn còn cảm nhận được chút hơi thở nhân gian.

Không biết đi được bao lâu, phía trước đột nhiên vang lên những tiếng động, Đường Phong và Hàn Giang lập tức kéo Lương Viện cúi người xuống, nấp sát vào thân cây, “Đó là cái gì vậy?” Lương Viện sợ hãi hỏi.

Đường Phong cũng không nhìn rõ phía trước: “Không biết, có lẽ là động vật hoang dã.” Ba người nấp sau gốc cây hồi lâu thì chỉ thấy một con gấu ngựa lực lưỡng xuyên qua sương mù, từ từ xuất hiện trước mặt họ. Cả ba đều nín thở, không dám phát ra tiếng động, sợ sẽ kinh động đến gấu ngựa. Một con, hai con, ba con, bốn con, ngay phía sau lại xuất hiện thêm ba con gấu ngựa một to hai nhỏ nữa. Con gấu ngựa đầu đàn nhìn ngang ngó dọc, thận trọng quan sát xung quanh, cuối cùng, nó chọn một lối nhỏ được tạo thành bởi những dấu chân trước đó để đi xuống núi.

“Hóa ra là bốn con trong gia đình nhà gấu!” Lương Viện thở phào.

“Gấu ngựa ư, đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy con còn đang sống thế này, nó là động vật cần được bảo hộ cấp hai của quốc gia đấy. Vùng núi rộng lớn này chính là thiên đường của các loài động vật hoang dã, ở đây có hàng chục động vật hoang dã quý hiếm sinh sống.” Đường Phong giới thiệu.

“Mọi người xem, ở đây có con đường mòn đi xuống núi.” Hàn Giang chỉ vào con đường gấu ngựa vừa đi ban nãy nói.

Đường Phong quan sát một lúc, nói: “Tôi thấy con đường mòn này không giống lối đi do con người tạo ra, mà có vẻ như bị những động vật hoang dã này giẫm nhiều mà thành. Con đường mòn này dẫn xuống núi, hai ngọn núi ở đây đối diện nhau, dưới núi thường là khe núi và suối nước, khả năng mấy con gấu ngựa này xuống núi uống nước. Hiện giờ trời sắp sáng rồi, vừa vặn là lúc động vật hoang dã xuống núi uống nước.”

Hàn Giang nhìn lên bầu trời, tuy xung quanh vẫn còn sương mù dày đặc, nhưng sắc trời đã sáng dần, họ đã đi được bốn năm tiếng đồng hồ mà không hề hay biết.

“Gấu ngựa đã xuống núi uống nước, vậy thì chúng ta cũng đi uống chút nước thôi!” Lương Viện đề nghị.

Đường Phong xem xét phương hướng, gật đầu đồng ý, vậy là ba người đi theo con đường mòn trong núi, mà gấu ngựa đi qua, từ từ xuống núi. Khoảng 20 phút sau, Đường Phong nghe thấy tiếng nước chảy, dưới chân núi quả nhiên có một dòng suối chảy từ trên núi xuống, tiếng nước róc rách,

Đường Phong lúc này đã quá đói khát đến mức không chịu nổi, nhìn thấy nước suối liền muốn lao ngay xuống, Hàn Giang kéo ngay anh lại: “Cậu quên mất nguyên tắc dã ngoại sinh tồn rồi à?”

“Chưa quên, nước suối này chắc không có vấn đề đâu, anh xem, mấy con gấu ngựa đó vừa uống ở đây xong, chúng chẳng sao cả nên chúng ta cũng có thể uống được mà.” Đường Phong chỉ vào những vết dấu chân động vật hỗn loạn bên bờ suối nói.

Hàn Giang nhìn mấy vết chân, quả thực là dấu chân của gấu ngựa, anh bước lên phía trước, hứng nước suối lên, cẩn thận quan sát hồi lâu, lúc đó mới cùng Đường Phong và Lương Viện phấn khởi uống lấy uống để.

Sau khi uống đã rồi, Đường Phong mới cảm thán: “Ây! Nước suối ngọt lịm thế này, nếu mà có thêm chút hương vị hoang dã nữa thì tuyệt.”

“Cậu nghĩ hay thật đấy! Nghỉ ngơi một lúc, lập tức tiếp tục lên đường.” Nói xong, Hàn Giang cầm bản đồ vừa xem vừa than thở: “Ở đây toàn là núi non hiểm trở, nhìn trên bản đồ thấy một đoạn đường chẳng bao xa, nhưng khi đi thì lại phải vượt qua mấy ngọn núi to.”

“Đúng vậy, thế nên chúng ta muốn thoát ra ngoài được, chắc chắn không phải là chuyện dễ.” Đường Phong than thở.

Hàn Giang lại lôi GPS và la bàn ra, đối chiếu với bản đồ: “May mà con đường chúng ta đang đi này, phương hướng cũng được coi là đúng...” Hàn Giang mới nói được một nửa, đột nhiên khựng lại, Đường Phong ngạc nhiên hỏi: “Anh sao thế?”

Hàn Giang chau mày, lẩm bẩm: “Thế này là thế nào nhỉ? Thiết bị GPS ở đây hóa ra lại không nhận được tín hiệu.”

“Sao lại thế được? GPS nhận tín hiệu vệ tinh, vốn không chịu ảnh hưởng của địa hình.” Đường Phong phản bác.

“Thật là kỳ lạ, nhưng quả thật là không nhận được tín hiệu vệ tinh.”

“Vậy chúng ta không phải toi rồi sao, lạc đường trong ngọn núi to thế này, hậu quả thật khó mà tưởng tượng nổi.” Lương Viện nhìn núi non trùng điệp xung quanh và từng đám sương mù bay lên trên núi, tuyệt vọng nói.

“Đừng nói linh tinh, phương hướng mà chúng ta đi chắc là đúng đấy, GPS ban nãy vẫn còn tín hiệu.” Hàn Giang nói tới câu này, nhưng bản thân cũng không tin tưởng chút nào cả. Tuy anh đã từng gặp rất nhiều kẻ thù lớn mạnh, trải qua bao hoàn cảnh khó khăn phức tạp, nhưng trong hoàn cảnh nguy hiểm như thế này, GPS không nhận được tín hiệu, quả là lần đầu tiên anh gặp phải.

“Nhưng mong là la bàn vẫn có tác dụng!” Đường Phong đặt hết mọi hy vọng vào chiếc la bàn.

Hàn Giang nhìn chiếc la bàn, nói: “Không sai, phương hướng chúng ta đi không sai, theo như hiển thị của la bàn, thượng lưu của dòng suối là hướng tây nam, hạ lưu của dòng suối là hướng đông bắc, chúng ta chỉ cần đi men theo con suối này là có thể ra ngoài được.”

“Đành phải vậy thôi, ít nhất đi men theo suối còn có nước uống.” Đường Phong đồng ý với ý kiến của Hàn Giang, vậy là, ba người tiếp tục đi về phía hạ lưu của dòng suối...
 

hoahongden12

Active Member
Tử Thư Tây Hạ
Quyển 1 - Chương 8: Cốt đạo thăm thẳm

1

Đường Phong, Lương Viện, Hàn Giang ba người men theo con suối chảy dưới vách núi chầm chậm tiến về phía trước, hai bên vách núi dựng đứng cao hàng nghìn mét, đỉnh núi ẩn trong tầng mây, sương mù đêm qua kéo xuống vẫn chưa tan hết, bao trùm cả vách núi, nếu chỉ cách xa 5 mét thôi thì cũng không nhìn thấy nhau rồi. Không biết đi được bao lâu, những giọt nước mưa từ trên không trung tí tách rơi xuống, đường đi càng thêm lầy lội, có những chỗ vốn chẳng có đường, chỉ có suối chảy băng qua.

Lương Viện ca thán: “Lại mưa rồi, thật đúng là đen đủi.”

Hàn Giang không kêu ca gì, mà giống như đang suy nghĩ điều gì đó. Đường Phong hỏi: “Anh đang nghĩ gì vậy?”

“Tôi đang nghĩ con suối này sẽ dẫn đến đâu nhỉ? Đường Phong, cậu có để ý thấy không, hiện giờ dòng suối rộng hơn ban nãy rất nhiều, nước cũng sâu hơn trước.” Hàn Giang nói.

“Điều này không phải rất bình thường sao, dòng suối càng chảy xuống hạ lưu, mặt nước càng rộng, nước cũng càng sâu mà.” Đường Phong thản nhiên đáp lại.

“Tôi cảm giác chỗ này thấp hơn mực nước biển rất nhiều, chúng ta đúng ra đã tới chân vách núi rồi, có lẽ chúng ta sắp ra khỏi ngọn núi này đấy.” Lương Viện nói chêm vào.

“Mong là như thế… ở đây không còn đường đi nữa rồi. Ôi! Vẫn phải xuống nước.” Vừa nói, Đường Phong vừa thử lội xuống suối. Nhưng anh vừa xuống nước toàn thân liền loạng choạng, không nhịn được liền bật ra câu chửi: “Mẹ nó! Không ngờ ở đây sâu hơn ban nãy nhiều thế!”

“Anh nhìn có vẻ văn hóa nho nhã thế mà cũng biết chửi bậy cơ đấy, ha ha!” Lương Viện bám theo sau Đường Phong xuống nước cười hi hi chọc.

Đường Phong đỏ mặt, đáp: “Cô đừng có suốt ngày soi tôi! Đội trưởng mới chuyên nói bậy kìa! Anh ta mà cuống lên là sẽ chửi bậy ngay!”

“Ê! Các người đấu võ mồm, đừng có mà lôi tôi vào, liên quan gì đến tôi chứ!” Hàn Giang cũng vừa nói, vừa lội xuống nước. Đường Phong đi đầu, Lương Viện ở giữa, Hàn Giang phía sau, ba người đi theo hàng dọc, chầm chậm thả người theo dòng suối chảy về phía trước. Trước mặt là từng đám sương mù bay lên, tầm quan sát càng kém, ngoài hai mét toàn là một vùng trắng xóa. Hàn Giang lo lắng cho Lương Viện, bước tới cạnh cô, hai người bám sát theo sau Đường Phong, nhắc nhở Đường Phong cẩn thận. “Suỵt! Hai người nghe xem đây là âm thanh gì?” Tiếng nước chảy rào rào phía trước vọng lại, ba người đứng trong sương mù dày đặc đưa mắt nhìn nhau.

“Không phải tiếng nước chảy sao?” Đường Phong không màng tới, tiếp tục tiến lên phía trước, đột nhiên, Hàn Giang hét lên: “Cẩn thận, phía trước có thác đấy!”

May mà Hàn Giang cảnh báo sớm. Đúng lúc Hàn Giang hét lên “cẩn thận”, Đường Phong vừa trượt chân một cái, theo đà ngã nhào. Dòng suối vốn đang hiền hòa, đến đây đột nhiên trở nên dữ dội, Đường Phong bị dòng nước chảy xiết cuốn lên phía trước. Đường Phong trợn trừng mắt, bởi anh đã có thể nhìn thấy thác nước phía trước mặt. Đường Phong ra sức giãy giụa trong nước, định đứng dậy, nhưng so với dòng nước đang chảy xiết thì sức lực của anh thật quá mong manh, Đường Phong mở to mắt bất lực nhìn mình bị dòng nước xiết cuốn trôi, thác nước trước mặt đã càng lúc càng gần rồi…

Hàn Giang bảo Lương Viện đứng nguyên chỗ cũ đừng di chuyển, còn mình thì bất chấp tất cả lao lên phía trước. Đúng trong giây phút Đường Phong bị dòng nước đẩy xuống thác, cánh tay tráng kiện của Hàn Giang đã tóm được cánh tay trái của Đường Phong, cánh tay còn lại thì tóm chặt vào một tảng đá to trong dòng nước.

Cơ thể Đường Phong treo lơ lửng giữa không trung, anh đảo mắt nhìn xuống phía dưới, đầu óc quay cuồng, phía dưới là những tầng sương mù dày đặc, vốn chẳng nhìn rõ sâu đến mức nào, có lẽ chính là… vực sâu vạn trượng!

“Cố gắng bám lấy!” Hàn Giang hét về phía Đường Phong.

“Tôi… tôi sắp không gắng được nữa rồi!” Đường Phong cảm thấy cánh tay trái của mình đã tê cứng tự bao giờ.

“Cánh tay kia, dùng cánh tay kia tóm lấy vật gì đó, cành cây, đá, cái gì cũng được…”

Đường Phong ra sức vẫy đập cánh tay phải trong không trung, anh muốn tóm lấy vật gì đó, đó có lẽ chính là ngọn cỏ cứu mạng của anh.

2

“A!...” tiếng kêu thảm thiết của Đường Phong, Hàn Giang nhắm mắt lại, trong lòng cũng đột ngột nặng trĩu, Lương Viện càng gào khóc thảm thiết, đến ngay cả Đường Phong cũng cho rằng mình đã rơi xuống vực sâu vạn trượng. Đợi tới khi Hàn Giang mở mắt ra thì lúc này mới phát hiện rằng Đường Phong đã dùng tay phải tóm được một bụi gai ven bờ. Bụi gai đâm xuyên vào da thịt của Đường Phong, máu tươi chảy theo cánh tay phải của Đường Phong từ từ nhỏ xuống tong tỏng.

Hàn Giang dùng chân bám chặt vào tảng đá to, đưa cánh tay còn lại ra, hai tay cùng tóm lấy cánh tay trái của Đường Phong, nói: “Nào, hai chúng ta cùng dùng sức nhé!”

Đường Phong gật gật đầu, hai người cùng dồn sức, một người ra sức kéo, một người ra sức bò lên trên, năm phút sau, rút cuộc Hàn Giang cũng lôi được Đường Phong lên. Hai người sức cùng lực kiệt, nằm sõng soài trên thảm cỏ bên bờ suối.

“Cảm ơn anh, anh lại cứu tôi thêm một lần nữa.” Đường Phong nhìn lên bầu trời mây mù bay lượn, thở hổn hển nói.

“Cảm ơn gì chứ! Nếu như là tôi rơi xuống đấy, tôi nghĩ cậu cũng sẽ làm như vậy thôi.”

Hai người nằm trên thảm cỏ hai mươi phút mới hồi phục lại. Đường Phong nhìn Lương Viện đang đờ đẫn cả người, mắng: “Đã thấy ngốc chưa? Cứ đòi đi theo chúng tôi cho bằng được cơ; nếu cô mà là tôi lúc nãy, nộp cái mạng quèn ở đây, đến lúc đó, cha cô sẽ đau lòng đến nhường nào!”

“Anh lại nói tôi như vậy rồi, thế mà vừa nãy tôi còn phí công lo lắng cho anh cơ đấy!” Lương Viện nghẹn ngào hét lên với Đường Phong.

“Hai người đừng cãi vã nữa, bây giờ nói cái gì có ích chút đi, đã đến đây rồi thì không ai được bỏ ai!” Hàn Giang lớn tiếng gầm lên, hét xong lại hạ giọng lẩm bẩm: “Tôi mới là đen đủi đây này, gặp nguy hiểm không nói làm gì, lại còn phải chăm sóc các người, ngoài ra còn phải làm người hòa giải cho các người nữa chứ! Phải đoàn kết, hiểu chưa hả?”

Hàn Giang vừa nói lại vừa gằn giọng, Đường Phong và Lương Viện cùng nhìn nhau, không dám nói thêm gì nữa. Hàn Giang nhóm một đống lửa, hong khô quần áo của anh và Đường Phong, rồi lại giúp Đường Phong xử lý vết thương trên tay, khi xong xuôi mọi việc thì cũng đã tới trưa, sương mù trong khe núi bắt đầu dần dần tản đi.

Ba người bụng trống rỗng, Hàn Giang đi một vòng xung quanh, rồi chỉ dùng một con dao quân dụng Thụy Sỹ mang theo bên người mà đã bắt được một con sóc xuống suối uống nước. Hàn Giang thuần thục xử lý con sóc sạch sẽ xong, gác lên ngọn lửa bắt đầu nướng, vừa nướng vừa cười nói với Đường Phong: “Giờ thì mơ ước của cậu thành sự thật rồi nhé, thịt thú rừng cũng có rồi đây, nào, nếm thử một miếng trước đi.”

Vừa nói, Hàn Giang vừa cắt một miếng thịt sóc đưa cho Đường Phong. Đường Phong nếm thử một miếng, chau mày nói: “Mùi vị thật là chẳng ra sao cả!”

“Thôi đi, có ăn là tốt rồi, còn chưa bảo cậu ăn sống đấy!” Hàn Giang cười nói.

Đường Phong vừa nghe thấy Hàn Giang nhắc đến hai từ “ăn sống”, nhớ lại con rắn mà Triệu Vĩnh bắt mình ăn lúc trước, dạ dày lại muốn cuồn cuộn hết cả lên.

Tuy mùi vị không ngon, nhưng Hàn Giang và Đường Phong vẫn chén từng miếng thịt sóc, Lương Viện lặng lẽ nhìn hai người nhưng không ăn lấy một miếng. Hàn Giang thấy vậy, quan tâm hỏi: “Sao cô không ăn đi?”

Lương Viện chau mày lắc lắc đầu: “Từ trước tới nay tôi không ăn những con vật nhỏ này, các anh tàn nhẫn quá.”

Hàn Giang nghe thấy vậy, bó tay lắc đầu. Đường Phong lạnh lùng cười: “Nhìn cái là biết đại tiểu thư con nhà giàu, cô không ăn gà, không ăn vịt chắc! Lại còn động vật nhỏ với chả động vật to, quá tàn nhẫn. Bây giờ cô vẫn chưa tới lúc thật sự đói, đợi đến khi đói sắp chết, cái gì mà cô chẳng ăn, rắn, ếch, thằn lằn đều…”

“Thôi đi! Thôi đi! Anh đừng nói nữa, buồn nôn quá…” Lương Viện hét lên, ngắt lời Đường Phong.

“Suỵt! Đừng nói nữa!” Hàn Giang đột nhiên lấy tay ra hiệu im lặng.

“Sao thế…” Đường Phong thì thào hỏi.

“Có người!”

“Có người?”

“Cậu nghe, phía trên dòng suối có động tĩnh…”

Ba người im lặng, dỏng tai nghe, quả nhiên, phía trên dòng suối vọng lại tiếng cành cây gẫy và cả tiếng bước chân lạo xạo, giữa đó còn lẫn cả tiếng người nói chuyện.

3

Hàn Giang hất hất tay về phía Đường Phong và Lương Viện, ra hiệu cho họ nấp vào bụi cỏ cạnh đó, còn mình thì lôi khẩu súng ngắn 84 ra, lùi vào bụi cỏ, cảnh giác nhìn lên phía trên dòng suối.

“Có khi nào là người trên máy bay không nhỉ?” Đường Phong ghé sát tai Hàn Giang, khẽ hỏi.

“Tôi cũng nghĩ như vậy… Nếu tôi không nghe lầm thì là hai người.”

“Hai người? Makarov và Yelena?”

“Ngộ nhỡ không phải người trên máy bay thì sao?” Lương Viện đột nhiên hoảng hốt hỏi.

Đường Phong quay lại nhìn Lương Viện, không trả lời, bởi anh không dám nghĩ tiếp. Trên ngọn núi rộng lớn không một bóng người này, ngoài hành khách trên máy bay ra, còn có ai được nữa? Đường Phong mở to mắt nhìn chằm chằm về phía trước, sương mù trong khe núi trước mặt vẫn chưa tản đi hết, tiếng bước chân của hai người đó càng lúc càng rõ rệt, tim anh đập thình thịch theo tiếng bước chân của họ. Năm phút sau, Đường Phong rút cuộc đã nhìn rõ hai người bước ra từ trong sương mù đó, hóa ra là Từ Nhân Vũ và Stephen.

Hai người một trước một sau, men theo con đường ban nãy Đường Phong đi qua, đi tiếp xuống dưới. Gần như cùng lúc với Đường Phong và Hàn Giang phát hiện ra họ, Từ Nhân Vũ và Stephen cũng phát hiện ra ba người, Từ Nhân Vũ liền cao giọng hét lên: “Tôi đã bảo là chắc chắn các anh sẽ men theo con đường này đi xuống dưới, Stephen còn không tin.”

“Sao các anh không ở chỗ cũ đợi cứu viện, chạy tới đây làm gì vậy?” Hàn Giang nghiêm giọng trách móc.

Từ Nhân Vũ bị lời trách móc của Hàn Giang làm cho cứng họng, không thốt lên được câu nào, ngược lại Stephen thì lườm Hàn Giang một cái, chẳng ôn hòa cũng chẳng nổi nóng đáp lại: “Cảnh sát Hàn, chúng tôi cũng không phải là phạm nhân, các anh có thể xuống núi, tại sao chúng tôi không thể?”

Lúc này đến lượt Hàn Giang cứng họng, Đường Phong vội chêm lời: “Không phải chúng tôi quản lý các anh, mà là chúng tôi lo lắng cho sự an toàn của các anh, ở đây môi trường phức tạp, hoang vu không một bóng người, rất dễ xảy ra chuyện, các anh ở lại trên núi, đợi cứu viện thì sẽ an toàn hơn.”

“Ở trên núi, đợi cứu viện?” Stephen ngẩng đầu nhìn lên trời nói: “Trên núi đã hoàn toàn đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, trong cái thời tiết quái quỷ này, anh hy vọng sẽ có người phát hiện ra chúng tôi sao? Đừng nằm mơ nữa. Ở trên núi, nếu không chết vì lạnh thì cũng chết vì đói, hoặc thành bữa tối của thú hoang! Không muốn chết thì chỉ còn cách tự mình ra khỏi đây.”

“Không sai, thời tiết kiểu này rất khắc nghiệt, nhân viên cứu hộ rất khó để phát hiện ra chúng ta, thế nên mấy người chúng tôi mới xuống núi tìm cứu viện bên ngoài.” Hàn Giang giải thích với Stephen.

Stephen thoáng sững sờ, nói: “Vậy thì chúng tôi trách nhầm anh rồi, tôi còn cho rằng bọn anh bỏ chạy hết rồi cơ?”

“Chạy hết rồi? Nghĩa là sao?” Hàn Giang không hiểu.

“Hai cha con người Nga cũng không thấy đâu cả!” Từ Nhân Vũ nói chen vào.

“Cái gì? Makarov và Yelena cũng không thấy đâu cả?” Đường Phong ngạc nhiên nhìn Stephen và Từ Nhân Vũ.

Từ Nhân Vũ gật gật đầu nói: “Chúng tôi vừa ngủ dậy thì phát hiện ra cạnh đống lửa của các anh đã chẳng còn một ai. Chúng tôi tưởng rằng năm người bọn anh cùng nhau xuống núi, Stephen thì bảo rằng các anh không đi cùng nhau; quả nhiên, Stephen đã nói đúng, các anh không đi cùng họ.”

“Tôi đã nói từ trước là hai cha con người Nga đấy không hề đơn giản.” Hàn Giang khẽ lẩm bẩm nói.

“Đúng vậy! Cái ông lão lái máy bay đó, chắc chắn không phải người bình thường.” Stephen đột nhiên nói giọng kỳ quái khó hiểu.

“Vậy cậu đến Trung Quốc làm gì vậy?” Hàn Giang quay ngoắt lại, hỏi thẳng Stephen.

Stephen bỗng thoáng sững sờ, ngập ngừng một lúc mới chậm rãi nói: “Xem ra anh cũng rất hứng thú với tôi đấy nhỉ.”

“Đúng vậy, tôi hứng thú với tất cả mọi người xung quanh, đặc biệt là sau khi máy bay rơi.” Hàn Giang nhìn Stephen nói.

“Được rồi! Nếu như ngài hứng thú, tôi có thể nói với ngài, lần này tôi tới Trung Quốc là vì cha tôi. Cha tôi là một Phật tử thành kính, ông luôn muốn thỉnh một bức tượng Phật từ trong nước về. Ông đã nhiều tuổi rồi, không đi được nữa, nên lần này tôi tới đây là để hoàn thành tâm nguyện của phụ thân.” Stephen bình tĩnh nói.

Hàn Giang không nghe thấy bất cứ sơ hở nào trong lời nói của Stephen và Từ Nhân Vũ, năm người ngồi quây quanh đống lửa. Stephen và Từ Nhân Vũ nếm món thịt sóc của Hàn Giang, Từ Nhân Vũ lấy một ít đồ ăn trong túi của mình ra chia cho Lương Viện.

4

Năm người đã nghỉ ngơi xong xuôi, chuẩn bị tiếp tục xuất phát. Đường Phong nhìn thác nước dưới chân, băn khoăn nói: “Trước mặt là thác nước, hai bên suối cũng không có đường để đi, chúng ta xuống thế nào đây? Trừ khi có công cụ leo vách đá.”

“Đừng nghĩ tới công cụ leo vách đá nữa, hay là xem xem hai bên núi có đường để đi không đã!” Hàn Giang chau mày, quan sát hai bên núi.

“Ở đây vết tích con người còn chẳng thấy, lấy đâu ra đường?” Đường Phong miệng lẩm bẩm.

“Cậu xem, đó là cái gì?” Hàn Giang đột nhiên hét lên rồi chỉ về một vùng um tùm trên sườn núi phía bên trái.

Đường Phong nhìn theo hướng tay Hàn Giang chỉ, kinh ngạc khi phát hiện thấy vị trí trên lưng chừng núi có một chỗ bằng phẳng, một vùng cây cỏ rậm rạp um tùm, thấp thoáng hiện ra chút màu xám kỳ lạ, hình như còn có cả một làn khói từ đó bay lên. “Ở đó hình như có nhà! Có lẽ là nhà của thợ săn.” Đường Phong suy đoán.

“Cầu cho ở đó có người ở, có người dẫn đường, chẳng mấy chốc chúng ta sẽ có thể đi ra khỏi núi.” Hàn Giang nói.

Mọi người nghi ngờ quay sang nhìn nhau, sau đó cả đoàn bắt đầu di chuyển hướng về phía lưng núi. Trên đường đi, Đường Phong cảnh giác quan sát xung quanh, mọi người đều cố gắng phát ra tiếng động nhỏ nhất. Nửa tiếng sau, khi họ leo tới lưng chừng núi, tất cả mọi người đều ngây cả ra vì ngạc nhiên… Hiện lên trước mặt họ không phải là nhà của thợ săn mà là một kiến trúc hùng vĩ được tạo thành bởi toàn bộ những viên đá màu xám được xếp chồng lên nhau. Toàn bộ tường bên ngoài tòa nhà đều bị dây leo phủ kín, xem ra từ rất lâu rồi không có người ở đây. Giữa vùng núi không một bóng người này, tòa nhà hiện lên vô cùng âm u đáng sợ, và làn khói dưới chân núi thấy thấp thoáng ban nãy lúc này đã không còn nữa.

“Đây là cái gì nhỉ?” Lương Viện kinh ngạc hỏi.

Sau mấy phút quan sát, Đường Phong nói như đinh đóng cột: “Khương Trại! Một tổ hợp quy mô hùng vĩ, nhưng… nhưng hình như là Khương Trại này đã bị bỏ hoang từ rất lâu rồi.”

“Khương Trại?”

“Đúng vậy, Khương Trại, là nơi ở của người Khương cổ! Đây là một tòa Khương Trại vô cùng điển hình, xây dựa vào núi, tầm vóc oai hùng. Kiến trúc tổng thể có bốn tầng, phân thành hai bên, mỗi bên đều có một vọng gác sừng sững, chính là hai cái tháp cao hình vuông giống ống khói kia kìa.” Đường Phong vừa nói vừa chỉ cho mọi người xem.

Hàn Giang gật gù: “Nhưng trên núi cao không một bóng người thế này, sao lại có tòa Khương Trại quy mô hùng vĩ đến như vậy?”

“Có lẽ là do người xưa để lại, sau này thành hoang phế! Từ hình dáng và cấu tạo của tòa Khương Trại này cho thấy, nó không phải là một Khương Trại bình thường, mà là một quan trại đã được thiết kế xây dựng tinh xảo, hoàn chỉnh.” Đường Phong suy đoán.

“Quan trại? Có phải là phủ đệ của thổ ty[7] ở khu vực Tây Nam trước đây không?” Stephen đột nhiên hỏi.

Đường Phong gật đầu, đáp: “Đúng vậy, bắt đầu từ đời Nguyên, trung ương triều đình đã thiết lập chế độ thổ ty tại khu vực dân tộc Tây Nam, do thủ lĩnh bộ tộc địa phương thống lĩnh những bộ tộc nhỏ hơn, đồng thời duy trì hình thức cha truyền con nối. Triều Minh và triều Thanh cũng tiếp tục sử dụng chế độ thổ ty. Sau đó bắt đầu từ thời hoàng đế Ung Chính triều Thanh, triều đình nhà Thanh đã thực hiện rộng rãi chính sách “cải thổ quy lưu”, cử quan viên xuống địa phương trấn áp, từng bước thay thế thổ ty cha truyền con nối. Nhưng những thổ ty này tại khu vực Tây Nam vẫn rất lớn mạnh, nên chính sách ‘cải tổ quy lưu’ của triều đình đã không được thuận lợi. Mãi cho tới tận thời kỳ Dân quốc, khu vực Tây Nam vẫn còn không ít thổ ty, chế độ thổ ty tiếp tục kéo dài tới thời kỳ tân Trung Quốc mới diệt vong. Tòa Khương Trại trước mặt chúng ta được xây dựng rất tinh xảo, trải qua bao năm tháng vẫn bảo tồn hoàn hảo. Nhìn lại vị trí của Khương Trại có thể thấy có suối chảy dưới núi. Hiện giờ nước không lớn, nhưng nếu như là mùa hè, nước suối chảy xiết, phía dưới sẽ là thác nước, khe núi. Người Khương thích xây dựng Khương Trại cạnh vực sâu không có đường đi như thế này vì sống ở trên cao như thế, dễ phòng thủ khó tấn công. Bởi vậy tôi phán đoán, đây từng là một tòa quan trại của thổ ty dân tộc Khương.”

“Tòa Khương Trại này được xây dựng từ thời nào? Đến thời nào thì hoang phế nhỉ?” Từ Nhân Vũ tò mò hỏi.

Đường Phong lắc lắc đầu: “Cái này thì không biết được, có lẽ chỉ có vào bên trong mới có thể nhìn ra vết tích.”

Mọi người lục tục kéo nhau đi về phía Khương Trại, đột nhiên, một tảng đá trong bụi cỏ thu hút sự chú ý của Đường Phong. Đường Phong chỉ vào tảng đá nói với mọi người: “Mọi người xem, tảng đá này giống như đã từng được ai đó mài giũa vậy.”

“Ồ!” Tất cả đều ngạc nhiên. Đường Phong vuốt lớp bụi trên bề mặt tảng đá, quan sát hồi lâu, nói: “Tôi có thể khẳng định, đây là một tấm bia đá, ban đầu chắc là được dựng ở gần đó, sau này bị đẩy đổ biến thành tấm bia gãy.”

“Vậy trên tấm bia chắc là có văn tự rồi?” Từ Nhân Vũ hỏi Đường Phong.

Đường Phong gật đầu, nói: “Chắc là có, nhưng nhìn trên mặt này có vẻ không có văn tự, có lẽ mặt có văn tự bị lật úp ở mặt dưới rồi.”

Vừa nói, Đường Phong vừa cúi người, dùng sức lật tấm bia đá lên, mọi người vây quanh chăm chú quan sát, nhưng mặt còn lại của tấm bia tàn cũng trắng trơn, rõ ràng là không có vết tích hay chữ gì được khắc lên.

“Đường Phong, hay là cậu phán đoán nhầm rồi?” Hàn Giang nghi ngờ hỏi Đường Phong.

Đường Phong cũng bắt đầu có chút lung lay, anh nhìn chằm chằm tấm bia tàn trên đất, miệng lẩm bẩm: “Lẽ nào đây là một tấm bia không có chữ?”

Mọi người tản ra, lại tìm kiếm hồi lâu trong bụi cỏ, nhưng không thấy phần còn lại của tấm bia tàn. “Kiểu này chắc chúng ta phải vào trong để thám hiểm thì mới biết rút cuộc thế nào được.” Hàn Giang tự lẩm bẩm. Đường Phong im lặng không lên tiếng, anh chăm chú nhìn về phía Khương Trại, nó giống như một mê cung trước mặt, sự nghi vấn dậy lên trong lòng anh, còn Hàn Giang thì bỗng vô thức lần sờ khẩu súng ngắn 84…

5

Khi tới gần Khương Trại, Đường Phong ngẩng đầu nhìn lên Khương Trại phía trước mặt, giới thiệu với mọi người: “Thường thì tầng một của Khương Trại không có người ở, chủ yếu dùng để quây nuôi gia súc; tầng hai mới là chỗ sinh hoạt chủ yếu, cũng là chỗ thờ cúng bài vị của tổ tiên; tầng ba cũng là nơi sinh hoạt, thường dùng để cất trữ lương thực cùng những vật phẩm khác; tầng bốn thường là một ban công, cũng chủ yếu là nơi để đón ánh sáng. Mọi người xem tòa Khương Trại này vô cùng hoàn mỹ: cửa sổ mỗi tầng đều không giống nhau; cửa sổ tầng một gọi là ‘địa song’ - cửa sổ dưới đất, cửa sổ tầng hai và tầng ba gọi là ‘hoa song’ - cửa sổ hình hoa, cửa sổ nhỏ cạnh hoa song là ‘đẩu song’, cửa sổ có hình dáng đặc biệt trên ban công tầng bốn giống như sừng dê, tên trước đây là ‘dương giác song’, trên ban công còn có một loại ‘thăng song’, chính là tên gọi cổ của cửa sổ trời mà chúng ta biết, ánh sáng của trung tâm Khương Trại chính nhờ dựa vào thăng song này.”

“Vọng gác ở Khương Trại là để làm gì vậy?”

“Khương Trại không giống với những nhà dân thông thường chính là ở tính năng phòng ngự quân sự rất mạnh của nó. Thời cổ, những khu vực biên cương thế này vốn không yên bình. Để phòng ngừa kẻ địch tấn công, các Khương Trại đều xây dựng vọng gác. Tác dụng quan trọng nhất của vọng gác và ban công trên tầng bốn là để quan sát tình hình của địch từ xa, đề phòng kẻ địch tấn công.”

Hàn Giang ngẩng đầu nhìn lên vọng gác hai bên, những vọng gác này hoàn toàn được chồng lên bằng đá cao, sừng sững chọc lên tận chân mây. Quỷ phủ thần công nào mà lại có thể khiến người Khương cổ dùng những công cụ thô sơ xây dựng lên chiếc vọng gác cao to nhường vậy! Đột nhiên, mắt Hàn Giang lóe lên bởi một tia sáng, Hàn Giang kinh ngạc nói: “Mọi người xem, trên vọng gác phía đông hình như có người?”

Đường Phong nhìn về vọng gác phía đông, chẳng thấy gì cả. Anh nhìn lên đỉnh vọng gác bị mây khói che phủ, lắc đầu nói: “Không thể, trong núi sâu không một bóng người thế này, không thể có người vẫn sống trong tòa Khương Trại này được. Bên trong vọng gác đều là cầu thang và sàn được làm bằng gỗ, bao nhiêu năm qua gió thổi mưa rơi cũng mục nát từ lâu rồi, chắc chắn chẳng ai có thể leo lên trên vọng gác đó được.”

Hàn Giang bước nhanh tới trước cửa tầng hai Khương Trại, nghiêng người đẩy một cái, một tiếng “cót két” vang lên, tấm cửa to nặng trình trịch được bọc sắt bên ngoài đã mở ra. Phòng khách trên tầng hai tối om om, chỉ có tia nắng chói mắt từ một lỗ thủng trên chóp nhà chiếu thẳng xuống, chiếu rọi lên chiếc cột trung tâm chống đỡ cả Khương Trại. Đường Phong bám sau Hàn Giang, tới chính giữa phòng khách tầng hai, ngẩng đầu nhìn lên lỗ thủng trên chóp nhà, ngắm nghía hồi lâu, sau đó, ánh mắt anh lần theo chiếc cột trung tâm to lớn này từ từ di chuyển xuống phía dưới.

“Cái lỗ thủng đó chính là ‘thăng song’ mà ban nãy cậu vừa nói?” Hàn Giang hỏi Đường Phong.

“Ừm! Thiết kế thật khéo léo.” Đường Phong dần dần di chuyển ánh mắt xuống chân cột, mắt anh chợt sáng lên, chỉ xuống chân cột nói với mọi người: “Mọi người xem, phía dưới chiếc cột này hình như có chữ!”

Nhờ ánh sáng chiếu xuống của thăng song, mọi người phát hiện ra dưới chân chiếc cột trung tâm quả nhiên có khắc một dòng chữ: “Đại Minh Hồng Vũ nhị thập thất niên, hoàng đế bệ hạ vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế.”

“Sao lại là chữ Hán?” Lương Viện không hiểu hỏi.

Đường Phong suy ngẫm hồi lâu, suy đoán nói: “Tôi nghĩ chắc đây chính là niên đại chuẩn xác của kiến trúc Khương Trại. Nghe nói sau khi Tây Hạ bị diệt vong, từng có một nhánh người Đảng Hạng vì trốn chạy sự truy sát của chính quyền Nguyên Mông, nên đã trở lại nơi khởi nguồn của người Đảng Hạng, chính là trong vùng núi Tây Bắc mênh mông của Tứ Xuyên này. Trong suốt thời kỳ nhà Nguyên, họ đều không dám xuất đầu lộ diện, bởi vậy mãi tới năm Hồng Vũ thứ hai mươi bảy, cũng chính là sau mấy chục năm kiến lập triều Minh, nhóm người Đảng Hạng này mới biết triều Nguyên đã bị diệt vong. Cũng đến lúc đó thế giới bên ngoài mới biết tới sự tồn tại của đám người này, nên triều Minh lúc này mới sắc phong thủ lĩnh của nhóm di dân Đảng Hạng là thổ ty và họ đã xây dựng lên tòa Khương Trại quy mô hùng vĩ này.”

“Đây là lịch sử, hay là sự suy đoán của anh?” Từ Nhân Vũ hỏi Đường Phong.

“Vừa là lịch sử, cũng vừa là suy đoán, bởi đoạn mật sử này đã chìm đắm trong dòng sông lịch sử từ rất lâu đời.” Đường Phong nói xong lại nhìn lên chiếc cột trung tâm, lẩm bẩm nói: “Vậy mà chúng ta lại tìm thấy một tòa Khương Trại cổ kính như thế này!”

Hàn Giang bật đèn pin lên nhìn một lượt khắp nơi: xung quanh phòng khách có bảy cánh cửa lớn đóng kín mít.

“Những cánh cửa này thông ra đâu nhỉ?” Hàn Giang khẽ hỏi.

“Chỉ có mở cửa ra chúng ta mới biết được.” Đường Phong suy tư nói.

Đường Phong vừa dứt lời, từ trong cánh cửa đầu tiên phía bên trái họ, đột nhiên vang lên một tiếng ‘pai’ lanh lảnh, khiến mọi người lập tức trở nên cảnh giác…

6

Đường Phong lấy tay ra hiệu cho Lương Viện, Từ Nhân Vũ và Stephen ở lại trên tiền sảnh của phòng khách tầng hai, còn mình thì rút súng ra cùng Hàn Giang tới sát cánh cửa thứ nhất bên trái. Cánh cửa này cũng không khóa, bên trong cánh cửa vô cùng yên tĩnh, không có bất cứ âm thanh gì. Hàn Giang duỗi thẳng tay về phía Đường Phong, đưa tay theo chiều ngang hai lần, đây là ngôn ngữ bằng tay mà bộ đội đặc chủng sử dụng, ý nghĩa của động tác này là “tiến vào”.

Đường Phong lấy tay ra hiệu “hiểu rõ” cho Hàn Giang. Hàn Giang dùng ngón tay ra hiệu đếm từ một đến ba. Đường Phong một chân đạp tung cửa, Hàn Giang cầm súng xông vào trước, Đường Phong bám sát theo sau, nhưng tới khi họ xông vào thì thấy bên trong không có người, chỉ có một con mèo đen đang ngồi trên cầu thang xoắn ốc bằng gỗ thông xuống tầng dưới - ban nãy chính là cậu chàng này gây ra tiếng động.

“Ở đây sao lại có mèo nhỉ?” Đường Phong thở dài.

Hàn Giang vẫn duy trì cảnh giác, khẽ nói: “Tôi thấy ánh mắt của con mèo này rất kỳ quái.”

“Ánh mắt mèo thì có gì kỳ quái?”

“Không biết. Cầu thang này dẫn tới đâu?”

“Chắc dẫn xuống tầng một, cũng có thể thông lên vọng gác.”

“Nào, cùng tôi xuống thử xem! Nếu cậu không muốn trở thành mục tiêu thì tốt nhất hãy tắt đèn pin đi.” Sự nhắc nhở của Hàn Giang khiến Đường Phong hoảng sợ, toàn thân mồ hôi đầm đìa, anh vội vàng tắt đèn pin.

Trong bóng tối, hai người rón ra rón rén, men theo cầu thang tối om mò xuống dưới, đi được chưa tới chục bước, sau lưng bỗng vang lên một tiếng “pâng” đập mạnh. “Toi rồi, cửa bị đóng lại rồi!” Đường Phong lần này phản ứng rất nhanh, tức tốc bật đèn pin lên, soi thẳng vào cửa. Cửa chính đã bị đóng lại, con mèo đen cũng không nhìn thấy nữa.

Tim gan Đường Phong cũng treo ngược cả lên, anh quay đầu nhìn Hàn Giang, mặt Hàn Giang sầm xuống, không nói một lời, họ quay lại phía cửa, lại hành động giống như lúc tiến vào, một, hai, ba… cửa mở rồi, trong phòng khách vẫn nguyên xi như cũ, chỉ có điều - ba người Lương Viện, Từ Nhân Vũ và Stephen không thấy đâu nữa.

“Họ đâu rồi?” Đường Phong kinh ngạc hỏi.

Hàn Giang lên đạn, cảnh giác quan sát xung quanh. Cửa chính Khương Trại đã bị đóng, tất cả cửa phòng xung quanh cũng đều đóng. Hàn Giang giương súng đi về phía vị trí Lương Viện ban nãy đứng đợi, đột nhiên, từ trong cánh cửa thứ hai bên trái vọng ra tiếng kêu yếu ớt: “Đường Phong, tôi ở đây, mau tới cứu chúng tôi…”

Đây là tiếng kêu cứu của Lương Viện! Hàn Giang một bước lao nhanh tới trước cửa, dồn sức đâm sầm vào cánh cửa đó, cánh cửa gỗ dày cộm không hề động đậy, còn Hàn Giang do dùng sức quá mạnh nên ngược lại còn bị đập bắn trở lại.

Hàn Giang trong lòng kinh ngạc, sức lực của mình như vậy mà lại không mở nổi một cánh cửa gỗ? Anh định gồng sức để húc thêm lần nữa, nhưng Đường Phong lại bảo anh dừng lại: “Đợi chút đã, anh xem chỗ này này!”

Hàn Giang giờ mới để ý thấy, bên cạnh cánh cửa gỗ có một cái chốt nhô ra. Lúc này, tiếng kêu cứu của Lương Viện lại từ trong cửa vọng ra: “Tôi và tiến sỹ Từ bị nhốt trong này rồi, chúng tôi không tài nào mở được cửa ra nữa!”

Hàn Giang nhìn chằm chằm vào chốt cửa bằng gỗ đó, nghi ngờ hỏi: “Xem ra cái chốt này đã chặn cửa lại, khiến họ không mở được. Nhưng thế thì chúng ta phải mở được từ bên ngoài chứ!”

Đường Phong cũng không hiểu ra sao cả, nhưng anh sực nhớ ra điều gì đó liền thò tay ấn chiếc chốt cửa bằng gỗ xuống, vừa ấn, chốt cửa đã sập xuống. Thấy vậy, Đường Phong hét lớn: “Mọi người thử xem, đẩy cánh cửa này ra!”

“Két két!” lại một tiếng kêu chói tai, cửa mở rồi, Lương Viện và Từ Nhân Vũ hốt hoảng lao ra, Lương Viện đâm sầm vào lòng Đường Phong, Đường Phong nhìn vào đôi mắt đang đầy sự hoảng loạn của Lương Viện, vội vàng hỏi: “Sao hai người lại bị nhốt trong đó?”

“Sau khi… sau khi các anh tiến vào cánh cửa đó, tiến sỹ Từ và… Stephen cũng thử đẩy những cánh cửa khác, tôi cũng đi theo tiến sỹ vào, thì… thì không ra được nữa!” Lương Viện lắp bắp nói.

Hàn Giang và Đường Phong thò đầu nhìn vào không gian sau cánh cửa, hai người bất giác cùng hoảng hốt, hóa ra cảnh tượng sau hai cánh cửa này cũng giống hệt như cảnh tượng trong cánh cửa thứ nhất bên trái, cũng là một cầu thang xoắn ốc bằng gỗ, bậc cầu thang uốn lượn xuống phía dưới, không biết dẫn đi đâu. Nhìn lại cánh cửa đó, đúng như Đường Phong dự liệu, trong khung cửa quả nhiên vẫn còn một cái chốt, chính cái chốt này đã khiến cho Hàn Giang dốc hết sức cũng không đẩy nổi cửa ra.

7

“Những cái cửa thật kỳ quái, tại sao phải làm hai cái chốt trong ngoài?” Hàn Giang thắc mắc.

“Chẳng có gì kỳ quái cả, điều này đã thể hiện trí tuệ của người xưa khi xây dựng Khương Trại. Cửa gỗ dày và nặng như vậy, chốt trong chốt ngoài, nếu như kẻ địch tấn công từ bên ngoài vào, thì có thể rút lui vào phòng thủ trong cầu thang sau cửa, đóng cánh cửa này lại, thừa cơ hội tháo chạy. Thiết kế này tuyệt diệu vậy đấy!” Đường Phong khâm phục.

“Nhưng ban nãy ai đã chốt hai cái chốt cửa đó lại chứ?”

Câu hỏi của Hàn Giang khiến Đường Phong cũng giật mình, anh lật qua lật lại hai chốt cửa bằng gỗ, giải thích: “Có lẽ do đã nhiều năm nên chốt cửa bị lỏng, vì vậy khi cửa gỗ dày nặng vừa đóng một cái sẽ tạo ra chấn động nên hai cái chốt cửa cũng bị sập xuống.”

Hàn Giang nghe Đường Phong giải thích, không nói gì, anh nhìn lại cầu thang xoắn ốc lần nữa, quay đầu lại chất vấn Từ Nhân Vũ: “Stephen đâu? Tôi bảo mọi người đứng nguyên chỗ cũ, sao lại chạy lung tung như thế?”

“Tôi làm sao mà biết được cái kí hiệu tay của anh ý là gì!” Từ Nhân Vũ miệng lẩm bẩm nói. Sau đó, Từ Nhân Vũ chỉ vào cánh cửa bên phải nói: “Tôi thấy Stephen đi vào cánh cửa kia, có lẽ… có lẽ lúc này anh ấy đang bị nhốt trong đó cũng nên.”

Mọi người đến trước cánh cửa đầu tiên bên phải, cánh cửa này đối diện thẳng với cánh cửa đầu tiên bên trái, Hàn Giang đang định đẩy cửa tiến vào, Lương Viện liền hốt hoảng hét lên: “Bên ngoài cánh cửa này không có chốt mà?”

Mọi người đều ngạc nhiên, bên ngoài cửa không có chốt, lâu như vậy mà Stephen vẫn chưa ra, lẽ nào… mọi người không dám nghĩ tiếp, cùng nhau đẩy cánh cửa gỗ này ra.

Ánh sáng từ “hoa song” chiếu vào, ở đây không có cầu thang xoắn ốc, mà là một căn phòng hoàn chỉnh, trong phòng trống trơn không có một ai, cũng không bày biện bất cứ đồ đạc nào.

“Stephen đâu?” Đường Phong khẽ hỏi Từ Nhân Vũ.

Từ Nhân Vũ gãi gãi đầu, nói một cách đầy hồ nghi: “Ban nãy rõ ràng tôi đã nhìn thấy cậu ấy đi vào cánh cửa này, Lương Viện cũng nhìn thấy mà.”

Đường Phong chê ánh sáng trong phòng không đủ, lại bật đèn pin lên, soi lên bốn bức tường trong phòng, nhưng ngoài bức tường cũ kĩ bong tróc ra, anh chẳng phát hiện được gì cả. Anh vừa nhìn, bước chân vừa từ từ di chuyển tới cạnh hoa song, đột nhiên, Hàn Giang hét lên một tiếng: “Chú ý dưới chân!”

Đường Phong giật mình lùi lại nửa bước, cúi đầu nhìn, lúc này mới phát hiện ra trên sàn nhà sát cạnh hoa song xuất hiện một miệng hố rộng khoảng một mét, nếu không có Hàn Giang kịp thời nhắc nhở, thì anh cũng đã rơi tõm xuống đấy rồi.

Mọi người vây xung quanh, nhìn theo ánh đèn pin soi xuống phía dưới, chiếc hầm tối rộng khoảng một mét sâu không thấy đáy, một luồng hơi ẩm mốc phảng phất từ trong hầm bốc lên. “Lẽ nào Stephen rơi xuống dưới đấy?” Từ Nhân Vũ đầy vẻ hoảng sợ.

“Không phải chứ?” Lương Viện đáp.

Từ Nhân Vũ nói: “Mọi người xem, vết nứt của sàn nhà này là mới mà.”

“Có nghĩa là sàn nhà mới bị nứt gãy.” Đường Phong nói.

“S… te… phen!” Từ Nhân Vũ lớn tiếng hét lên về phía lỗ hổng, nhưng trong hầm tối vẫn không vọng lại tiếng của Stephen, chỉ vọng lại những âm thanh đáng sợ.

“Hầm này sâu bao nhiêu nhỉ? Sao Stephen vừa rơi xuống đã… đã xong rồi! Đúng rồi, trong hầm có cái gì đáng sợ không nhỉ, ví dụ như quái thú!” Lương Viện trợn to đôi mắt vô cùng khiếp đảm nhìn Đường Phong.

“Tôi thấy cô xem nhiều phim kinh dị quá đấy! Chỗ này sao mà có quái vật được!” Đường Phong không buồn chấp suy đoán vớ vẩn của Lương Viện, nhưng khi anh nhìn lại xuống dưới hầm một lần nữa, thì cũng cảm thấy lạnh toát cả người.

8

Đường Phong dùng đèn pin soi qua căn phòng quái dị này thêm một lần nữa, nói: “Tôi thấy hứng thú ở chỗ, tại sao căn phòng này sao lại xây trên một lỗ hầm sâu nhỉ?”

Sau khi Hàn Giang cẩn thận nhìn xuống hầm, anh suy đoán: “Không phải căn phòng này xây trên lỗ hang, mà là người ta đã cố ý xây một cái hầm dưới sàn nhà. Cái hầm này được nhân công xây bằng gạch, cũng nghĩa là khi kiến tạo nên tòa Khương Trại khổng lồ này, thì họ đã xây nên cái hầm này rồi.”

Lương Viện vẫn hồn xiêu phách lạc, lập cập nói: “Tòa Khương Trại này thật bí hiểm, tại sao phải xây một cái hầm sâu phía dưới căn phòng?”

“Đúng vậy! Các căn phòng khác không biết chừng cũng là cơ quan bí mật, tòa Khương Trại này còn giống một mê cung dày đặc những ngóc ngách hơn, phía dưới, cùng những tầng phía trên cũng không biết có những gì nữa?”

“Nếu nói như vậy, chúng ta ở trong này, không phải là cũng rất nguy hiểm sao?” Lương Viện sợ hãi.

“Đường Phong, anh nói cũng hơi quá đấy, cứ coi là những ngóc ngách dày đặc đi chăng nữa, mấy trăm năm rồi, liệu vẫn còn phát huy tác dụng không? Còn nữa, coi như lúc đầu tòa Khương Trại này chỉ là nhà ở, xây bao nhiêu là ngóc ngách bí mật như vậy, ngộ nhỡ sát thương chính mình thì sao? Tôi nghĩ lỗ hang này chỉ là một con đường thoát hiểm.” Hàn Giang phản bác lại Đường Phong.

Đường Phong cũng không tranh luận, anh quay lại phòng khách, rồi lần lượt kiểm tra các phòng khác trên tầng hai, nhưng không phát hiện ra có điều gì bất thường ở đó. Bốn người quay trở lại trung tâm phòng khách, Hàn Giang dùng đèn pin soi lên sàn gỗ ở tầng trên, đột nhiên hỏi: “Này? Thật là kỳ lạ, sao lại không thấy cầu thang thông lên gác nhỉ?”

Đường Phong nhìn một lượt, giải thích: “Điều này rất bình thường, thường thì trong Khương Trại không có cầu thang cố định, lên xuống lầu đều dùng thang gỗ rời.”

“Vậy tại sao trong hai cánh cửa bên trái trước đó lại có cầu thang xoắn ốc cố định?” Hàn Giang hỏi lại.

“Hai chiếc cầu thang xoắn ốc đó quả thật rất kỳ lạ! Thông thường mà nói, tầng một của Khương Trại đều để quây nuôi gia súc, là nơi chất chứa những thứ linh tinh, không thể xây cầu thang tốt như vậy được. Tóm lại, trong tòa Khương Trại này đầy rẫy những bí ẩn.” Đường Phong cũng không sao giải thích được bao nhiêu những hiện tượng kỳ dị khó hiểu trong tòa Khương Trại này.

Đường Phong vừa dứt lời, đột nhiên phát hiện ra con mèo đen nhìn thấy trước đó không biết từ lúc nào lại xuất hiện cạnh cánh cửa thứ hai bên trái. Hàn Giang cũng chú ý tới con mèo đen đó, anh khẽ bước từng bước đi về phía con mèo đen, nhưng anh vừa mới sát lại gần, mèo đen liền quay người, chớp cái đã mất hút trong cánh cửa.

“Thật là một con mèo kỳ lạ!” Hàn Giang khẽ lẩm bẩm trong miệng.

“Biết đâu con mèo này sẽ dẫn chúng ta hóa giải những bí ẩn.” Nói xong, Đường Phong lại xông lên trước, theo con mèo tiến vào trong cánh cửa đó. Hàn Giang không dám để Lương Viện và Từ Nhân Vũ ở lại, vậy là cả ba người cùng theo Đường Phong tiến vào cánh cửa này.

Cầu thang xoắn ốc uốn lượn xuống phía dưới, Đường Phong bật đèn pin đi đầu, Lương Viện và Từ Nhân Vũ bám sát phía sau, Hàn Giang cảnh giác quay lại nhìn cánh cửa gỗ rồi đi theo xuống dưới.

Cầu thang xoắn từng vòng, từng vòng một, Đường Phong cũng không nhớ rõ họ rút cuộc đã xoay bao nhiêu vòng, mỗi bước chân của anh đều khiến cầu thang xoắn ốc phát ra tiếng “cót két”, mỗi âm thanh này đều khiến từng sợi lông tóc trên người Đường Phong dựng đứng cả lên. Đường Phong dùng đèn pin soi xuống cầu thang trước mặt, con mèo đen đó lại bí ẩn mất tích rồi.

Cuối cùng thì cũng bước xuống khỏi cầu thang xoắn ốc, trước mặt cả nhóm là một địa đạo được lát bởi những tảng đá, vòm địa đạo hình cong cong, chỗ cao nhất không tới hai mét, trong địa đạo mạng nhện giăng kín, rõ ràng là đã nhiều năm qua không có người tới đây. Đường Phong tiến vài bước lên phía trước, đột nhiên cảm thấy trên đầu có ánh sáng. Đường Phong lập tức ngẩng đầu lên nhìn, phát hiện hóa ra mình lúc này đang ở dưới một vọng gác cao to, ánh sáng đó từ trên đỉnh lầu vọng gác chiếu xuống. Lương Viện, Từ Nhân Vũ và Hàn Giang tới bên cạnh Đường Phong, cùng nhau ngẩng đầu lên nhìn, Lương Viện tò mò hỏi: “Sao chúng ta lại đi xuống dưới đáy cái ống khói to thế này?”

Đường Phong chán nản nhìn nhìn Lương Viện, đáp: “Đây không phải là cái ống khói to, mà là vọng gác chúng ta nhìn thấy bên ngoài Khương Trại. Nếu như có thể leo lên vọng gác đó, từ cửa sổ nhỏ nhìn ra, chắc sẽ có thể nhìn thấy tình hình vùng lân cận trong vòng bán kính hàng chục ki lô mét.”

“Nhưng làm thế nào để leo lên đấy được? Trong vọng gác vốn không có thang mà!” Từ Nhân Vũ quan sát một lượt bên trong vọng gác, nghi ngờ nói.

“Điều mà tôi còn quan tâm hơn là địa đạo này thông đến chỗ nào!” Hàn Giang dùng đèn pin soi vào địa đạo tối om trước mặt, tự mình lẩm bẩm.

Mạng nhện kín mít bay lên từng lớp bụi dày đặc, rồi bất chợt có một ngã rẽ khiến ánh sáng chói lóa của chiếc đèn pin cũng đột ngột mất đi công dụng trong địa đạo đen đặc này. Đường Phong dẫn đầu nhưng cũng không đoán được sẽ có gì chờ đợi anh ở phía trước? Quái vật? Hay là cạm bẫy?

Lương Viện bám chặt phía sau Đường Phong, trên đầu đột nhiên rơi xuống rất nhiều bụi bặm khiến cô sợ hãi tới mức bám chặt lấy gấu áo Đường Phong. Phía trước lại có một bức tường, đây không phải là điểm cuối của địa đạo, chỉ là một ngã rẽ. Đường Phong và Lương Viện rẽ trước, Đường Phong đột nhiên phát hiện ra địa đạo trước mặt hình như rộng hơn một chút, đường đi dưới chân bắt đầu dốc xuống, vươn thẳng tới nơi thẳm sâu càng lúc càng ẩm ướt của đường hầm…

9

Lương Viện bước một bước lên phía trước, đột nhiên dưới chân phát ra tiếng “răng rắc” kì lạ khiến cô sợ hãi vội vàng lui lại nửa bước. Đường Phong cầm đèn pin soi xuống chân Lương Viện, hai người nhìn thấy một đoạn “gậy” màu đen. Lương Viện thò tay nhặt đoạn “gậy” đó lên cẩn thận xem xét, từ từ phủi đi bùn đất đen xì trên đoạn “gậy” đó… Đột nhiên mắt Lương Viện trợn trừng trừng rồi hét toáng lên, đoạn “gậy” trong tay cũng rơi xuống đất, bởi cô đã nhìn thấy rõ, dưới bùn đất đen xì lộ ra màu trắng đáng sợ, đó chính là một đoạn xương... một đoạn xương người.

Tiếng hét thất thanh của Lương Viện khiến Hàn Giang và Từ Nhân Vũ cũng chạy tới, “Xảy ra chuyện gì vậy?” Hàn Giang lo lắng hỏi.

Lương Viện hồn xiêu phách lạc, không thốt nên lời. Đường Phong không trả lời câu hỏi của Hàn Giang mà soi đèn pin xuống dưới chân. Địa đạo dưới chân dốc xuống nơi thẳm sâu xuất hiện từng đoạn hài cốt bị bùn đất che phủ, những hài cốt này gần như trải kín cả con dốc, không chỗ nào là không có, tất cả những hài cốt đều úp mặt xuống, bò trên đất, đầu hướng về cầu thang xoắn ốc ở cổng địa đạo, hình như, họ đều gặp phải nguy hiểm khủng khiếp cùng một lúc, để giữ lại mạng sống, họ đã bất chấp tất cả lao về phía cổng địa đạo, nhưng… nhưng có lẽ chỉ muộn một chút thôi, tất cả họ đều đã bị đóng kín trong địa đạo ẩm ướt tối đen này. Tại sao họ lại tới địa đạo này? Và điều gì đã khiến họ sợ hãi khủng khiếp đến như vậy?

Đường Phong nhớ tới lăng mộ trong địa cung của vua chúa. Truyền thuyết kể rằng, trước khi chôn cất hoàng đế, địa cung sẽ bị bịt lại, chôn sống những người thợ xây mộ trong địa cung. Trong giây phút cuối cùng của sinh mệnh, bản năng sinh tồn đã thôi thúc những người thợ gắng hết sức lao ra khỏi cửa địa cung, có lẽ chính là cảnh tượng họ đang nhìn thấy trước mắt!

“Thật đáng sợ, chúng ta quay lại đi!” Lương Viện là người đầu tiên đề nghị “đánh bài chuồn”.

Từ Nhân Vũ quệt mồ hôi lấm tấm trên trán, nhìn Hàn Giang và Đường Phong, trong lòng anh ta rất sợ hãi, nhưng lại không muốn bỏ rơi Stephen. Hàn Giang và Đường Phong đều hiểu ý của Từ Nhân Vũ, họ cũng không muốn từ bỏ, nhưng… Hàn Giang lại nhìn con dốc địa đạo trước mặt, nói với mọi người: “Thời gian hôm nay không còn nhiều nữa, mọi người cũng mệt rồi, chúng ta tạm thời trở lại phòng khách trên tầng hai nghỉ ngơi, ngày mai lại xuống đây đi đến cùng xem sao.”

Từ Nhân Vũ tỏ ra đồng ý, Đường Phong không nói gì, bốn người chuẩn bị quay lại thì một vật đột nhiên rơi vào chùm ánh sáng phía trước đèn pin của Đường Phong, lại là con mèo đen đó! Mèo đen đang ngồi trên đống xương trắng trên con dốc địa đạo, lặng lẽ nhìn Đường Phong. “Không được! Chúng ta vẫn nên đi xuống dưới xem sao, có thể Stephen vẫn chưa chết…”

Nói xong, Đường Phong cũng không chờ nghe ý kiến của những người khác, anh đi thẳng xuống dốc địa đạo. Lương Viện thấy Đường Phong đi tiếp xuống dưới, cũng không biết lấy dũng khí từ đâu ra, bỗng nhiên tóm lấy Đường Phong, cùng đi xuống địa đạo. Đường Phong kéo Lương Viện, cẩn thận rón rén giẫm lên từng bộ hài cốt, đi xuống dốc, càng đi xuống dưới không khí càng ẩm ướt, hô hấp cũng khó khăn hơn, “rắc”, “rắc” từng tiếng xương vỡ vụn xuyên qua màng nhĩ vang tới tận óc, đâm chích vào thần kinh vốn đang suy yếu của hai người.

Hàn Giang và Từ Nhân Vũ cũng đi theo. Sau khi đi được khoảng hai mươi mét, mọi người đã tới chân dốc địa đạo, hóa ra địa đạo hình vòng cung, lúc trước đây lại trở thành không gian hình vuông mái vòm. Đường Phong ước lượng qua, không gian hình vuông này khoảng bảy tám chục mét, đây là đâu? Đúng lúc Đường Phong đang thắc mắc thì Hàn Giang đột nhiên kề sát tai anh, khẽ nhắc nhở: “Đường Phong, liệu đây có phải là cái Hắc Đầu Thạch Thất trong truyền thuyết không nhỉ?”

Đường Phong giật bắn mình, Hắc Đầu Thạch Thất? Lẽ nào đây chính là Hắc Đầu Thạch Thất? Ngay từ giây phút đặt chân vào địa đạo này, Đường Phong đã lập tức nghĩ tới Hắc Đầu Thạch Thất, nhưng anh đã nhanh chóng phủ định suy đoán này, anh không tin mình chưa cân nhắc kỹ trước khi hành động mà lại có thể dễ dàng tìm thấy Hắc Đầu Thạch Thất. Nhưng lúc này Hàn Giang hỏi như vậy khiến anh không thể không bắt đầu suy nghĩ lại vấn đề này. Không gian rộng lớn dưới lòng đất này lẽ nào chính là Hắc Đầu Thạch Thất trong truyền thuyết?

10

Đường Phong nói nhỏ, trả lời Hàn Giang: “Phải tìm được chứng cứ thuyết phục mới có thể chứng minh điều suy đoán này.”

Đường Phong nói xong bước tới sát tường, mượn ánh sáng của đèn pin tỉ mẩn quan sát, một vệt nước màu trắng hơi ngả vàng xuất hiện xung quanh bốn bức tường. Đường Phong vỗ vào bức tường trước mặt một cái, nói với mọi người: “Mọi người xem, ở đây có vết tích đọng nước từ rất lâu rồi, cho thấy trước đây nó từng ngâm trong nước một thời gian dài.”

“Thảo nào dưới này ẩm ướt như vậy, trên dốc địa đạo có bao nhiêu là bùn đất.” Lương Viện lầm rầm nói.

Hàn Giang đột nhiên nhớ ra điều gì đó: “Có khi nào nơi đây từng là thủy lao không nhỉ? Những hài cốt trên dốc địa đạo rất có khả năng là của phạm nhân đã từng bị nhốt ở đây, do ở đây phát sinh một biến cố nào đó, ví dụ như mực nước dâng cao, vậy là, họ gắng hết sức để thoát ra khỏi đây, nhưng cuối cùng vẫn bị đại thủy nhấn chìm.”

“Tôi thấy anh có thể viết tiểu thuyết được rồi đấy!” Từ Nhân Vũ cười nhạt với Hàn Giang.

Đường Phong lại nói: “Hàn Giang nói có vẻ hợp tình hợp lý đấy, hoàn toàn có khả năng đó, chỉ có điều là sao mực nước ở đây lại đột nhiên dâng lên như vậy nhỉ?”

“Vậy thì anh phải vào đó xem xem.” Vừa nói, Hàn Giang vừa chỉ chỉ vào một cửa động xuất hiện trên bức tường bên cạnh.

Đường Phong gật đầu, rồi thò đầu vào trong cửa động đó, bên trong vẫn là một địa đạo mái vòm. Khi Đường Phong đã dần dần thích ứng với ánh sáng và không khí trong địa đạo này thì lại một lần nữa thất kinh, bởi anh đã xâm nhập vào một địa đạo toàn xương người. Dưới chùm ánh sáng của đèn pin, từng bộ hài cốt trắng ởn kinh hoàng xếp ngay ngắn xuất hiện trước mặt mọi người.

Dưới chân hai bên tường địa đạo là một dãy đầu lâu xếp ngay ngắn, phía trên đầu lâu là từng tầng xương trắng được xếp gọn gàng chồng lên nhau sát cạnh tường, xương trắng càng chất càng cao, mãi tới tận khi chạm vào mái vòm mới dừng lại. Tại vị trí cao nhất của mái vòm địa đạo, cũng chính là trên đỉnh đầu mọi người, có treo một hàng đầu lâu. Đường Phong không hiểu những đầu lâu này làm thế nào mà cố định được trên đỉnh vòm, anh ngẩng đầu, quan sát thật kĩ, đúng lúc mắt anh gần như dán vào hố mắt trống rỗng của chiếc đầu lâu thẳng trên đỉnh đầu thì rút cuộc anh đã phát hiện ra: đầu lâu trên đỉnh vòm được một chiếc đinh sắt rất to đã rỉ vàng đóng chặt vào trong gạch của đỉnh vòm. Nhìn tới đây, Đường Phong đột nhiên thấy hoa mắt chóng mặt.

“Thật khủng khiếp! Bao nhiêu xương trắng, hơn nữa… hơn nữa còn bị người ta sắp xếp thành hình dạng này!” Lương Viện hoảng hốt nói.

Từ Nhân Vũ nghi ngờ hỏi: “Trước đây ở châu Âu tôi đã từng nhìn thấy giáo đường xương người, không ngờ ở vùng núi nước ta hóa ra cũng có một địa đạo xương người như thế này!”

“Chuyện này rút cuộc là thế nào?” Hàn Giang cũng rối tung cả lên.

Đường Phong ra sức kìm chế nhịp tim đang đập loạn xạ, đầu óc anh quay cuồng, mọi thứ trước mắt đã hoàn toàn vượt xa kiến thức anh được biết, nhưng Đường Phong vẫn đưa ra giải thích của cá nhân anh: “Có hai khả năng, một là, những bộ hài cốt này là hài cốt của chủ nhân Khương Trại, địa đạo này giống như kiểu một hầm mộ; hai là, những bộ hài cốt này là hài cốt của kẻ địch, chất đống ở đây, khuếch trương võ công của chủ nhân Khương Trại, cũng là để uy hiếp phạm nhân trong thủy lao. Bản thân tôi cũng nghiêng về giải thích thứ hai hơn.”

“Tại sao?” Hàn Giang thắc mắc.

Đường Phong hạ giọng nói nhỏ: “Theo như tôi biết, bất luận là người Khương hay là người Đảng Hạng, đều không có tập tục mai táng này, còn suy đoán về thủy lao của anh ban nãy, và cả hài cốt trên dốc địa đạo đều rất phù hợp với suy đoán thứ hai.”

Hàn Giang khẽ gật gù, một mình tiến lên phía trước, đi trước mọi người, Đường Phong theo sau Hàn Giang, chậm rãi bước vào địa đạo tối đen sâu hun hút. Sau khi đi được khoảng tám mươi bước, Hàn Giang cuối cùng cũng dừng lại, Đường Phong tiến lên cùng, kinh ngạc phát hiện, đường đi phía trước mặt đã bị chặn lại, và vật chặn đường này chính là một đống xương trắng chất cao ngất ngưởng!

Bốn người vô cùng thất kinh trước cảnh tượng trước mắt, mãi một lúc lâu sau, Đường Phong mới chậm rãi nói: “Xương cốt nhiều quá chừng! Xem ra chúng ta phải quay lại thôi.”

Hàn Giang hình như không cam tâm, anh tiến lên phía trước dùng đèn pin quan sát tỉ mỉ đống xương trắng chất cao như núi này, đường đi trước mặt quả thực đã bị chặn đứng. Hàn Giang bó tay, lùi lại, nhưng khi đèn pin trong tay anh vô tình chiếu xuống đất, đột nhiên phát hiện ra trên đống xương trắng có mấy tảng đá to nhỏ khác nhau. Mọi người đổ dồn sự tập trung về phía đống xương nên không ai để ý tới mấy hòn đá dưới chân, Hàn Giang chỉ vào những hòn đá đó, hỏi Đường Phong: “Đây là gì nhỉ?”

Đường Phong cúi người xuống chăm chú quan sát xem mấy hòn đá đang bị vùi lấp trong đống xương cốt này là gì. Anh chầm chậm, nhìn từng góc một, cuối cùng bỗng phát hiện ra những văn tự vừa quen vừa lạ trên mấy hòn đá này…
 

hoahongden12

Active Member

1

Đường Phong cẩn thận xem kĩ từng văn tự trên hòn đá, năm phút sau, anh không giấu được sự hưng phấn quay lại, nói với mọi người: “Đây là văn tự Tây Hạ, thật không thể ngờ, trong vùng núi tây bắc Tứ Xuyên này lại xuất hiện bia đá văn tự Tây Hạ!”

“Văn tự Tây Hạ? Ở đây cũng có văn tự Tây Hạ sao?” Hàn Giang vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nhưng lại không dám tin vào điều đó.

“Đúng vậy, tôi không thể nhầm được, đây là một tấm bia tàn đã nứt gãy có văn tự Tây Hạ.” Đường Phong khẳng định.

“Bia tàn? Tấm bia tàn không có chữ mà chúng ta nhìn thấy ngoài Khương Trại có phải cũng là trên tấm bia này không nhỉ?” Lương Viện hỏi.

Đường Phong gật đầu nói: “Chắc là vậy, chỉ có điều… có điều tôi không hiểu tại sao tấm bia tàn đó lại di chuyển được ra tận bên ngoài Khương Trại nhỉ?”

“Cũng có thể hỏi rằng sao tấm bia tàn này lại ở trong địa đạo âm u sâu thẳm này!” Hàn Giang đột nhiên nói chêm vào.

Đường Phong nghe thấy vậy, hơi sững sờ, sau đó nói: “Đúng vậy, cũng có khả năng như vậy, cũng có thể bia đá vốn dĩ đã ở bên ngoài!”

“Đừng quan tâm bia đá ở đâu nữa? Mau nói xem, trên tấm bia đá này khắc gì vậy?” Lương Viện giục.

Đường Phong gom vài hòn đá vụn lại với nhau, tỉ mẩn xem xét tỉ mỉ, anh lục lại tất cả những văn tự Tây Hạ mà mình nhớ được trong đầu, từng chữ từng chữ một đối chiếu với văn tự Tây Hạ xuất hiện trên tấm bia tàn, lúc thì ánh mắt lộ ra sự hưng phấn, lúc lại lắc đầu than thở: “Tuy ở đây có tới tận vài miếng bia tàn, nhưng số bia đá này vẫn thiếu sót chưa đầy đủ, bởi vậy tôi không thể nhìn thấy toàn bộ văn bia, còn có cả một vài văn tự tôi không dám xác định, nhưng chỉ với những văn tự mà tôi nhận biết được thì đã có thể phát hiện ra một vài tin tức quan trọng.”

“Ồ! Nói xem sao!”

“Văn tự trên tấm bia được khắc lần lượt từ trái sang phải, theo hàng dọc, hàng thứ nhất tuy dấu tích của chữ không còn đủ, nhưng tôi đại khái nhìn ra ý nghĩa của câu này, dịch ra như sau: ‘Vương triều lật đổ, Đảng Hạng suy vi, người dân tộc ta… ông trời phù hộ, quay lại cố thủ, từ Hạ Lan Sơn xuất phát…’ đại khái là ý như vậy; hàng thứ hai thiếu rất nhiều, tôi chỉ nhận ra mấy chữ ‘vượt qua tuyết sơn’, hai chữ cuối dòng thứ ba là ‘khe sâu lớn’, còn hai chữ phía trước ‘khe sâu lớn’ tôi không dám khẳng định, khả năng là tên của cái khe sâu này, tên là Nạp Ma, hai chữ phía trước nữa nghĩa là ‘vượt qua’ hoặc là ‘xuyên qua’; ý nghĩa của dòng thứ tư đến dòng thứ sáu đại khái là ‘ông trời phù hộ, phải quay về cố hương, trại trú chân thành thành quách…’ sau đó là ghi chép tường thuật về chủ nhân tòa Khương Trại này cùng một vài tình hình chiến đấu tiếp cận quân địch, tiếp sau đó là một chuỗi tên họ quan chức thổ ty mà hoàng đế triều Minh sắc phong, còn lại thì không nhìn thấy.” Đường Phong giải thích tỉ mỉ về nội dung văn bia.

“Chúng nói lên điều gì?” Từ Nhân Vũ đột nhiên hỏi.

Đường Phong nhìn Từ Nhân Vũ, không biết có nên nói ra phán đoán của mình trước mặt anh ta hay không. Hàn Giang dùng mắt ám hiệu cho Đường Phong, Đường Phong hiểu ý, nói với Từ Nhân Vũ: “Tấm bia này ghi chép về chủ nhân xây dựng lên tòa Khương Trại cùng một số tình hình hoạt động sau khi định cư tại đây, vẫn còn rất giá trị.”

Từ Nhân Vũ nghe xong những lời giải thích của Đường Phong, suy tư gật gật đầu. Lúc này, Lương Viện đề nghị: “Đằng nào thì cũng không thể đi tiếp được nữa, hay là chúng ta khẩn trương quay lại thôi!”

“Nói như vậy thì Stephen chết chắc rồi!” Từ Nhân Vũ nhìn đống xương cốt trắng toát chất như núi trước mặt thất vọng nói.

Hàn Giang lắc đầu, chán nản: “Không còn cách nào khác, cái hang mà Stephen rơi xuống rất có khả năng thông với địa đạo này, thậm chí rất gần với vị trí của chúng ta hiện giờ, nhưng đường đi trước mặt đã bị chặn hoàn toàn rồi, tôi thấy quả thực Stephen lành ít dữ nhiều.”

Hàn Giang nói xong, chẳng còn ai lên tiếng nữa, bốn người mở to đôi mắt tò mò và hoảng loạn nhìn đống xương cốt chất đống ngay ngắn chỉnh tề, sau đó từ từ lùi lại phía sau.

2

Cuối cùng, cả nhóm rút lui khỏi địa đạo xương người đáng sợ, lại leo lên con dốc trải kín những hài cốt, quay trở lại đường cũ. Đường Phong đi đầu tiên, rẽ qua một ngã rẽ, anh dựa vào trí nhớ phán đoán, đây chắc là ngã rẽ cuối cùng trong địa đạo. Nhưng khi anh rẽ qua ngã rẽ này, mặt đất dưới chân đột nhiên khẽ rung chuyển, một chút bụi từ trên mái vòm rơi xuống, vương trên tóc Đường Phong. Đường Phong kinh ngạc phủi phủi bụi trên đầu rồi ngẩng lên nhìn mái vòm, không phát hiện thấy điều gì bất thường, anh lại bước nhanh vài bước về phía trước, nhìn thấy thấp thoáng tia sáng lộ ra trên vọng gác. Nhưng đúng lúc này, Đường Phong cảm nhận được hình như cả tòa Khương Trại đều đang khẽ rung động, gần như cùng một lúc, anh nghe thấy một âm thanh như tiếng sấm rền nặng nề, Đường Phong không hiểu đây rút cuộc là chuyện gì, nhưng bản năng mách bảo anh rằng - chỗ này không nên ở lại lâu!

Vậy là, Đường Phong quay lại gọi Hàn Giang và Từ Nhân Vũ: “Vừa nãy Khương Trại lắc lư đấy, mau rời khỏi đây thôi!”

Hàn Giang và Từ Nhân Vũ chạy lên, bốn người đứng dưới vọng gác, Đường Phong theo bản năng ngẩng đầu nhìn lên phía trên vọng gác. Lúc này mới thấy, Khương Trại lại khẽ rung chuyển trong tiếng sấm kinh hoàng, ngay sau đó, từ trên đỉnh vọng gác, mấy chục viên đá khổng lồ kích cỡ khác nhau đang rơi xuống, rơi thẳng đứng chực đè vào Đường Phong và mọi người trong vọng gác.

Đường Phong hét toáng lên: “Nguy hiểm!” rồi xô ngã Lương Viện vẫn đang đứng ngây người ở chỗ cũ. Hai người theo đà đổ nhào về phía trước, né được tảng đá khổng lồ từ trên đỉnh vọng gác rơi xuống, nhưng vẫn bị bụi đá phủ kín người. Mãi một lúc sau, Lương Viện mới tỉnh táo lại, lắc lắc đầu, quay lại nhìn, Đường Phong đang ôm lấy cô nhưng vẫn bất tỉnh nhân sự. Lương Viện kinh ngạc thất sắc, quay người lồm cồm bò dậy, nhoài lên người Đường Phong, ra sức lay anh dậy. Đường Phong vẫn hôn mê, Lương Viện vô cùng sợ hãi, cô bắt đầu ra sức đập vào ngực Đường Phong, miệng hét lên: “Đường Phong… anh đừng có dọa tôi chứ!”

Giọng Lương Viện nghẹn ngào, nước mắt sắp rơi lã chã, Hàn Giang và Từ Nhân Vũ ở cạnh bên vừa mới lồm cồm bò dậy cũng chạy đến, Hàn Giang kiểm tra thân thể của Đường Phong nhưng không thấy thương tích bên ngoài, lúc đó anh mới yên tâm hơn. Hàn Giang cõng Đường Phong trên lưng, sau đó hét lên với Lương Viện và Từ Nhân Vũ: “Lên trên đã rồi tính tiếp!” Khi bốn người trở lại bên giá bếp trong phòng khách trên tầng hai thì mới phát hiện ra bên ngoài Khương Trại mây đen kín trời, mưa như trút nước.

Khoảng mười phút sau, Đường Phong rút cuộc cũng từ từ tỉnh lại. Lương Viện thấy Đường Phong tỉnh lại vội vàng quệt nước mắt, hờn trách: “Anh cũng ác thật đấy, giờ mới chịu tỉnh.”

Đường Phong cố gắng nhớ lại mọi chuyện ban nãy, thấy mình đang nằm trong lòng Lương Viện anh bỗng bật ngay dậy: “Đại tiểu thư, ban nãy hình như là tôi cứu cô đấy, cô vẫn hung tợn với tôi như vậy sao!”

“Đúng là anh đã cứu tôi, nhưng vừa nãy anh cũng dọa tôi sợ chết đi được đấy!”

Lương Viện nói vậy khiến Đường Phong nghẹn họng, còn Hàn Giang và Từ Nhân Vũ không thể nhịn cười. Đường Phong lườm Lương Viện một cái, đến ngồi cạnh giá bếp, hỏi Lương Viện: “Ban nãy mọi người đã nhìn thấy những tảng đá to từ trên vọng gác rơi xuống rồi chứ?”

“Nhìn thấy rồi, may mà cậu hét lên nên mọi người mới thoát chết!” Hàn Giang nói.

“Anh nói xem ban nãy là thế nào?”

“Ban nãy tôi chỉ nghe thấy một tiếng sấm nặng nề, sau đó những tảng đó khổng lồ kia từ trên đỉnh vọng gác rơi xuống, tôi cho rằng đỉnh vọng gác bị sét đánh trúng khiến cho những tảng đá đó rơi xuống.” Hàn Giang phân tích.

“Như vậy thì trùng hợp quá, đúng lúc chúng ta ở đây thì bị sét đánh?”

“Thôi đi, giờ nên cảm ơn vận may thì hơn, sau đó tôi nhìn lại địa đạo thì nó đã hoàn toàn bị bịt kín bởi những tảng đá khổng lồ, nếu như chúng ta chạy chậm một bước thì chắc là đã bị nhốt trong đó rồi cũng nên, một bên là đá tảng khổng lồ, một bên là xương trắng chất đống, giờ nghĩ lại tôi vẫn còn rùng mình đây này!” Hàn Giang đầy vẻ sợ sệt.

Trời đã hoàn toàn tối sẫm, bên ngoài Khương Trại mưa càng lúc càng to, Hàn Giang muốn nhóm một đống lửa nhưng khổ nỗi trong đây không có củi, bốn người đành phải chia nhau hết số thức ăn trong túi của Từ Nhân Vũ, coi đó là bữa tối, còn Từ Nhân Vũ thì châm tẩu thuốc thân yêu của anh ta lên, ngất ngây chìm đắm trong đó.

3

Từng cơn gió lạnh buốt từ khe cửa luồn vào, để tiết kiệm, không ai bật đèn pin lên cả, bốn người lặng lẽ ngồi quây quanh giá bếp trong Khương Trại tối om. Từ Nhân Vũ thở dài, nói: “Chẳng làm được cái gì cả, làm thế nào để vượt qua được đêm đông đằng đẵng này đây?”

“Ngủ!” Hàn Giang cười nhạt.

“Ngủ ở cái nơi quái quỷ này ư? Tôi không ngủ được!” Từ Nhân Vũ nói.

“Đúng vậy, đêm nay tôi không dám ngủ đâu!” Lương Viện cũng phụ họa theo.

“Cũng không biết Stephen sao rồi nhỉ? Lẽ nào anh ấy đã rơi xuống và chết thật rồi! Đến cả tiếng kêu cứu cũng không có nữa.” Đường Phong rì rầm.

“Đừng nghĩ nữa! Tôi thấy cái động đó sâu hoắm, không thấy đáy, nhưng chưa chắc rơi xuống địa đạo lại sâu như vậy, đáy động vẫn còn chưa biết là chỗ nào nữa là? Cứ coi như là cái động mà Stephen rơi xuống đó thông với địa đạo, vậy thì trong đó có thể có gì? Quái vật? Những cái bẫy bí hiểm? Sợ rằng chỉ có một vũng nước, anh ta cũng toi rồi! Ôi! Thoát được nạn máy bay thì lại chết trong cái Khương Trại cổ nhân xây dựng nên này!” Từ Nhân Vũ than thở nói.

“Còn cả Makarov và Yelena nữa, nếu như hai người họ cũng xuống núi rồi, sợ rằng…” Lương Viện mở to đôi mắt hoảng hốt, không dám nói tiếp nữa.

Đường Phong nhìn Hàn Giang trầm ngâm im lặng bên cạnh, hỏi: “Anh đang nghĩ gì vậy? Sao lại không nói gì?”

Hàn Giang đáp: “Tôi đang nghĩ, cái cầu thang xoắn ốc trong cánh cửa thứ hai dẫn xuống thủy lao dưới địa đạo, vậy thì, cầu thang trong cánh cửa thứ nhất sẽ dẫn đến đâu nhỉ?”

“Sao? Anh vẫn muốn vào đó xem thế nào ư?” Từ Nhân Vũ ngạc nhiên.

“Còn nữa, con mèo đen đó đâu? Sau khi chúng ta đi theo nó vào đoạn địa đạo xương người cuối cùng đó thì đã không nhìn thấy nó đâu nữa?” Hàn Giang không trả lời câu hỏi của Từ Nhân Vũ, mà tiếp tục nói lên những nghi vấn trong lòng.

“Con mèo đó chắc chắn đã bị kẹt trong địa đạo rồi!” Từ Nhân Vũ khẳng định.

“Biết đâu… biết đâu mèo đen có thể lách qua những kẽ hở giữa những hài cốt, tiếp tục đi vào trong địa đạo.” Đường Phong đột nhiên bẩm lẩm.

Hàn Giang gật đầu đáp: “Tôi nghiêng về giả thuyết của Đường Phong, cơ thể của mèo rất dẻo dai nên rất có khả năng nó sẽ lách qua được những khe hở hài cốt đó, tiếp tục đi vào địa đạo.”

“Đi tiếp vào thì sẽ là gì nhỉ?” Lương Viện hỏi.

“Khả năng là cái động sâu mà Stephen rơi xuống đó, cũng có khả năng chẳng có gì cả, chỉ là một bức tường, ai mà biết được?” Hàn Giang ngập ngừng một lúc, nói tiếp: “Tóm lại, việc ở đây xuất hiện một con mèo là vô cùng kỳ lạ.”

“Có gì là lạ? Chẳng qua chỉ là một con mèo hoang thôi mà?” Lương Viện không hiểu.

“Mèo hoang cũng không thể xuất hiện ở vùng núi không một bóng người thế này được!” Hàn Giang nói.

Lời của Hàn Giang khiến Đường Phong giật thót trong lòng: “Ý anh là... ở đây vẫn còn có người ở?”

“Á!... Ở đây vẫn còn có người khác!” Lương Viện sợ hãi đến nỗi nhảy dựng lên khỏi sàn nhà, hoảng hốt nhìn xung quanh, như thể xung quanh đang có vô số những con mắt nhìn chằm chằm vào mình.

Hàn Giang hất hất tay, ra hiệu cho Lương Viện ngồi xuống. Đợi Lương Viện bình tĩnh trở lại, Hàn Giang mới chậm rãi nói: “Ở đây không có lấy một vết tích của sự sống con người, hơn nữa ở vùng núi cách biệt với thế giới bên ngoài này, con người không thể sinh tồn được.” Hàn Giang vươn vươn vai, nói tiếp: “Mọi người không cần phải đoán mò nữa, ngày mai chúng ta sẽ đi xuống cầu thang xoắn ốc trong cánh cửa thứ nhất xem thử, nếu như không phát hiện ra điều gì, mưa tạnh, chúng ta sẽ tiếp tục lên đường. Mục tiêu của chúng ta vốn không phải là giải đáp những bí ẩn ở đây, mà là nhanh chóng thoát ra khỏi vùng núi này, ứng cứu hành khách gặp nạn. Còn về chỗ này và cả Stephen nữa, đợi nhân viên cứu viện đến, dọn đống xương cốt đó đi thì sẽ nhìn rõ mọi thứ. Hiện tại thời gian của chúng ta rất quý báu, mọi người hãy tranh thủ nghỉ ngơi, đừng nói sợ không ngủ được, không ngủ được cũng phải ngủ, ngày mai còn phải lên đường.”

Nói xong, Hàn Giang kiểm tra lại lần nữa cửa chính của Khương Trại và từng cánh cửa trong phòng khách. Sau khi đóng chặt tất cả các cửa Hàn Giang mới yên tâm nằm xuống. Đường Phong, Lương Viện và Từ Nhân Vũ cũng nằm xuống, miệng thì nói không ngủ được, không dám ngủ, kết quả Lương Viện và Từ Nhân Vũ vừa nằm xuống một cái đã ngủ say không biết gì. Đường Phong thì vẫn hồi tưởng lại những việc gặp phải ban sáng, nhưng anh không nghĩ ra được điều gì, đầu óc cứ rối tung cả lên…

4

“Pai” một tiếng, trong địa đạo ẩm ướt tối đen bỗng lóe lên một luồng ánh sáng. Đường Phong không cần tới đèn pin, một mình đi trong địa đạo tối đen, bên cạnh anh là những đống hài cốt được chất ngay ngắn chỉnh tề, địa đạo xương người! Đường Phong lại tới điểm cuối cùng của địa đạo xương người, ở đây, xương trắng chất cao như núi, chặn đứng đường đi của anh.

Đường Phong lặng lẽ nhìn đống xương cốt trước mặt, hình như quên cả sự hoảng sợ. Những hài cốt này là những ai? Họ từ đâu tới? Sao lại bị chất đống ở đây? Nghĩ tới đây, anh bất giác thò tay ra, khẽ chạm vào đỉnh một chiếc xương sọ, lại thêm một cái, thêm một cái nữa, một cái lại một cái, Đường Phong đang chạm vào những linh hồn xa xăm… Khi tay Đường Phong chạm vào một trong những chiếc xương sọ đó, đống hài cốt chất như núi trước mặt anh, không biết do sức mạnh từ đâu, bỗng tách ra làm đôi, sức mạnh đó đưa Đường Phong tiến thẳng lên phía trước, đi vào địa đạo sâu thẳm hơn. Vành tai, bên má, bên cạnh người anh đều là xương cốt trắng toát, chỉ có một đường đi nhỏ hẹp lóe lên phía trước. Sức mạnh thần bí đẩy Đường Phong đi càng lúc càng nhanh, Đường Phong cảm thấy khó thở, không mở được mắt, nhưng anh vẫn cố gắng hết sức để mở mắt ra, anh bắt buộc phải nhìn rõ phía trước, trước mặt sẽ là gì? Sẽ có thứ gì đáng sợ hơn xuất hiện?

Bỗng sức mạnh thần bí đó biến mất, Đường Phong đến tới cuối địa đạo, anh nghiêng ngả lao về phía trước, khó mà đứng vững được, anh nhìn thấy một người đứng trong bóng tối phía trước mặt. Anh là ai? Đường Phong bất giác bước một bước lên phía trước, người đó cũng bước lên một bước, giờ thì Đường Phong đã nhìn thấy quần áo trên người người đó, là… là Stephen.

“Stephen!” Đường Phong kinh ngạc vui mừng hét lên, nhưng, khi đầu người đó hoàn toàn lộ ra khỏi bóng tối, Đường Phong ngạc nhiên thẫn thờ, đó… đó không phải là mặt của Stephen, mà là một cái đầu lâu trắng toát đáng sợ!

Đường Phong lùi lại phía sau, bộ xương trắng đó tiến lên phía trước, Đường Phong từng bước từng bước lùi lại phía sau, bỗng nhiên cảm giác lưng mình tựa vào một vật nào đó, Đường Phong quay ngoắt đầu lại, phát hiện địa đạo sau lưng mình đã bị bịt kín, sau lưng… lại là từng hàng xương cốt chỉnh tề! Đường Phong không còn đường nào rút lui, anh quay đầu lại, nhìn bộ hài cốt trước mặt đang tiến lại gần, bộ xương đưa cánh tay phải khủng khiếp ra, một tay tóm chặt cổ họng Đường Phong, Đường Phong mở to đôi mắt hoảng hốt, con ngươi của anh cũng tức tốc giãn căng ra, anh cảm thấy tức thở, anh muốn hô hấp, nhưng không sao hét lên được…

“Buông tôi ra!” Đường Phong hét toáng lên, rồi bừng tỉnh cơn mộng mị. Tiếng hét của anh khiến Lương Viện và Từ Nhân Vũ tỉnh dậy. Từ Nhân Vũ vội vàng hỏi Đường Phong: “Anh sao thế?”

Đường Phong quệt quệt mồ hôi lấm tấm trên trán, đáp: “Mơ thấy ác mộng!”

“Anh đúng thật là chưa lớn! Còn nằm mơ thấy ác mộng nữa!” Lương Viện trách móc.

Đường Phong không đáp lại Lương Viện, anh đột nhiên phát hiện ra: “Hàn Giang… Hàn Giang đi đâu rồi?”

Lương Viện và Từ Nhân Vũ cũng trở nên hốt hoảng, đúng lúc ba người đang không biết phải làm thế nào thì đột nhiên, họ lại nghe thấy âm thanh kỳ lạ: “Pai!... Pai!... Pai!” Âm thanh đó có giai điệu và tiết tấu. Đường Phong chăm chú lắng nghe, anh đã nhận ra, đó là âm thanh của gỗ đập vào nhau, hình như phát ra từ phía cửa chính. Anh ngồi dậy, bật đèn pin, bước về phía cửa chính, chỉ thấy cửa chính đang khép lại, chốc chốc lại bị thứ gì đó bên ngoài chọc vào, rồi lại đập trở lại, “pai!... pai!... pai!” Đây là âm thanh cánh cửa đập vào khung cửa phát ra.

“Chuyện gì vậy?” Từ Nhân Vũ sợ hãi hỏi khẽ.

“Tôi đi xem sao.” Đường Phong đứng dậy, đi về phía cửa chính của Khương Trại, nhưng kỳ lạ ở chỗ, khi Đường Phong vừa mới cất bước, cánh cửa đang đập bùm bụp vào khung cửa bỗng không động đậy nữa, âm thanh kỳ lạ đó cũng biến mất theo. Đường Phong đứng im sau cánh cửa. Đúng lúc này, Đường Phong đột nhiên cảm thấy có một sức mạnh khủng khiếp không thể khống chế ở phía bên ngoài cửa chính đẩy tung cánh cửa, lao thẳng vào người mình. Anh cảm thấy cơ thể mình trở nên vô cùng yếu đuối trước luồng sức mạnh này, anh liên tiếp lùi lại sáu bảy bước, rồi ngồi bệt xuống đất, đèn pin trong tay cũng rơi xuống lăn lông lốc ra xa.

Gió! Sức mạnh khổng lồ đó chính là một trận cuồng phong. Cửa chính của Khương Trại đã bị mở tung, Đường Phong ngồi trên sàn nhà cảm nhận được một làn gió lạnh toát sộc thẳng vào ống quần mình. Anh mở trừng mắt hoảng hốt, nhìn chằm chằm ra phía ngoài cửa, bỗng hành lang gỗ ngoài cửa vang lên tiếng bước chân rắn rỏi mà nhịp nhàng “Cộc! cộc! cộc…”

5

Đường Phong cảm thấy lạnh giá thấu tận xương tủy, anh gồng mình lùi lại phía sau, Lương Viện và Từ Nhân Vũ ở sau lưng anh còn run rẩy lập cập hơn, sự sợ hãi đã lên đến đỉnh điểm. Một cái bóng vừa cao vừa dài in lên sàn nhà trước cửa chính, ngay sau đó, cùng với tiếng bước chân khủng khiếp đó, một bóng đen cao to xuất hiện trước cửa. Cánh tay phải của Đường Phong cuống cuồng mò mẫm trên sàn nhà, cuối cùng, anh cũng vớ được chiếc đèn pin bị rơi xuống, run rẩy bật đèn pin lên, soi về phía cửa, lắp bắp hỏi: “Ai…?”

“Đừng chiếu nữa, là tôi!” Khi giọng nói đó vừa cất lên cũng là lúc Đường Phong cũng nhìn thấy rõ bóng đen ngoài cửa, hóa ra là Hàn Giang.

“Sao nửa đêm anh lại không ngủ, định dọa người ta à?” Đường Phong bực bội.

Hàn Giang đi vào, đóng cửa, nói: “Tôi đang canh cho các người. Ở cái nơi quỷ quái như thế này, nếu cả bốn chúng ta đều ngủ, ngộ nhỡ gặp phải nguy hiểm gì thì có phải toi rồi không?”

“Canh ư? Thế anh chạy ra ngoài đó làm cái gì?”

“Bên ngoài đang có mưa nhỏ, tôi đi loanh loanh ngoài cửa, chỉ nghe thấy mấy tiếng chim hót quái dị, ngoài ra chẳng phát hiện ra thứ gì lạ cả!” Hàn Giang giải thích.

Lúc này Lương Viện và Từ Nhân Vũ mới định thần lại, cùng nhau oán thán Hàn Giang. Cuối cùng, Hàn Giang không chịu được nữa, hất hất tay, nói: “Được rồi, được rồi, đều tại tôi, các anh các chị khẩn trương đi ngủ đi!”

Lương Viện, Đường Phong và Từ Nhân Vũ lại nằm xuống, một phút sau, Lương Viện và Từ Nhân Vũ đã lại thiếp đi, còn Đường Phong vẫn đang nghĩ tới giấc mơ ban nãy, một cơn ác mộng kỳ lạ! Nửa tiếng sau, Đường Phong vẫn chưa ngủ được, anh vừa mới trở mình thì đã bị Hàn Giang ở bên cạnh khẽ đá cho một cái, Hàn Giang kề vào tai anh, nói nhỏ: “Vẫn chưa ngủ à? Không ngủ được thì tới nói chuyện với tôi!”

Nói xong, Hàn Giang đứng dậy rón rén đi ra phía cửa chính, Đường Phong không hiểu gì, theo Hàn Giang ra cửa. Ra tới bên ngoài, Hàn Giang vỗ vỗ vai Đường Phong nói: “Ban nãy tôi định tìm cậu nói chuyện riêng, ai ngờ cậu ngủ say thế!”

“Phí lời, đi cả ngày rồi, đêm qua cũng chẳng ngủ mấy, ai mà không buồn ngủ cơ chứ!”

“Được rồi, đừng ca thán nữa, tôi tìm cậu để muốn hỏi cậu vấn đề quan trọng nhất đây.”

“Vấn đề quan trọng nhất? Vấn đề gì?”

“Đây có phải là Hắc Đầu Thạch Thất mà chúng ta muốn tìm kiếm không?”

Đường Phong trầm ngâm hồi lâu, trả lời: “Theo như tôi thấy thì không giống, tuy ở đây chúng ta đã phát hiện ra bia đá của văn tự Tây Hạ, nhưng căn cứ theo mấy câu thơ trên kệ tranh ngọc, Hắc Đầu Thạch Thất phải là một tập hợp kiến trúc có tính chất sùng bái thần linh mà người Khương Đảng Hạng thời kỳ đầu xây dựng tại dải tây bắc Tứ Xuyên, mà cũng có khả năng là một hang núi. Chắc nó phải cổ kính hơn nhiều, vì phải được làm từ trước khi người Khương Đảng Hạng di cư về phương bắc, vào thời Tùy - Đường; còn Khương Trại ở đây, niên đại kiến trúc của nó chúng ta đã xác định rõ ràng rồi, sớm nhất cũng từ những năm đầu triều Minh thôi, nên xét về niên đại thì cách nhau mấy trăm năm, bởi vậy tôi cho rằng ở đây chắc không phải là Hắc Đầu Thạch Thất.”

“Lẽ nào đây chỉ là một Khương Trại?”

“Đương nhiên đây không phải là một Khương Trại thông thường, bởi chỉ dựa vào tấm bia tàn văn tự Tây Hạ đó là đủ để nói rõ mối quan hệ giữa Khương Trại này và di dân Đảng Hạng, những người kiến tạo ra nơi này chính là di dân Đảng Hạng quay trở lại Tây Bắc Tứ Xuyên sau khi Tây Hạ bị diệt vong.”

“Cũng có nghĩa là, ở đây tuy không phải là Hắc Đầu Thạch Thất, nhưng cũng đã rất gần với mục tiêu của chúng ta rồi?”

“Tôi đoán là vậy, nhưng tôi nghĩ chúng ta không dễ dàng tìm ra Hắc Đầu Thạch Thất như vậy đâu.” Đường Phong nói tới đây, ngừng lại một lúc, rồi nói tiếp: “Đúng rồi, nếu anh không nhắc đến Hắc Đầu Thạch Thất, thì suýt nữa tôi cũng quên nói với anh, trên tấm bia tàn chúng ta nhìn thấy ở cuối địa đạo, dòng thứ nhất có mấy chữ Hắc Đầu Thạch Thất, sau đó nó cũng xuất hiện thêm lần nữa.”

“Ồ! Sao lúc đó cậu không nói?”

“Vì tiến sỹ Từ, anh ta vẫn chưa phải là người của chúng ta mà đúng không?”

“Đúng! Cậu làm rất đúng, có những việc anh ta không được phép biết, nhưng bây giờ thì anh ta cũng biết được một chút rồi đấy, dù sao, chúng ta cũng không thể bỏ anh ta ở đây. Đây cũng là một việc khó xử, không biết tiếp theo đây sẽ gặp phải những gì nữa.” Hàn Giang lại thở dài.

“Được rồi, đừng nghĩ nhiều nữa, mai ta sẽ làm theo lời anh, việc khẩn cấp trước mắt không phải là Hắc Đầu Thạch Thất, mà là nhanh chóng thoát ra khỏi đây.” Đường Phong quay lại an ủi Hàn Giang.

Khi hai người nói chuyện, trời lại đổ mưa to, Hàn Giang và Đường Phong trở lại phòng khách, cả nửa đêm sau đó, hai người thay nhau thức canh, mãi cho tới tận khi phía đông hửng sáng.

6

Sáng sớm hôm sau, lúc mọi người tỉnh dậy, bên ngoài Khương Trại đã tạnh mưa. Đường Phong ra ngoài cửa Khương Trại, phát hiện dòng suối trong khe núi, chỉ trong vòng một đêm, mực nước đã dâng cao, thác nước hôm qua xém chút nữa lấy mất mạng của Đường Phong, giờ đã hình thành một quần thể thác hùng vĩ, từ trên cao dội xuống, tạo ra những âm thanh ầm ầm.

Đường Phong quay vào trong Khương Trại, Hàn Giang và mọi người đã chuẩn bị xong xuôi. “Sao rồi? Theo kế hoạch của anh, vào cánh cửa thứ nhất xem sao chứ?” Đường Phong hỏi Hàn Giang.

“Tôi đã lên kế hoạch, thường thì sẽ không thay đổi.” Hàn Giang kiên định nói.

“Anh có nhìn thấy con mèo không?” Đường Phong đột nhiên hỏi Hàn Giang.

Hàn Giang ngạc nhiên trước câu hỏi kỳ lạ này của Đường Phong, anh hơi sững người một chút, hỏi lại: “Lần cuối cùng là nhìn thấy nó trong địa đạo xương người, rồi sau chẳng biết nó biến đâu, sao, anh phát hiện ra điều gì à?”

Đường Phong lắc lắc đầu: “Không, tôi chỉ tiện thể hỏi thôi.” Nói xong, Đường Phong đeo ba lô, tư thế sẵn sàng.

Lần này, Hàn Giang đi đầu, mở cánh cửa gỗ đầu tiên bên trái ra, giống như những gì hôm qua anh nhìn thấy, một chiếc cầu thang xoắn ốc bằng gỗ cũ kĩ thông xuống phía dưới. Hàn Giang bật đèn pin, vòng ba bốn vòng của cầu thang xoắn ốc thì tới một căn phòng nhỏ kín mít. Hàn Giang dùng đèn pin quét một lượt khắp phòng, trong phòng có hai cánh cửa nhỏ giống hệt nhau, Hàn Giang nghi ngờ hỏi: “Cầu thang xoắn ốc này xem ra chỉ tới đây thôi.”

Đường Phong cũng rất ngạc nhiên: “Đây là tầng một của Khương Trại, xem ra cầu thang xoắn ốc này chỉ dẫn tới đây, nhưng cầu thang xoắn ốc hôm qua chúng ta đi xoáy rất nhiều vòng, chắc là thông thẳng xuống dưới lòng đất Khương Trại, đây chắc là sự khác biệt của hai cầu thang.”

“Bởi thế nên người của Khương Trại năm đó đã xây hai cầu thang xoắn ốc này.” Từ Nhân Vũ nói.

“Còn có một cái động nữa mà, hoặc gọi là giếng cũng được!” Câu này của Lương Viện khiến mọi người lại nhớ tới Stephen.

“Để chúng tôi thử xem hai cánh cửa gỗ này thông với đâu?” Hàn Giang nói xong, bước tới trước một cánh cửa, lấy tay đẩy đẩy, cánh cửa không nhúc nhích, có vẻ đã bị khóa rồi. Hàn Giang lại chuyển sang cánh cửa gỗ còn lại, dồn sức đẩy một cái, cửa mở, Hàn Giang cảnh giác bước vào, Đường Phong và hai người kia cũng bám sát theo sau. Sau cánh cửa là một không gian không lớn lắm, bốn người ngẩng đầu nhìn lên, Đường Phong bất giác kêu lên: “Chúng ta đã vào một vọng gác khác trong Khương Trại rồi.”

Đúng vậy, họ đã vào trong một vọng gác khác của Khương Trại, bởi trong vọng gác cao to này, họ nhìn thấy một cầu thang gỗ xoắn ốc còn to lớn hơn, cầu thang gỗ uốn lượn lên trên, thông thẳng lên phía trên vọng gác.”

Hàn Giang kinh ngạc nói: “Thật không ngờ bao năm qua rồi mà chiếc cầu thang này vẫn còn tồn tại.”

“Đúng thế, như vậy là chúng ta có thể lên trên rồi.” Nói xong, Đường Phong vội vàng hấp tấp bước lên cầu thang gỗ xoắn ốc trong vọng gác. Sau khi đã đi vòng bốn vòng cầu thang, họ đã lên tới bậc trên cùng của cầu thang xoắn ốc. Đường Phong tỉ mẩn quan sát rồi chỉ vào sàn gỗ trên đỉnh đầu, nói với mọi người: “Cầu thang xoắn ốc thông tới đây, nhưng bên trên chắc là vẫn còn có không gian, vọng gác này rất cao, nhưng xem ra chúng ta không thể leo tiếp lên trên được nữa rồi.”

Hàn Giang nói: “Có vẻ là như vậy, nhưng mọi người xem này.” Vừa nói, Hàn Giang vừa chỉ vào một cánh cửa gỗ xuất hiện trên tường: “Ở đây vẫn còn một cánh cửa nữa.”

Hàn Giang bước lên phía trước, ra sức đẩy cánh cửa này, một tia nắng chói mắt chiếu thẳng tới. Hàn Giang thận trọng, bước qua cửa. Bên ngoài là một ban công lộ thiên, Đường Phong tới bên ban công, nói với mọi người: “Đây chính là ban công trên đỉnh tầng bốn mà hôm qua tôi nói với mọi người đấy, có vẻ như là chúng ta đã không qua tầng ba, mà lên thẳng tầng trên cùng rồi.”

Đường Phong chăm chú quan sát ban công, ở đây có một dãy năm phòng thông nhau, được xây dựa vào tường phía sau, sát cạnh tường bên trái và bên phải là hai phòng có xây tường đá, trên mỗi bức tường đá đều có một cánh cửa sổ hình sừng dê, ba phòng ở giữa không có cửa sổ, hoàn toàn mở ra, chỉ dựa vào hai chiếc trụ để chống lên, đối diện với ban công lộ thiên. Đường Phong đứng trên ban công, hít thở làn không khí tươi mới, mắt nhìn xung quanh, núi xanh quanh co, nước biếc róc rách, anh không kìm chế được niềm vui trong lòng: “Nơi đây chỉ cần sửa chữa thêm một chút thì sẽ thành một biệt thự nghỉ ngơi thư giãn rất tuyệt đấy!”

“Hừm! Vậy thì sau này anh dọn đến đây ở đi!” Hàn Giang quan sát xung quanh một lượt, nhưng không phát hiện ra điều gì khác thường. Khi anh đứng thẳng chính giữa ban công, ngẩng đầu lên, đột nhiên nhìn thấy một tảng đá màu trắng cao cao nhô ra trên trần bức tường phía sau, nó hiện lên vô cùng bắt mắt dưới ánh nắng chiếu thẳng.

7

“Đó là cái gì nhỉ?” Hàn Giang chỉ vào tảng đá trắng trên bức tường phía sau hỏi.

“Tảng đá đó gọi là bạch thạch, là thiên thần của người Khương, cũng gọi là thần Bạch Thạch. Người Khương tôn sùng màu trắng, sùng bái bạch thạch từ lâu đời rồi. Truyền thuyết kể rằng từ cổ xưa, khi người Khương chiến đấu với kẻ địch, trận nào thua trận đấy, sau này, vào một đêm lạnh giá, thủ lĩnh Mâu Tân của dân tộc Khương vô tình đã có được lời căn dặn của thần Bạch Thạch. Thần nói với ông, ngày thứ hai quyết chiến, dùng đá bạch vân rắn chắc và gậy gỗ làm vũ khí thì sẽ đánh bại được kẻ địch. Người Khương làm theo lời dặn dò của thần Bạch Thạch, quả nhiên đã đánh bại được kẻ địch. Kể từ đó, người Khương liền tôn thần Bạch Thạch làm thiên thần, và trên tất cả các kiến trúc của Khương tộc đều đặt một tảng đá trắng để cầu cho thiên thần phù hộ. Mọi người xem, trên hai vọng gác đều có phiến đá trắng.” Đường Phong giải thích một chút về nguồn gốc của phiến đá trắng.

Hàn Giang nhìn lại lần nữa ban công này, anh nhíu mắt, nhìn nhìn vọng gác bên phải, một phần đỉnh vọng gác bên phải đã sụp đổ, xem ra đây chính là phần vọng gác mà hôm qua suýt nữa rơi xuống người họ. Hàn Giang lại chuyển sang nhìn vọng gác bên trái, vọng gác bên trái hoàn toàn nguyên vẹn, trên đỉnh vọng gác cũng có một tảng đá trắng, nó cao sừng sững tới tận tầng mây, trời xanh, mây trắng, nên sự bí hiểm kỳ lạ của thần Bạch Thạch có sức mạnh không thể ngờ tới… Đột nhiên, tảng đá trắng trên đỉnh vọng gác đó lắc lư, là gió? Hay là...? Hàn Giang đột nhiên trợn trừng mắt, hét lên: “Trên vọng gác có người!”

Đường Phong và mọi người vẫn chưa kịp phản ứng gì thì Hàn Giang đã kéo ngay họ nhoài ra đất, ngay sau đó, là những tiếng “Đoàng, đoàng, đoàng!” vang lên - một loạt tiếng súng vang lên trong hoảng loạn. Hàn Giang đã yểm hộ để mọi người vào trong dãy phòng phía sát tường, tiếng súng lúc này mới dừng lại.

Không khí dường như ngưng đọng, người trên vọng gác không tiếp tục bắn nữa, Hàn Giang và Đường Phong đều hiểu rằng, họ đang đợi “con mồi” xuất hiện lại. Lúc này, trên ban công tầng bốn, chỉ còn lại tiếng gió đang gào thét giữa đại ngàn.

Một phút, hai phút, ba phút… mười phút sau, Hàn Giang nghe thấy tiếng bước chân dồn dập từ vọng gác vọng lại, anh lộ ra nụ cười tự tin, nói nhỏ: “Một tên, hai tên, ba tên, bốn tên, năm tên, sáu tên, được! Tổng cộng có sáu tên. Đường Phong, Lương Viện, tiến sỹ, mọi người mau trốn vào góc khuất trong góc phòng đi, lúc nữa đánh nhau tôi không để ý được mọi người, mọi người tự lo cho mình nhé.”

“Có lẽ tôi có thể giúp được anh.” Đường Phong nói.

“Đúng vậy! Không biết chừng chúng tôi có thể giúp được anh!” Từ Nhân Vũ tuy hoảng hốt, nhưng chẳng mấy chốc đã trấn tĩnh trở lại.

“Không cần đâu, sáu gã, một mình tôi đối phó được, khi nào cần mọi người, tôi sẽ gọi.” Hàn Giang nói như đinh đóng cột.

“Nhưng súng của anh chỉ còn có sáu phát đạn.” Đường Phong bồn chồn lo lắng.

“Kể cả không có súng, tôi cũng có thể đối phó với mấy tên tép riu này! Dĩ nhiên, có súng thì vẫn dùng súng, sáu phát đạn, vừa vặn mỗi tên một phát.” Đường Phong vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng Hàn Giang đã ngắt lời anh: “Kể từ bây giờ, chúng ta không được nói chuyện nữa, dùng ngôn ngữ bằng tay, mọi người nhất định phải trông chừng Lương Viện, đừng để cô ta lên tiếng.”

Lương Viện nghe thấy Hàn Giang nói vậy thì không hài lòng, đang định mở miệng tranh luận liền bị Đường Phong bịt ngay miệng lại, lôi vào một góc khuất phòng, bên cạnh vừa hay lại có một đống đồ linh tinh phủ đầy bụi, có thể sau đó nấp, Hàn Giang thì nấp sau một chiếc cột, anh đã chuẩn bị sẵn sàng…

Sáu tên cướp nhảy vào vọng gác, rơi xuống ban công trên tầng bốn, sáu tên phân thành hai nhóm, tay cầm súng tiểu liên MP510A3 do Đức sản xuất, từng bước tiến lại gần. Tên cướp đi đầu giơ súng ra đằng sau, tất cả đám cướp đều dừng bước, tên cướp đó giương súng về phía dãy phòng sát tường, một loạt tiếng súng vang lên... Vào giây phút đó, gạch đá trong phòng văng ngang dọc, bụi bay mù mịt.

Đường Phong nấp sau cột, vài viên đạn từ cột bay sượt qua, anh vẫn không động đậy, anh biết, đám cướp này đang thăm dò. Hàn Giang nghe thấy tiếng bọn cướp thay băng đạn, tiếp đó, đám cướp tiến lên phía trước, càng lúc càng tiến lại gần vị trí chỗ anh đứng. Hàn Giang đã có thể nhìn thấy vài cái bóng của chúng. Anh nhìn nhanh Đường Phong đang nấp trong góc tường, Đường Phong cũng đang nhìn anh, ánh mắt đó hình như nói rằng có thể ra tay rồi, Hàn Giang nhẹ nhàng động ngón tay cái, ý là… đợi chút nữa!

Rút cuộc, thủ lĩnh của nhóm cướp đã đi tới cạnh chiếc cột mà Hàn Giang ẩn nấp, Hàn Giang quyết định, chỉ cần tên tiểu tử đó bước thêm nửa bước… hắn vẫn chưa phát giác ra điều gì, lại tiến lên phía trước nửa bước, chân vẫn chưa đặt xuống thì đột nhiên hắn phát hiện có vấn đề. Nhưng đã muộn rồi, khi hắn đang định quay người, giương súng bắn về phía Hàn Giang, tiếc rằng cự ly lại quá gần nên hắn đã mất hết cơ hội, chỉ thấy Hàn Giang đưa cánh tay cứng như thép ra kẹp lấy yết hầu tên tiểu tử, quật ngay hắn vào lòng, tay phải tức tốc giương súng, nhằm thẳng vào thái dương hắn, bóp cò, “pằng” một tiếng. Giải quyết xong tên tiểu tử này, cả quá trình nhanh gọn sạch sẽ, không quá năm giây.

Năm tên cướp còn lại vẫn chưa kịp phản ứng thì Hàn Giang đã nghiêng người xuất hiện trước mặt chúng, “Pằng! Pằng! Pằng! Pằng! Pằng!” năm tiếng súng nổ, toán cướp vẫn chưa bắn phát nào thì đã bốn tên chết một tên bị thương, tên bị thương thấy tình hình không ổn, quay đầu chạy về phía ban công. Lúc này, khẩu súng 84 của Hàn Giang đã hết đạn, anh vứt khẩu súng đi, nhặt khẩu tiểu liên của một tên cướp, xông tới bên tên cướp đã chạy tới ban công và chỉ bắn một phát đạn... “A!...” tên cướp trúng đạn, đứng không vững, lao đầu rơi xuống khỏi ban công.

8

Mọi thứ đều quá nhanh, những tên cướp khác trên vọng gác vẫn chưa kịp phản ứng lại, sáu tên đồng bọn đã mất mạng. Hàn Giang nhân cơ hội nhổ hết những băng đạn trên người bọn cướp ra, quay trở lại phòng, bên ngoài súng nổ liên hồi.

“Bắt lấy!” Hàn Giang ném một khẩu tiểu liên cho Đường Phong. Đường Phong đón lấy súng, từ góc tường đứng dậy, hỏi: “Tôi cũng phải dùng cái này sao?”

“Đúng vậy, kẻ địch ở bên trái trên vọng gác, ban nãy tôi phát hiện cánh cửa thông ra ban công đã bị khóa rồi, bây giờ chúng ta bây giờ không còn đường rút lui nữa, chỉ có một cách là tiêu diệt hết quân địch bên trái vọng gác. Tôi tính thế này, chút nữa cậu phụ trách yểm hộ, còn tôi sẽ leo lên bên trái vọng gác.”

“Ý hay đấy, nhưng như vậy anh sẽ rất nguy hiểm, hiện giờ không có gì để trèo lên.”

“Bởi vậy mới cần sự yểm hộ của cậu. Sau khi tôi lao ra, cậu phải bắn liên tục về phía bên trái vọng gác. Tôi sẽ cố gắng nhanh hết sức vòng qua đằng sau bên trái vọng gác. Đừng tranh cãi nữa, hiện giờ chỉ có cách này thôi.”

Đường Phong ngẫm nghĩ, cũng đành phải gật đầu đồng ý. Tổng cộng mười băng đạn, Hàn Giang chỉ mang theo hai băng, còn đâu để tất lại cho Đường Phong. Mọi việc chuẩn bị xong xuôi, tiếng súng bên ngoài phòng cũng im bặt. Hàn Giang nép người vào tường, từng bước ngắn, từng bước ngắn, từ từ tiếp cận bên trái vọng gác.

Nhưng, ý đồ của Hàn Giang chẳng mấy chốc đã bị nhóm cướp trong vọng gác phát hiện ra, vậy là, tiếng súng lại vang lên. Đường Phong nép nghiêng người bên khung cửa, vừa nhìn thấy bọn cướp trên vọng gác nhằm Hàn Giang bắn, anh liền lập tức bắn trả. “Tạch, tạch, tạch, tạch!...” Đường Phong bắn liền một lúc hết cả băng đạn, tới nỗi bọn cướp trong vọng gác không có nổi cơ hội bắn trúng Hàn Giang. Đường Phong tính nhanh, chỉ cần Hàn Giang có thể vượt qua phía sau vọng gác thành công, kể cả bắn hết tám băng đạn thì cũng không sao cả.

Đường Phong dừng lại một lúc, đám cướp trong vọng gác lại nhằm bắn về phía Hàn Giang, Đường Phong tiếp tục bắn trả, toán cướp trong vọng gác hình như đã phát giác ra tính nghiêm trọng của vấn đề nên nhốn nháo hết cả lên.

Bên trái vọng gác được chất thành từ những viên đá, tảng đá và từng hòn đá to được mài giũa ngay ngắn, Hàn Giang dẫm lên những khe hở giữa những viên đá và tảng đá, khó nhọc leo lên vọng gác. Cùng lúc anh leo lên bên trái vọng gác, nhóm cướp bên phải vọng gác đã phát hiện ra anh, một loạt đạn bắn bên người Hàn Giang. Anh vẫn giữ bình tĩnh, vẫn theo kế hoạch từng bước từng bước di chuyển tới phía sau bên trái vọng gác.

Mười lăm phút sau, tuy tay Hàn Giang đã bị mài phồng rộp và rớm máu, nhưng rút cuộc anh cũng vòng tới phía sau vọng gác. Phong cảnh ở đây thật hữu tình, cũng không có súng bắn của bọn cướp, nhưng vẫn không thể lơ là cảnh giác. Hàn Giang nhìn xuống dưới chân, rơi xuống một cái thì chỉ có mất mạng…

Đầu bên kia, Đường Phong đã mệt mỏi rã rời, một lúc bắn mấy trăm phát đạn, cả thảy hết bảy băng đạn, thấy Hàn Giang đã vòng được ra phía sau vọng gác anh mới thở phào nhẹ nhõm, quyết định để lại chút đạn để tự vệ. Vậy là, Đường Phong xoay người lại, nấp vào trong phòng.

Một bước, hai bước, ba bước… Hàn Giang khó nhọc leo lên phía trên vọng gác, sau khi anh tiếp tục leo thêm sáu, bảy mét nữa thì trên vọng gác xuất hiện một cửa sổ. Hàn Giang lao người, nhảy vào cửa sổ, bên trong là sàn cầu thang bằng gỗ, xem ra còn rất mới, như mới chỉ được lát gần đây. Hàn Giang nhìn xung quanh, không thấy tên cướp nào cả, anh cũng không biết mình đang ở tầng nào trên vọng gác. Anh không quan tâm nhiều nữa, tiếp tục leo lên trên. Vừa mới leo đến tầng trên, thò đầu ra anh đã phát hiện bên trên có hai tên cướp đang nhìn chằm chằm vào cửa sổ mà không chú ý tới phía sau. Hàn Giang rón ra rón rén, thò nửa người, sau đó giương súng nhắm chuẩn hai tên cướp đó, khẽ ho một tiếng rồi nói: “Được rồi, tao chuẩn bị xong rồi.”

Hai tên cướp nghe thấy giọng nói lạ vang lên sau lưng, vừa mới quay đầu lại, còn chưa kịp nhìn rõ dung nhan của Hàn Giang thì đã bị Hàn Giang kết liễu mạng sống. Tiếng súng kinh động toán cướp bên trên, Hàn Giang tức tốc lên thêm một tầng, tầng này không có người, nhưng anh vừa mới đứng vững thì bốn tên cướp từ tầng trên đã lao xuống, Hàn Giang bắn xối xả, giải quyết xong hai tên, hai tên khác vừa thò chân ra đã vội quay ngay lại.

Hàn Giang biết rằng, tầng trên chính là sào huyệt của bọn cướp, không vội vàng hấp tấp, anh thay một băng đạn mới, rồi lao lên trên hét vang: “Các người đã bị bao vây rồi, mau xuống dưới đầu hàng đi!”

Đáp lại lời Hàn Giang là loạt đạn bắn xuyên thủng sàn nhà từ trên xuống. Hàn Giang lùi lại hai bước, ngước nhìn lên lỗ thủng trên sàn nhà, giương súng cũng nhắm chuẩn sàn nhà bên trên rồi bắn liên hồi, kèm theo tiếng súng nổ là hai tiếng kêu “A!... Á!...” thảm thiết. Hàn Giang biết, lại giải quyết xong hai tên. Anh tiếp tục hét lên phía trên: “Sự kiên nhẫn của tôi có giới hạn, tôi đếm đến ba, đây là thời hạn cuối cùng cho các người đấy!”

“Một!” trên gác không có tiếng động.

“Hai!” lại thêm một loạt đạn xuyên qua sàn nhà, bắn xuống dưới chân Hàn Giang, Hàn Giang tiếp tục lùi lại hai bước.

Hàn Giang tiếp tục hét lên: “Ba!” Vừa mới dứt lời, sáu tên cướp, lút cút đi xuống cầu thang, lần lượt quẳng lại vũ khí, khẩn cầu tha mạng. Hàn Giang nhìn những người này, hỏi: “Ban nãy lúc tôi hét lên, ai đã bắn tôi?”

Trong sáu tên cướp, năm tên không hẹn mà gặp cùng lúc đổ dồn ánh mắt vào tên cướp nhỏ thó đứng giữa. Hàn Giang nhìn tên tiểu tử đó, cười nói: “Ban nãy cậu bắn tôi tổng cộng mười tám phát, quả là con số đẹp! Sáu người các cậu, cởi thắt lưng ra, chống đẩy mười tám cái, đừng có làm trò.”

Hàn Giang nhân cơ hội đám cướp chống đẩy, tiến lên kiểm tra một lượt, trên lầu quả nhiên không có người, Hàn Giang xuống dưới, trói sáu người lại rồi hỏi: “Thủ lĩnh của các người đâu?”

Tên nhỏ thó ủ rũ nói: “Trước khi anh lên đây, hắn chạy mất rồi.”

9

Trên lan can, tiếng súng ngưng bặt, đám cướp trên vọng gác đều “tịt ngòi”. Đường Phong chầm chậm bước ra khỏi căn phòng ẩn nấp vì anh biết nhất định là Hàn Giang đã khống chế được bọn chúng.

Ở bên trái vọng gác, Hàn Giang bổ sung đạn dược, rồi xuống dưới truy kích thủ lĩnh nhóm cướp đang tháo chạy. Dọc quãng đường này, Hàn Giang lại bắn chết vài tên trốn trong góc tối. Mấy tên cướp có ý đồ bắn trộm đã lao thẳng một mạch xuống tầng trệt vọng gác, rồi tiến vào căn phòng nhỏ lúc đi lên, ở đây tối om. Hàn Giang bật đèn pin, phát hiện cánh cửa nhỏ ban nãy không đẩy ra được giờ lại khép hờ, Hàn Giang không chần chừ nữa, đẩy thẳng cửa lao vào bên trong…

Sau cánh cửa là một không gian rất rộng, có một số đồ đạc chất đống, hình như là một nhà kho. Hàn Giang đột nhiên nhớ lại Đường Phong từng nói, tầng một của Khương Trại thông thường đều không để ở, mà là dùng để quây nuôi gia súc, nhưng ở đây hiện giờ sao lại thành nhà kho? Hàn Giang bước tới, trên những thứ đồ đó có phủ một tấm vải bạt màu xanh lục, Hàn Giang hất tấm bạt lên, bên dưới hóa ra là hơn mười thùng vũ khí và đạn dược!

Hàn Giang vô cùng kinh ngạc, cảm giác đầu óc rối tung, đúng lúc anh đang suy nghĩ miên man thì sau lưng bỗng vang lên một giọng khàn đặc: “Bạn của tôi, quẳng súng ra đây, sau đó lấy tay ôm đầu đi.”

Hàn Giang không động đậy. Người đó gầm lên: “Lẽ nào còn cần tao dạy mày làm thế nào nữa hả?” Nói xong, một viên đạn tóe lửa cạnh chân Hàn Giang. Hàn Giang bó tay, quẳng súng, từ từ giơ hai tay lên.

“Đá súng ra đây!”

Hàn Giang làm theo. Đúng lúc người đó cúi người xuống nhặt súng, Hàn Giang quay ngoắt người lại, nhìn xem đó là ai nhưng anh đã thất vọng vì người đó lại chụp mũ đen, không nhìn thấy mặt. “Ai cho mày quay mặt lại!” Tên cướp quát lên.

“Tôi có chết thì cũng phải có vài việc muốn hỏi cho rõ, nếu không thì chết cũng không nhắm mắt, các người là ai?”

“Mày muốn biết chúng tao là ai không? Mày đã không còn cơ hội phán quyết chúng tao nữa rồi, ha ha!” Người đó cười điên dại.

“Mục đích của các người là gì?” Hàn Giang vẫn kiên quyết không buông tha.

“Mày hỏi nhiều quá đấy, tao không có thì giờ để đùa với mày đâu, bây giờ tao sẽ tiễn mày lên đường! Nhìn rõ nhé, chết dưới nòng súng này cũng được coi là đối đãi đẹp với mày rồi đấy, đợi lúc nữa, mày sẽ biến thành cái rổ, ha ha ha ha…” người đó cười nham hiểm rồi hung hãn giương khẩu AEK999 do Nga sản xuất lên, chuẩn bị bóp cò. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc này, Hàn Giang nhắm mắt lại, anh bắt đầu hồi tưởng lại những chuyện xưa cũ xa xăm, xung quanh lặng thinh như tờ, không ai có thể phiền tới anh, đột nhiên, một giọng nói từ xa vọng lại: “Kẻ phải biến thành rổ là mày đấy!”

Hàn Giang trợn trừng mắt: “Yelena! Là cô sao?” Yelena phi con dao găm trúng vào cổ tay của tên cướp, hắn kêu lên thảm thiết, gắng gượng dùng một tay bắn vài phát về phía Yelena. Yelena sấp người xuống đất. Tên cướp đã không gượng được, để rơi súng và co cẳng chạy. Hàn Giang vốn định đuổi theo hắn, nhưng lại lo cho Yelena, nên đành phải để cho hắn chạy đi, còn anh chạy tới gần Yelena. Yelena không sao cả, cô đứng dậy hét lên với Hàn Giang: “Hàn! Sao anh không đuổi theo kẻ xấu đó?”

“Không phải tôi lo lắng cho cô sao? Sao cô lại tới đây?”

“Tôi không sao! Tôi và cha thấy các anh đi rồi, cũng âm thầm bỏ đi!”

“Việc đó tôi đã biết rồi, nhưng cha cô đang bị thương mà!”

“Đừng quan tâm nhiều thế, mau đuổi theo bọn cướp thôi, đi, tôi biết ở đây có một cái cửa.” Yelena kéo Hàn Giang chạy qua cánh cửa khác, ra khỏi Khương Trại. Lúc này, Hàn Giang mới phát hiện ra, hóa ra phía sau bức tường Khương Trại có một con đường nhỏ, chắc chắn là đám cướp đó đã ra vào từ con đường này.

Hàn Giang và Yelena đuổi theo một lúc đã nhìn thấy tên cướp, có vẻ hắn đã mất quá nhiều máu, nên dáng chạy xiêu vẹo. Chạy chưa được bao xa hắn đã lại ngã nhào ra đất, nhưng cũng không bò dậy được.

Hàn Giang dùng đầu gối ghì lên lưng tên cướp; lúc này, Yelena, Đường Phong và Makarov, Lương Viện, Từ Nhân Vũ đều đã chạy tới. Hàn Giang lột mũ chụp đầu của hắn ra, thì thấy mặt hắn toàn thịt, trên mặt còn in ba vết sẹo rõ nét. Đường Phong vừa nhìn thấy gã này liền lập tức ngạc nhiên hét lên: “Đây chẳng phải tên cướp đã bắt cóc tôi và Lương Viện tại Hồng Kông sao? Ba vết sẹo trên mặt hắn tôi quá quen rồi.” Không sai, gã này chính là “ba vết sẹo” mà mấy tháng trước đã giữ được mạng sống ở Hồng Kông.

Hàn Giang chất vấn: “Nói, các người là ai? Ông chủ của các người là ai?”

“Ba vết sẹo” không ngừng cầu xin dưới chân Hàn Giang: “Đại ca, anh đè lên tôi thế này, tôi nói làm sao được, tôi bị thương, không chịu được nữa rồi, anh cho tôi đứng lên, thở cái đã…”

Hàn Giang nghĩ, dù gì gã này cũng không chạy nổi nữa rồi, nên liền nhấc hắn dậy, để hắn ngồi lên một tảng đá.

“Ông chủ sai tôi đến đây, thực ra, gặp phải các anh chỉ là việc ngoài ý muốn…”, “ba vết sẹo” vừa nói tới chỗ mấu chốt thì đột nhiên câm nín, bởi đúng lúc đó hắn đã bị trúng một phát đạn giữa trán.

“Có xạ thủ bắn tỉa!” Mọi người hốt hoảng, vội vàng nấp vào bụi cây ven đường, quan sát xung quanh. “Không! Không phải là trong Khương Trại, mà là trên sườn núi trước mặt!” Đường Phong là người đầu tiên phát hiện ra trên sườn núi đối diện có người.

Đường Phong vừa dứt lời, một quả hỏa tiễn đã ném trúng kho đạn dược ở tầng một Khương Trại, “Bùm!...” một tiếng nổ lớn, cả ngọn núi to cũng khẽ rung chuyển, Khương Trại mấy trăm năm lịch sử trong nháy mắt đã biến thành một đống gạch nát!

10

Đường Phong nhìn thấy Khương Trại quý báu trong phút chốc đã hóa thành gạch vụn thì vô cùng phẫn nộ, giương khẩu tiểu liên trong tay, bắn điên cuồng về phía sườn núi đối diện. Hàn Giang ngăn lại nói: “Đường Phong, không ích gì đâu. Bên đó xa quá, súng này không thể bắn tới được đâu!”

Đường Phong buông súng xuống, nhìn lên sườn núi đối diện, anh chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy có hai người đang xách hai chiếc va li to hấp tấp bước thấp bước cao. Bất giác anh lẩm bẩm nói: “Nếu mang theo kính viễn vọng quân dụng thì tốt biết mấy.”

“Ây! Thử cái này xem!” Makarov đưa cho Đường Phong chiếc bình rượu bằng inox mang theo bên mình.

“Cái gì thế ạ?”

“Tôi về hưu nhàn rỗi, tự làm mấy thứ đồ chơi ấy mà.”

Đây không phải là một bình rượu thông thường, mà là một kính viễn vọng có hình bình rượu. Đường Phong đưa kính viễn vọng hình bình rượu lên nhìn, tuy không sánh được với kính viễn vọng phóng đại quân dụng, nhưng anh đã nhìn thấy rõ, trên sườn núi có hai người đang bước thấp bước cao, nhưng cự ly quả thực quá xa, dùng chiếc kính viễn vọng hình bình rượu này thì không thấy rõ diện mạo của hai người đó. Chẳng mấy chốc, hai người đó đã mất tích trên sườn núi đối diện…

Đường Phong cầm kính viễn vọng, mãi vẫn không chịu buông xuống. “Tôi nghĩ ta nên nhanh chóng rời khỏi đây, tốt nhất là ra khỏi núi trước khi trời tối.” Yelena nhắc nhở Hàn Giang.

Đường Phong trả lại kính viễn vọng cho Makarov, nói: “Người có sở thích lúc về hưu như ông thế này, trước khi nghỉ hưu nhất định không phải là người đơn giản.”

Yelena muốn ra khỏi vùng núi này trước khi trời tối, nhưng sự tình luôn trái ngược với mong ước, họ đi hơn nửa ngày trong vùng núi, mãi cho tới tận khi mặt trời lặn xuống rặng núi phía tây thì cũng vẫn chưa đi ra khỏi được đây.

Mọi người đành phải dừng chân bên một dòng suối nhỏ, Từ Nhân Vũ và Makarov nhóm một đống lửa. Hàn Giang, Đường Phong và Yelena tốn bao công sức mới kiếm được về chút đồ ăn trong rừng, mọi người ngồi quây quanh đống lửa, bắt đầu thưởng thức bữa tối không nhiều nhặn này.

Từ Nhân Vũ ăn xong bữa tối, phấn khởi lôi từ trong ba lô ra hai khẩu súng ngắn, hai quả mìn, còn có cả vài băng đạn, đưa cho Hàn Giang và Đường Phong: “Những thứ này tôi tìm thấy trong nhà kho dưới tầng một Khương Trại, đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nhiều súng máy đến như vậy đấy.”

Hàn Giang cầm súng lên, đưa qua đưa lại một lúc rồi nói: “Hóa ra là súng ngắn 92 do Đức sản xuất, nhưng… số súng ống đều đã bị xóa xổ rồi!”

Hàn Giang thu hết súng lại, anh thấy Đường Phong vẫn chau mày cau có. Anh biết Đường Phong đang đau buồn vì Khương Trại đã bị hủy diệt, có lẽ, một vài manh mối để tìm kiếm Hắc Đầu Thạch Thất đã bị đứt, mà đây cũng chính là điều anh lo lắng nhất. Hàn Giang vỗ vỗ vai Đường Phong, nói: “Đừng buồn bã nữa, chúng ta cũng có được một ít thu hoạch mà.” Đường Phong hiểu ý của Hàn Giang, gật gật đầu.

Hàn Giang nhìn Yelena, rồi lại nhìn Makarov, cả đường đi, anh luôn nhủ thầm trong lòng: hai cha con này rút cục lai lịch thế nào mà lại có bản lĩnh phi thường đến vậy?

“Anh cứ nhìn tôi chằm chằm làm gì thế nhỉ?” Yelena đột nhiên chất vấn Hàn Giang.

“Bởi vì tôi luôn muốn thỉnh giáo cô Yelena một vấn đề.” Hàn Giang mỉm cười nói với Yelena.

“Ồ! Anh nói xem sao!”

“Tôi muốn hỏi cô Yelena, các bác sỹ nữ người Nga có phải đều xinh đẹp quyến rũ như cô không, mà còn biết cả tuyệt kỹ phi dao nữa?”

Yelena mỉm cười, hỏi lại: “Cảnh sát Trung Quốc các anh cũng không phải đều biết lái máy bay sao?”

“Tôi đã nói rồi, trước đây tôi đã từng được huấn luyện trong quân đội.”

“Vậy thì tôi nói thật với anh, chút tuyệt kỹ phi dao này của tôi là chút võ phòng thân mà cha tôi đã dạy cho, chuyên dùng để đối phó với kẻ xấu.”

“Ồ! Võ phòng thân của nữ giới mới lợi hại làm sao? Nếu nói như vậy, Makarov tiên sinh không những chỉ biết lái máy bay, mà võ nghệ cũng thuộc hàng điêu luyện!” Vừa nói, Hàn Giang vừa chuyển chủ đề sang Makarov.

“Trước đây tôi có học một chút võ thuật trong quân đội, thế nên dạy lại cho Yelena. Yelena từ nhỏ đã cùng tôi lớn lên trong quân đội, nó không chỉ biết phi dao mà bắn súng cũng rất chuẩn. Anh biết đấy, mấy năm nay an ninh ở Nga không ổn lắm, tôi chỉ có mỗi đứa con gái này, thế nên tôi đã dạy cho nó những thứ cơ bản nhất mà tôi biết.” Makarov rất bình tĩnh nói.

11

Trong lòng Hàn Giang vẫn đầy nghi ngờ, nhưng câu trả lời của Makarov đã khiến anh không tóm được bất cứ sơ hở nào. Đúng lúc Hàn Giang đang không biết nên làm thế nào thì Đường Phong xuất hiện giải vây: “Được rồi, giờ chúng ta cần bàn xem bước tiếp theo nên làm thế nào.”

“Làm thế nào? Đi tiếp chứ sao, giờ mọi người tranh thủ thời gian ngủ đi!” Hàn Giang vừa nói, vừa nằm sõng soài ra bãi cỏ.

“Buổi tối lạnh thế này, mà ngủ ở đây e rằng ngày mai tất cả đều bị cảm lạnh mất!” Từ Nhân Vũ lẩm bẩm.

“Đúng vậy! Ngủ sao được!” Lương Viện được nuông chiều từ nhỏ cũng tỏ ra không thể chịu được sự cực khổ này.

Makarov cười nói: “Dĩ nhiên không thể ngủ như Hàn thế này rồi, tôi có một mẹo nhỏ, trước tiên ta hãy tìm ít đá trứng ngỗng dưới suối lên đã.”

Mọi người đều không hiểu, chỉ trừ Hàn Giang không nhúc nhích, những người khác đều xuống suối mò lên rất nhiều đá trứng ngỗng. Makarov lại nói: “Giờ hãy nướng những hòn đá trứng ngỗng này trên lửa, đồng thời, mỗi người chúng ta hãy đào một cái hố kích cỡ tương đương với thể hình của mình, sau đó đặt đá trứng ngỗng nướng vào trong hố, rồi dùng cát mịn bên bờ suối phủ lên trên đá trứng ngỗng, như vậy nằm ngủ trong hố sẽ ấm hơn rất nhiều đấy.”

Mọi người làm theo cách của Makarov, quả nhiên, thấy ấm hơn rất nhiều. Hàn Giang cũng không còn cách nào khác, đành làm theo cách của Makarov, đào cho mình một cái hố, sau đó nằm xuống, lúc đó mới dễ dàng vào giấc.

Tất cả mọi người đều mệt lả, đêm nay, Đường Phong, Hàn Giang, Lương Viện và Từ Nhân Vũ đều ngủ rất ngon. Sáng sớm hôm sau, Đường Phong tỉnh dậy đầu tiên, vươn vươn vai, than thở: “Không ngờ ngoài thiên nhiên cũng có thể ngủ đến…” vẫn chưa kịp nói hết câu anh đã im bặt, giật mình nhìn vào hai cái hố nông trước mặt, hét lên: “Không thấy Yelena và Makarov đâu nữa rồi?”

Tiếng hét của Đường Phong đánh thức Hàn Giang, Lương Viện và Từ Nhân Vũ, họ kiểm tra lại hành lý, những gì thuộc về họ không thiếu thứ gì, nhưng đồ đạc của Yelena và Makarov đã hoàn toàn biến mất. “Tôi đã nhận ra hai người họ có vấn đề từ lâu rồi!” Hàn Giang làu bàu.

“Xem ra hai người họ tự bỏ đi, chắc là mới đi được một lúc thôi” Đường Phong phán đoán.

“Vậy chúng ta có phải đuổi theo không?” Từ Nhân Vũ hỏi.

“Người ta không muốn đi cùng chúng ta, chúng ta còn đuổi theo sao!” Hàn Giang nổi giận.

Mọi người chìm trong im lặng, mãi một lúc sau, Lương Viện mới thỏ thẻ hỏi: “Giờ ta phải làm thế nào?”

“Kệ họ, tiếp tục lên đường!”

Bốn người chuẩn bị xong xuôi, tiếp tục lên đường. Lại cả một ngày đường núi, trước khi màn đêm buông xuống, họ đã vượt qua ngọn núi lớn cuối cùng, rút cuộc đã nhìn thấy đốm sáng dưới núi. “Hình như là một thị trấn nhỏ.” Đường Phong mừng rỡ nói.

“Cuối cùng cũng thoát ra rồi!” Từ Nhân Vũ ngồi bệt xuống sườn núi.

Bốn người tiếp tục đi xuống dưới núi, một tiếng sau, họ đã đi tới đường cái, họ định chặn một chiếc xe lại, nhưng trên đường không thấy có xe nào đi qua, bốn người đành phải tiếp tục đi bộ thêm một trăm mét. Bỗng Hàn Giang đột nhiên phát hiện ra một tấm biển ven đường, anh vui mừng soi đèn pin lên, nhưng vừa nhìn rõ nó, tinh thần anh đã trùng xuống, nặng trĩu như đeo đá, trên tấm biển đó viết là… “Sạt núi, đường hỏng, hiện đang sửa chữa!”

Mọi người vừa nhìn thấy tấm biển này đều tức khắc ỉu xìu. Từ Nhân Vũ than thở: “Khó khăn lắm mới đi được đến đây thì đường lại bị hỏng, thật sự tôi không chịu nổi nữa rồi!”

“Mau xem xem điện thoại di động có sóng chưa?” Đường Phong trong lúc tràn trề thất vọng vẫn giữ được chút bình tĩnh.

Mọi người vội lấy điện thoại ra xem nhưng phát hiện ra điện thoại lúc này đều đã hết pin. Vừa đói, vừa khát, vừa mệt, cộng thêm nỗi thất vọng tràn trề, Hàn Giang dường như không thốt nên lời, anh chỉ còn sức chỉ trỏ về phía đốm sáng nhấp nháy phía trước đường cái. Vậy là, mọi người tiếp tục cắm đầu đi tiếp. Không biết phía trước là nơi nào, nhưng dù sao cũng có hơi người. Đốm sáng càng lúc càng rõ nét, trong lòng ai cũng nhen nhóm lên chút hy vọng, bước chân cũng bất giác nhanh hơn.
 

hoahongden12

Active Member

1

Màn đêm buông xuống, Đường Phong đi mãi, rút cuộc cũng nhìn thấy rõ thị trấn nhỏ yên tĩnh dưới núi, một tấm biển nằm chỏng chơ ven đường quốc lộ, trên đó viết ba chữ “Lang Mộc Tự” khá to.

“Lang Mộc Tự, đây là nơi nào?” Hàn Giang nhìn tấm biển hỏi.

Đường Phong nghi hoặc đáp: “Nếu như tôi nhớ không nhầm thì Lang Mộc Tự là một thị trấn nhỏ nằm ở nơi tiếp giáp giữa Tứ Xuyên và Cam Túc. Vài năm trước, một nhóm tây ba lô đến đây du lịch đã bị hút hồn bởi phong cảnh cao nguyên và phong tục tập quán độc đáo vùng Khương Tạng này, và cũng bất ngờ trước vùng đào nguyên ngoại thế, nên họ đã gọi Lang Mộc Tự này là ‘Thụy Sỹ thu nhỏ của phương Đông’. Sau đó thị trấn Lang Mộc Tự trở thành thánh địa du lịch của khách du lịch ba lô trong và ngoài nước tìm về. Mỗi năm, đến mùa du lịch, du khách trong và ngoài nước đều nô nức tụ hội về đây. Nhưng hiện giờ sao lại vắng vẻ như vậy nhỉ?”

“Thế thì có gì lạ, bây giờ là mùa vắng khách du lịch mà!” Từ Nhân Vũ nhìn đèn đóm nhấp nháy ẩn hiện phía thị trấn nói.

“Lang Mộc Tự? Ở đây có đền chùa không?” Lương Viện tò mò hỏi Đường Phong.

Đường Phong giải thích: “Tên ‘Lang Mộc Tự’ ở đây không phải là tên chùa, mà là một địa danh, nhưng thực sự nơi này cũng có hai ngôi chùa, một là An Đa Đạt Thương Mộc Tự nằm ở đầu tỉnh Cam Túc. ‘Lang Mộc’ trong tiếng Tạng có nghĩa là ‘tiên nữ’, bởi gần trong sơn động giữa khe núi có một phiến đá ngọc đẹp như thiếu nữ, đấy là nguồn gốc của cái tên này. Một ngôi chùa khác là Cách Nhĩ Đệ Tự nằm ở phía giáp với tỉnh Tứ Xuyên. Hai ngôi chùa trong cùng một thị trấn, đồng thời trở thành tự viện của giáo hoàng Cách Lỗ phái, nhưng lại phân thành hai tỉnh, có thể coi là một thắng cảnh.”

“Xem ra chúng ta có thể nhân tiện ngao du một chuyến ở đây rồi.” Lương Viện cười.

“Thôi đi, hiện giờ tâm trí đâu mà chơi nữa!” Đường Phong nói lại.

Hàn Giang nhìn thị trấn nhỏ phía trước, hỏi: “Tôi chỉ ngạc nhiên là tại sao chúng ta lại đi đến đây nhỉ?”

“Đừng nghĩ ngợi nhiều thế nữa, vào trong thị trấn, chúng ta sẽ liên lạc được với thế giới bên ngoài. Chúng ta cũng có thể nghỉ ngơi tử tế một chút, mau đi thôi!” Đường Phong thúc giục.

Hàn Giang không nói gì. Anh lại nhìn về đốm lửa đèn nhấp nháy phía thị trấn trước mặt, rảo bước nhanh hơn.

Thị trấn rõ ràng vắng lặng một cách dị thường. Một con đường quanh co xuyên qua thị trấn, cửa hàng hai bên đường đa số đều đã đóng cửa ngừng kinh doanh, chỉ có một ngọn đèn cao áp màu vàng âm u cô độc sừng sững bên đường. Nhóm Đường Phong đi hơn mười phút trên phố nhưng không nhìn thấy lấy một bóng người, đang trong lúc nghi hoặc, thì đột nhiên họ phát hiện ở góc phố trước mặt có một cửa hàng vẫn đang sáng đèn, mở cửa kinh doanh.

“Trông có vẻ giống một quán cà phê?” Đường Phong phỏng đoán.

Nói xong, Đường Phong, Lương Viện và Từ Nhân Vũ mệt mỏi rã rời cũng không buồn hỏi ý kiến của Hàn Giang, đi thẳng vào quán cà phê tên là “Sa Sa” đó. Hàn Giang đeo một chiếc ba lô to, chẳng còn cách nào khác, đành theo sau ba người kia. Bước vào cửa, Hàn Giang lập tức dùng ánh mắt sắc bén quét một vòng quán cà phê này, quán không rộng lắm, trên tường có một tấm bản đồ thế giới rất to, bên trên dán chi chít những lời kỉ niệm của du khách khắp nơi trên thế giới. Thật không ngờ quán cà phê bé xíu thế mà lại nổi tiếng đến như vậy. Nhưng lúc này, quán cà phê lại vắng tanh, trừ chủ quán và bốn lữ khách đường xa đột nhiên ghé vào thì chỉ có một nữ du khách ngồi trong góc quán, uống cà phê một mình.

Hàn Giang ngồi đối diện nữ du khách, thăm dò một lượt. Cô gái này xem ra trạc tuổi Lương Viện, nhưng trông già dặn hơn Lương Viện rất nhiều. Cô gái mở lời trước: “Các anh từ đâu tới?”

“Từ Bắc Kinh.” Hàn Giang đáp.

Cô gái chăm chú quan sát Hàn Giang, Đường Phong, Lương Viện và mọi người một lượt thì lạnh nhạt nói: “Nhìn các anh chị toàn mặc đồ hiệu, chắc hẳn đều là người giàu có, xem ra chúng ta không cùng một đường.”

Hàn Giang không ngờ cô gái lại nói vậy, bối rối không biết nên trả lời thế nào. Anh sững người ra một lúc mới đáp lại: “Cô xem tôi người ngợm bẩn thỉu, sao mà giống người giàu có được!”

“Điều này càng khẳng định rằng các anh là người giàu có, bởi vậy các anh mới không tiếc của mà biến đồ hiệu thành bộ dạng này, và cũng chỉ có các anh mới làm được.”

Hàn Giang không muốn nói với cô gái mới quen biết này về tất cả những gì mà họ đã gặp phải trên đường đi nên đành phải lắc đầu đầu hàng: “Xem ra tôi nói không lại cô rồi, ít nhất tôi cũng không phải là người giàu có. Cô xem, mấy người bạn của tôi mới là giàu có đây này, đặc biệt là gã tiểu tử kia.” Nói xong, Hàn Giang lại chỉ vào Đường Phong phía xa xa: “Gã đó đã từng kiếm được bạc tỷ nhờ một tác phẩm nghệ thuật trong một cuộc bán đấu giá đấy!”

“Ồ? Quả nhiên là người giàu có!” Cô gái bình tĩnh nói, rồi lại liếc nhìn Đường Phong đang đứng đằng xa.

Hàn Giang dùng con mắt nhạy bén quan sát cô gái này, khi anh cố ý nhắc đến chuyện Đường Phong vừa kiếm được bạc tỷ trong cuộc bán đấu giá thì phản ứng của cô gái cũng không giúp anh tìm thấy được bất cứ sơ hở nào. Hàn Giang cười cười, nói tiếp: “Cô xem, cái gã đó gần đây còn gặp phải vận đào hoa, cô gái bên cạnh đang theo đuổi hắn đấy.”

“Ừm!” Cô gái khẽ hắng giọng rồi nói: “Nhưng bạn của anh xem ra cũng khá ổn đấy chứ.”

Giờ thì đến lượt Hàn Giang hắng giọng, anh nhủ thầm trong lòng: cái gã Đường Phong này sao lại sát gái thế nhỉ, cả cô gái này cũng cho rằng hắn khá ổn! Hàn Giang trấn tĩnh lại chút, hỏi tiếp: “Vẫn chưa thỉnh giáo quý danh của cô?”

“Tôi tên là Chu Nam Nam, đến từ Thượng Hải, anh gọi tôi là Nam Nam nhé!” Rút cuộc trên mặt Nam Nam cũng lộ ra một nụ cười.

“Tôi tên là Hàn Giang.” Hàn Giang giới thiệu xong, Đường Phong và Lương Viện cũng đi tới, tự mình giới thiệu một lượt, đương nhiên những gì cần giấu thì họ đều giấu hết đi rồi, nhưng bất luận thế nào, năm người họ cũng coi như là đã quen nhau.

2

Bốn người ăn no bụng trong quán cà phê nhỏ, rồi nghe Nam Nam kể về một loạt những điều mắt thấy tai nghe trong chuyến du lịch một mình này. Lương Viện nói đầy vẻ ngưỡng mộ: “Tôi thật sự ngưỡng mộ cô đấy, một mình mà đi được nhiều nơi như vậy.”

“Cô cũng có thể làm thế mà!”

“Một mình tôi đâu có dám đi xa vậy đâu!”

“Không phải cô có chàng người yêu cao to đẹp trai thế này bảo vệ sao?” Vừa nói, Nam Nam vừa liếc nhìn Đường Phong.

“Anh ta không phải người yêu tôi đâu, anh ta đang muốn quẳng tôi đi còn chẳng được nữa là.” Vẻ mặt Lương Viện thật ngây thơ.

Hai cô gái nói chuyện rất tâm đầu ý hợp, hoàn toàn không buồn để ý đến cảm giác của Đường Phong bên cạnh. Hàn Giang vẫn giữ cảnh giác, chăm chú nhìn từng người bước vào quán cà phê, thậm chí là cả từng người đi qua cửa. Anh không phát hiện ra bất cứ ai khả nghi, nhưng anh luôn cảm thấy có đôi mắt đang chằm chằm nhìn anh từ một góc tối nào đó. “Có lẽ do mình đa nghi quá”, anh nghĩ, nhưng anh càng nghĩ như vậy, cảm giác đó lại càng bộc phát mãnh liệt.

“Mọi người biết đài thiên táng không?” Nam Nam đột nhiên hỏi, thu hút sự chú ý của Hàn Giang.

“Đài thiên táng nào?” Hàn Giang tò mò hỏi.

Nam Nam nói: “Tôi tới Lang Mộc Tự, ngoài việc tham quan chùa chiền ra thì đến đây cũng chỉ vì đài thiên táng. Đài thiên táng ở đây rất nổi tiếng đấy.”

“Thiên táng là phong tục mai táng độc đáo của người dân tộc Tạng. Sau khi một người qua đời, mọi người khác sẽ đặt thi thể người đó trên đài thiên táng, thầy mo thực hiện xong các thủ tục xử lý xong xuôi sẽ để cho kền kền đến ăn xác.” Đường Phong giải thích một lượt.

“Khiếp vậy sao?” Lương Viện và Từ Nhân Vũ đồng thanh thốt lên, khiến cho chủ quán trong quầy bar cũng quay sang liếc họ một cái.

“Đúng vậy! Thường thì người dân tộc Hán không hiểu lắm về thiên táng. Người dân tộc Hán cho rằng, bảo tồn thi thể hoàn chỉnh mới là hiếu thuận, nhưng người dân tộc Tạng lại cho rằng, con người sau khi chết đi, linh hồn và thể xác đã tách khỏi nhau, xác thịt không còn tác dụng gì nữa nên dâng tặng cho kền kền ăn, mà kền kền lại là một loài chim thần, sau khi chúng ăn thịt người chết sẽ bay lên trên trời, và cũng sẽ đem theo cả linh hồn người chết lên thiên đường. Bởi vậy, thiên táng cũng được gọi là ‘điểu táng’. Đối với dân tộc Tạng, thiên táng là một hình thức vô cùng thần thánh.” Giải thích của Nam Nam khiến Lương Viện bắt đầu có đôi chút khái niệm về thiên táng.

“Ở đây cũng có đài thiên táng sao?” Đường Phong hỏi Nam Nam.

Nam Nam gật đầu: “Ở đây có một đài thiên táng nổi danh xa gần, nghe nói là đài thiên táng lớn nhất của khu vực An Đa.”

“Nhưng trước đây tôi đến Tây Tạng, đài thiên táng ở đó không cho phép tham quan.” Đường Phong lại hỏi.

“Đài thiên táng của Tây Tạng không cho phép tham quan, nhưng đài thiên táng ở đây cho phép tham quan, người địa phương hình như không kiêng kị những thứ này, hơn nữa, mọi người đến thật đúng lúc, sáng ngày mai sẽ có một đám thiên táng.”

“A! Nói như vậy, chúng ta có thể mục sở thị thiên táng rồi!” Từ Nhân Vũ vô cùng ngạc nhiên, nhưng bỗng cảm thấy trong lòng lộn mửa.

“Đúng vậy! Sáng sớm ngày mai, tôi sẽ lên đài thiên táng đó.” Nam Nam kiên quyết nói.

Lương Viện có chút sợ hãi nói: “Nam Nam, cô to gan thật đấy, tôi thì chẳng dám.”

“Chẳng có gì đáng sợ cả, các bạn phải coi thiên táng là nghi thức thần thánh. Phải biết rằng, không phải ở đâu cũng có thể nhìn thấy thiên táng, cũng không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy, các bạn được chứng kiến thì cũng được coi là may mắn rồi!” Khuôn mặt Nam Nam vẫn còn chút trẻ con, đầy vẻ tự tin.

Đường Phong tuy có chút buồn nôn, nhưng sự hứng thú và tò mò về thiên táng thần bí vẫn vượt xa sự sợ hãi trong lòng. Anh quyết tâm sáng sớm ngày mai sẽ theo Nam Nam lên đài thiên táng để chứng kiến cho bằng hết. Lương Viện thấy Đường Phong muốn đi, cũng thu hết can đảm, tỏ ý muốn đi. Từ Nhân Vũ cũng rất hứng thú với việc tới đài thiên táng. Bốn người lại nhìn nhìn Hàn Giang, Hàn Giang phẩy tay một cái, cười nói: “Đám trẻ con các cậu còn chẳng vấn đề gì huống hồ tôi.”

Vậy là, năm người bàn bạc rồi hẹn nhau sáng sớm hôm sau sẽ đến đài thiên táng tận mục sở thị.

3

Nam Nam dẫn hội Đường Phong đến khách sạn nhỏ mà cô ở, nhưng khi họ tới nơi thì khách sạn đã đóng cửa. Nam Nam gõ gõ cửa khách sạn, nhưng bên trong vẫn không có động tĩnh gì.

“Sao ở đây bây giờ lại vắng lặng thế nhỉ?” Đường Phong đột nhiên tò mò hỏi Chu Nam Nam.

“Bởi vì hiện giờ đã qua mùa du lịch lâu rồi, đây dù sao cũng chỉ là một vùng núi, cứ qua tháng Chín một cái là nhiệt độ sẽ hạ xuống nhanh chóng. Du khách đến đây rất ít, mà du khách ít rồi, thì những người buôn bán phần lớn cũng đều rời khỏi đây tới chỗ khác làm ăn.” Chu Nam Nam giải thích xong lại ra sức gõ cửa khách sạn, nhưng bên trong vẫn không có phản ứng gì.

“Có lẽ ông chủ ra ngoài rồi?” Từ Nhân Vũ suy đoán.

Từ Nhân Vũ vừa dứt lời, trong khách sạn đột nhiên vọng ra tiếng bước chân. Chẳng mấy chốc, một ông lão ngáp ngắn ngáp dài ra mở cửa, ông ta khoảng hơn sáu mươi tuổi, mặc một bộ quần áo vải Tôn Trung Sơn kiểu cũ màu xanh. Ông lão thò đầu ra, ngó nghiêng bên ngoài, tỏ vẻ nghi ngờ nhìn mấy người lạ ngoài cửa. Khi nhìn thấy Chu Nam Nam, khuôn mặt nhăn nheo của ông rút cuộc cũng xuất hiện nụ cười, ông mở miệng nói: “Muộn thế này rồi, tôi không thấy cô về, tưởng cô không quay lại nữa!”

“Sao thế được ạ, bác xem, cháu còn dẫn thêm về mấy người khách nữa đây này.” Chu Nam Nam chỉ vào hội Đường Phong nói.

“Hoanh nghênh, hoanh nghênh thôi!” Ông lão có chút gượng gạo mời nhóm Đường Phong vào.

Đường Phong nhìn xung quanh khách sạn rồi hỏi ông lão: “Tôi có thể dùng điện thoại ở đây một lúc không ạ? Điện thoại di động của chúng tôi đều hết pin rồi.”

“Điện thoại? Các cậu đến thật không đúng lúc, mấy hôm nay, đường dây điện thoại của chúng tôi xảy ra sự cố, điện thoại lúc được lúc mất, cậu thử xem sao!” Tức khắc, nụ cười trên mặt ông lão vụt tắt.

Đường Phong nhìn ông lão vẻ nghi ngờ rồi đi thẳng tới quầy lễ tân, nhấc điện thoại, quả đúng như những gì ông lão nói, đầu dây bên kia bận liên hồi. Đường Phong đặt điện thoại xuống, chán nản quay ra lắc lắc đầu với Hàn Giang, Hàn Giang chau mày, nói nhỏ: “Ban nãy ở quán cà phê tôi đã thử rồi, điện thoại cũng không gọi được, thật là kỳ lạ!”

“Khó khăn lắm mới đến được đây, giờ lại không liên lạc được, chúng ta đúng là đen đủi thật đấy!” Từ Nhân Vũ oán thán.

“Nam Nam, cô có thể cho chúng tôi mượn điện thoại một lúc không?” Đường Phong quay ra cầu cứu Chu Nam Nam.

Chu Nam Nam giơ hai tay ra, nói: “Thật đáng tiếc, trên đường đi điện thoại của tôi bị mất rồi, tôi còn đang định mượn tạm của các anh để dùng đây này!”

Đường Phong chán nản nhìn Hàn Giang, Hàn Giang cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải mở cửa phòng trước, về phòng nghỉ ngơi, nhân tiện sạc pin điện thoại luôn. Hàn Giang và Đường Phong ở cùng phòng, Từ Nhân Vũ một mình một phòng, Lương Viện vốn dĩ muốn ở cùng phòng với Nam Nam, nhưng Hàn Giang nghĩ tới đồ đạc trong túi của cô ấy nên đã thuê riêng một phòng cho Lương Viện.

Đường Phong vào phòng, quan sát một lượt, nói với Hàn Giang: “Ở đây kỳ lạ thật đấy, sớm thế này mà khách sạn đã đóng cửa rồi.”

“Thế thì cũng có gì lạ đâu, chẳng có mấy người, đương nhiên phải đóng cửa sớm rồi!” Hàn Giang nói.

Đường Phong vào nhà vệ sinh, bỗng nhiên có chút phấn khởi nói với Hàn Giang: “Anh đừng nói đây là khách sạn ở nơi rừng rú nhé, rất sạch sẽ đấy, còn có cả nước nóng, rút cuộc chúng ta có thể ngủ một giấc ngon lành rồi.”

“Tôi nhắc nhở anh, những du khách kia vẫn đang phải nhịn đói và chết cóng trên núi đấy.” Hàn Giang đầy vẻ nghiêm túc nói với Đường Phong.

“Nhưng ở đây cũng chẳng có cách nào để liên lạc với thế giới bên ngoài, chúng ta làm được gì bây giờ?” Đường Phong ngập ngừng một lúc rồi lại an ủi Hàn Giang: “Đã mấy ngày rồi, không biết chừng nhân viên cứu viện đã tìm thấy họ rồi cũng nên, có khi mấy người chúng ta có khả năng lại được liệt vào danh sách những người mất tích ấy chứ.”

Hàn Giang ngẫm nghĩ, Đường Phong nói cũng không phải không có lý, vốn dĩ hy vọng có thể sớm thoát ra ngoài, thông báo địa điểm máy bay xảy ra sự cố, nhanh chóng đi cứu viện, nhưng thật không ngờ, trên đường đi lại xảy ra nhiều chuyện như vậy; nếu không biết chừng đúng như Đường Phong nói, ngược lại mấy người họ lại trở thành nạn nhân mất tích. Stephen sao rồi nhỉ? Stephen đen đủi! Còn cả Makarov và Yelena nữa, hai người họ có ổn không? - Hàn Giang nằm trên giường, không hiểu tại sao trong đầu mình lại hiện lên khuôn mặt tươi cười của Yelena.

Nửa đêm, Hàn Giang bỗng nhiên bị tỉnh dậy bởi tiếng cãi vã ngoài cửa sổ tầng dưới, Hàn Giang bật dậy khỏi giường, dỏng tai nghe, âm thanh đó hình như là ngoài cửa sổ, nhưng hình như lại ở rất xa. Hàn Giang cố gắng để nghe cho rõ nội dung của cuộc cãi vã nhưng anh thực sự không thể nghe được gì.

Hàn Giang nhìn Đường Phong đang ngủ say, mò súng ngắn dưới gối lên, rón rén mở cửa phòng. Hành lang tối đen, lắng nghe một lần nữa nhưng âm thanh đó lúc này lại không thấy đâu nữa, cả khách sạn nhỏ lại chìm trong tĩnh lặng. Hàn Giang cảm thấy bất ổn, anh ghé tai vào cửa phòng của Từ Nhân Vũ, dỏng tai lắng nghe, bên trong vọng ra tiếng khịt khịt mũi. Hàn Giang lại áp vào cửa phòng Lương Viện, trong phòng không một tiếng động, nhưng Hàn Giang vốn rất thính nên vẫn có thể “tóm” được tiếng ngáy khe khẽ của Lương Viện. “Xem ra mình đa nghi rồi!” Hàn Giang thu súng lại, nhìn về phía quầy lễ tân dưới tầng, không có người, không có bất cứ động tĩnh gì.

Hàn Giang quay lại phòng mình, nằm ra giường, anh không nghe thấy tiếng cãi cọ đó nữa, dần dần, cơn buồn ngủ lại ùa đến tấn công anh, Hàn Giang nhắm mắt lại…

4

Sáng sớm hôm sau, khi Đường Phong tỉnh dậy, đã là hơn 10 giờ, Hàn Giang nằm bên cạnh vẫn đang ngủ say, hơi thở phì phò, điều này không giống lắm với phong cách của Hàn Giang. Đường Phong gọi Hàn Giang dậy. “Quái lạ! Hôm qua sao tôi lại ngủ say như chết vậy nhỉ?” Hàn Giang lắc lắc đầu, cảm giác đầu óc mụ mị nặng trĩu.

“Chuẩn bị nhanh, hôm qua chúng ta đã hẹn Nam Nam đến đài thiên táng mà, bây giờ có khi muộn rồi đấy.” Đường Phong nhắc nhở Hàn Giang.

Hàn Giang vừa nghe Đường Phong nhắc vậy, nhảy “piu” một cái ra khỏi giường, ầm ầm gõ cửa phòng Lương Viện bên cạnh. Đường Phong không hiểu gì cả, cũng chạy theo. Hàn Giang vừa gõ cửa vừa lầm rầm nói nhỏ với Đường Phong: “Hôm qua thật rất không bình thường, lẽ ra tôi không nên ngủ say như thế.” Anh lại nghĩ tới tiếng cãi vã kỳ lạ ngoài cửa sổ tầng dưới đêm qua.

“Có lẽ hôm qua anh mệt quá cũng nên.”

“Không thể, hiện giờ tim tôi đang đập thình thịch đây này, tôi lo Lương Viện xảy ra chuyện.”

Đường Phong vừa nghe thấy vậy cũng bắt đầu lo lắng, hai người ra sức đập cửa phòng Lương Viện rầm rầm, đợi mãi một hồi lâu, cửa phòng Lương Viện vẫn chưa mở, ngược lại còn làm Từ Nhân Vũ tỉnh giấc. Hàn Giang mất hết kiên nhẫn, đang định phá cửa xông vào thì cửa bật mở, Lương Viện mắt nhắm mắt mở nhìn nhìn ba người đàn ông cao to ngoài cửa, cười nói: “Gọi tôi dậy cũng không cần phải hành động mạnh như vậy chứ?”

Hàn Giang không buồn để ý tới Lương Viện, xông thẳng vào phòng cô, mở ba lô ra, nhìn thấy kệ tranh ngọc còn nguyên vẹn nằm trong túi, anh mới thở phào nhẹ nhõm. “Nửa ngày mới mở cửa, cô làm chúng tôi hết hồn đấy.” Đường Phong trách móc.

“Các anh không cần lo lắng, tôi ngủ cũng ôm theo cái túi của mình, mất sao được!” mặt Lương Viện đầy vẻ ngây thơ. Đột nhiên, nhớ ra điều gì đó, Lương Viện hét lên: “Chết rồi! Chết rồi! Sao giờ này các anh mới đến gọi tôi dậy. Tối hôm qua hẹn với Nam Nam rồi, sáng sớm hôm nay phải tới đài thiên táng, có khi Nam Nam đợi sốt ruột rồi đấy.”

“Nam Nam?” Hàn Giang lẩm bẩm, nói với Đường Phong và Lương Viện: “Tôi đi tìm Chu Nam Nam, hai người chuẩn bị đi, đợi chút nữa sẽ xuất phát.”

Hàn Giang đến trước cửa phòng Chu Nam Nam, gõ cửa hồi lâu nhưng không có ai trả lời. Hàn Giang chạy xuống quầy lễ tân ở tầng dưới lầu, hỏi thăm ông chủ nhà nghỉ. Ông lão vẫn mặc bộ trang phục Tôn Trung Sơn bằng vải thô, nghe Hàn Giang hỏi Chu Nam Nam, ông trả lời bằng giọng khàn khàn: “Tôi thấy sáng sớm cô ấy đã ra ngoài rồi.”

“Ông có biết cô ấy đi đâu không ạ?”

Ông lão lắc lắc đầu: “Cô ấy không nói, nhưng…”

“Nhưng sao ạ?”

“Nhưng, hôm qua cô ấy hỏi tôi về chuyện đài thiên táng, tôi đoán chắc là cô ấy đến đó rồi.” Ông lão trả lời, mặt vô cảm.

Hàn Giang gật gật đầu, đang định bỏ đi thì bỗng nhiên quay lại hỏi ông lão thêm một câu: “Cô gái đó đến ở đây từ khi nào vậy ạ?”

Ông lão ngẫm nghĩ, đáp: “Hôm trước, tối hôm trước cô ấy tới đây một mình.”

Hàn Giang tư lự suy đoán, quay lại phòng Lương Viện: “Ông lão nói Nam Nam đã đi từ sáng sớm rồi, có thể là một mình đến đài thiên táng.”

“Sao Nam Nam không gọi tôi? Tối qua tôi hẹn với cô ấy hôm nay đi cùng rồi mà.” Lương Viện oán thán.

“Có khi tại cô ngủ say quá.” Đường Phong nói.

“Không thể như vậy, cô ấy mà gọi tôi, nhất định tôi sẽ dậy.”

Lương Viện vẫn muốn nói thêm gì đấy nhưng Hàn Giang đã nói như đinh đóng cột: “Đừng ca thán nữa, mọi chuyện hãy đợi đến khi lên đài thiên táng, tìm thấy Chu Nam Nam rồi nói.”

Bốn người về phòng chuẩn bị. Hàn Giang bật điện thoại đã sạc pin lên, phát hiện vẫn chưa có sóng, anh chán nản nhìn Đường Phong, hỏi nhỏ: “Đêm qua cậu có nghe thấy tiếng cãi vã ngoài cửa sổ tầng dưới không?”

“Tiếng cãi vã? Không, sao thế, anh nghe thấy gì vậy?” Đường Phong không hiểu hỏi lại Hàn Giang.

Hàn Giang chau mày, lẩm bẩm một mình: “Sao chỉ mỗi mình nghe thấy nhỉ? Hay là mình nằm mơ?”

“Rút cuộc là sao?” Đường Phong đầu óc mơ hồ.

“Tóm lại, cảm giác của tôi rất bất ổn, luôn cảm thấy chỗ này có gì đó dị thường.” Hàn Giang nhìn Đường Phong nói.

“Tôi cũng cảm thấy ở đây có chút kỳ quái, nhưng chúng ta vẫn phải khẩn trương đi tìm Chu Nam Nam thôi!”

Đường Phong nói xong, Lương Viện và Từ Nhân Vũ cũng đã chuẩn bị xong xuôi, Đường Phong hỏi thêm ông lão về đường đi, rồi bốn người lên đường hướng về đài thiên táng.

5

Đến phố, Đường Phong mới phát hiện ra, hôm nay trời âm u, gió đông bắc hun hút, người đi đường thưa thớt, thị trấn Lang Mộc Tự càng thêm vắng lặng.

Bốn người đội gió lạnh đi được một đoạn, đường núi càng lúc càng lầy lội. Đường Phong ca thán: “Sao lại đi đúng vào lúc thời tiết tồi tệ này chứ.” Không ai tiếp lời, bốn người tiếp tục cúi đầu nhìn đường, đài thiên táng càng lúc càng gần, Đường Phong đã nhìn thấy cờ phướn màu trắng rải rác trên sườn núi, anh biết, ở đó chính là đài thiên táng.

Không hiểu là do tác động tâm lý hay là do độ cao so với mực nước biển mà Đường Phong cảm thấy càng trèo lên cao càng lạnh buốt. Gió gào thét, lướt qua mặt bốn người, nhưng họ nhất định không dừng bước, ngược lại còn bước nhanh hơn, đài thiên táng cách họ mỗi lúc một gần.

Đồi cỏ trước mặt hiện lên một hàng rào thép gai, nhưng đây chỉ là một hàng rào thép tượng trưng, cổng của nó mở toang, và không thể ngăn cản bất cứ ai tiến vào đài thiên táng săn lùng cái lạ. Lương Viện nhìn xung quanh, không thấy một ai, cũng chẳng thấy bóng dáng của Nam Nam, cờ phướn phía trước bị gió lớn thổi tung, phát ra những âm thanh quái dị, không gian nồng nặc mùi máu tanh. Lương Viện sợ hãi, cô run rẩy chỉ vào tám chữ to màu đỏ treo trên hàng rào thép: “Du khách dừng bước, từ chối tham quan”, giống như tìm thấy lối thoát để xuống đồi: “Mọi người xem, ở đây không cho vào, hay là chúng ta quay về thôi, không biết chừng Nam Nam cũng đã quay về rồi.”

Từ Nhân Vũ cũng đồng ý, Hàn Giang có chút do dự, anh nhìn xung quanh và cũng gật đầu, rồi ba người cùng nhìn Đường Phong. Đường Phong không nói gì, liếc nhìn đài thiên táng phía xa xa một cái, quay người định đi xuống núi, mới đi được vài bước, đột nhiên phát hiện trên không trung có một bầy kền kền đen kịt đang bay tới. Kền kền lượn vòng quanh trên đài thiên táng, mãi vẫn không chịu bay đi. Đường Phong ngẩng đầu, nhìn bầy kền kền đen sì bay lượn trên không trung, như đang suy tư điều gì đó. Sau khi lượn vài vòng trên trời, kền kền đậu lại trên đài thiên táng.

Lương Viện giục Đường Phong: “Anh nhìn gì vậy, mau đi thôi!”

Đường Phong nhìn đám kền kền trên đài thiên táng, rồi quay đầu lại nhìn Hàn Giang, Lương Viện và Từ Nhân Vũ. Rồi đột nhiên hét lên: “Không được, tôi phải vào xem sao.” Nói xong, Đường Phong xông thẳng vào đài thiên táng không một bóng người. Hàn Giang vốn đang do dự cũng liền bám sát Đường Phong đi về phía cổng đài thiên táng, Từ Nhân Vũ và Lương Viện bó tay, đành phải đi theo.

Bốn người đi qua tấm cờ phướn, mùi máu tanh khiến Đường Phong và Lương Viện thi nhau nôn ọe. Cờ phướn phất phơ trong gió, sáu chữ chân ngôn được nhân dân Tây Tạng thành kính viết lên cờ phướn, mỗi khi gió thổi qua, thì đồng nghĩa với việc người chết đã thông niệm một lượt sáu chữ chân ngôn này rồi. Người Tây Tạng tin rằng, đây chính là lời cầu nguyện của người chết cho mình và người nhà. Xung quanh cờ phướn, có đặt rất nhiều bản kinh khắc bằng đá. Đường Phong đứng trước những bản kinh này lặng lẽ cầu nguyện. Lương Viện cũng bắt chước điệu bộ của Đường Phong, miệng lẩm nhẩm đọc kinh, vừa là cầu nguyện cho mình, cũng vừa để cầu nguyện cho ông nội sớm có thể lên thiên đường, tức khắc, sự khủng hoảng ban nãy đột nhiên tan biến, giữa trời đất mênh mông mịt mùng này, một cảm giác thần thánh bỗng trào dâng trong lòng họ.

Vòng qua tấm cờ phướn này, bốn người tới một bãi đất trống rải kín những tảng đá to, ở đây chất đống một số thứ hỗn loạn, có rìu, có quần áo, còn có một vài đoạn xương người và tàn tích không nhận biết được. Đường Phong khẽ nói: “Đây chính là đài thiên táng rồi, thi thể của người chết được xử lý ở đây, chia thành từng miếng nhỏ, đập nát xương, để kền kền đến ăn.”

Hàn Giang chau mày, Từ Nhân Vũ và Lương Viện bịt miệng, để tránh làm phiền linh hồn và bầy kền kền trên đài thiên táng, bốn người men theo đài thiên táng, nhanh chóng đi về phía bên kia dốc núi. Đi được khoảng trăm mét, đột nhiên phát hiện ra đầu dốc núi bên kia đang có một bầy kền kền đậu trên đồng cỏ, ra sức xé rách một thứ gì đó…

6

Trong lòng bốn người không hẹn mà cùng trào dâng một dự cảm không lành. Đường Phong bước thật nhanh về phía trước, bất chấp sự nguy hiểm bị kền kền tấn công khi mình xông tới vị trí của đám kền kền đó.

Kền kền tan tác bay lên. Đường Phong, Hàn Giang, Lương Viện và Từ Nhân Vũ vội vàng chạy tới. Bốn người đều sững sờ trước cảnh tượng máu me trước mắt, rồi ngay sau đó là trận nôn mửa kinh hoàng. Ở đúng nơi bầy kền kền tản ra, họ nhìn thấy thi thể của Chu Nam Nam. Quần áo của Nam Nam đã bị kền kền xé rách tả tơi, bán khỏa thân, máu thịt lẫn lộn, không ra hình người. Đáng sợ nhất là khuôn mặt của người chết, hai hố mắt trống trơn, không còn con ngươi, sau gáy hoàn toàn bị dập nát, óc vương vãi khắp nơi, một con kền kền không chịu bỏ đi vẫn đứng đó hút óc của Chu Nam Nam…

Lương Viện mất tự chủ ngã vào lòng Đường Phong, khóc lóc: “Ai đã giết Nam Nam vậy? Nam Nam? Hôm qua cô ấy vẫn còn sống sờ sờ ra đấy mà!”

Đường Phong ôm chặt lấy Lương Viện, khóe mắt cũng ướt đẫm, thật không ngờ Nam Nam hôm qua vẫn còn khỏe mạnh như thế, giờ lại chết trên đài thiên táng!

“Hay là Nam Nam bị kền kền tấn công, thế nên…” Từ Nhân Vũ suy đoán.

“Không thể! Kền kền thường chỉ ăn thịt phân hủy!” Đường Phong lớn tiếng bác bỏ phán đoán của Từ Nhân Vũ, anh vừa mới dứt lời, đột nhiên có một giọng nói vọng lại từ nơi xa xăm theo tiếng gió ào ào: “Đường Phong, mày nói đúng đấy, Chu Nam Nam là do tao giết.”

Bốn người giật bắn mình, tám con mắt kinh ngạc, nhìn ra xung quanh. Không có người, đài thiên táng trống trải, không một bóng người! Đường Phong, Hàn Giang và Từ Nhân Vũ không hẹn mà gặp, đồng loạt rút khẩu súng ngắn 92 ra, lên nòng, cảnh giác quan sát xung quanh.

Giọng nói đó lại vang lên: “Đường Phong, Hàn Giang, thu súng của chúng mày lại, chúng mày không phải lo lắng xạ thủ bắn tỉa, tao không làm hại chúng mày ở đây đâu.”

Hàn Giang cố gắng phán đoán giọng nói này, tiếng Hán, giọng nam trung, tiếng phổ thông, tiếng phổ thông chuẩn, không nghe thấy bất cứ khẩu âm địa phương nào, giống như phát thanh viên thời sự trên truyền hình, anh nhanh chóng nhận định đây là giọng nói đã qua xử lý. Hắn là ai? Hắn đang trốn ở đâu?

Lúc này, Lương Viện vẫn gục trong lòng Đường Phong, không biết lấy dũng khí từ đâu ra, gào lên với giọng nói đó: “Ngươi là ai? Sao không dám ra đây? Tại sao ngươi lại giết hại Nam Nam?”

Lương Viện vẫn chưa kêu gào xong, giọng nói đó đã cười điện dại: “Ha ha! Đại tiểu thư Lương của tôi, đừng có tức giận như vậy, tại sao lại giết Nam Nam, sau này cô sẽ biết; còn tôi là ai, khà khà, sau này cô cũng sẽ biết. Nhưng, có một điều bây giờ tôi sẽ có thể để cho cô biết, cái chết của Chu Nam Nam là do cô, do cái thứ mà cô mang theo bên người.”

“Kệ tranh ngọc Tây Hạ?” Lương Viện giật bắn người, càng ôm chiếc ba lô chặt hơn.

Đường Phong và Hàn Giang nghe thấy những lời này cũng rất kinh ngạc, hai người nhìn nhau, hình như hiểu ra nguồn gốc của hung thủ. Đường Phong chạy tới sườn núi phía sau lưng, nhìn xung quanh, nhưng vẫn không thấy một ai. Giọng nói đó lại lần nữa cất lên: “Lương Viện, nếu như cô nghe lời, 5 giờ chiều nay hãy mang thứ mà tôi cần để vào ba lô của cô, sau đó đặt cạnh sư tử đá trước đại kinh đường Cách Nhĩ Đệ Tự. Chỉ cần cô làm theo lời tôi nói, tôi sẽ không làm hại các người. Nhưng nếu như các người giở trò thì sẽ chết thảm hơn cả Chu Nam Nam đấy! Ha ha… ha ha! Nhớ kĩ! Năm giờ chiều, bên cạnh sư tử đá trước đại kinh đường Cách Nhĩ Đệ Tự.”

Nói xong, giọng nói đó không vang lên nữa, Đường Phong một mình đứng trên chỗ cao nhất của dốc núi, bên tai anh ngoài tiếng gió thì vẫn chỉ là tiếng gió!

7

Đường Phong đứng thẳng trên nơi cao nhất của dốc núi, anh vẫn đang cố gắng tìm kiếm. Đột nhiên, Đường Phong phát hiện ra trong một chỗ trũng trên sườn núi phía xa xa, có hai đốm màu đỏ, ẩn hiện ẩn hiện. Anh nhanh chóng phán đoán ra, đó chính là hai người, trông vẻ giống như hai Lạt ma. Đường Phong lao như bay về phía hai Lạt ma đó, đợi đến khi anh đuổi kịp hai Lạt ma thì hai người này ngoài vẻ mặt kinh ngạc ra cũng chẳng biết gì cả.

Đường Phong đành phải chán nản quay lại, khi anh mệt mỏi rã rời đổ người ra bãi cỏ thì Hàn Giang tiến lại, quẳng cho anh một thứ, Đường Phong đón lấy nhìn: một chiếc máy ghi âm.

“Ban nãy kẻ nói chuyện với chúng ta chính là cái này.” Không cần Hàn Giang giải thích, Đường Phong đã hiểu ra rút cuộc là chuyện gì.

“Mẹ nó! Mấy thằng này ngông cuồng thật.” Đường Phong tức giận đập bình bịch chiếc máy ghi âm lên bãi cỏ.

“Đúng vậy! Quá ngông cuồng, hình như chúng nắm rõ như lòng bàn tay mọi chi tiết ngầm của chúng ta, còn chúng ta thì lại không biết một chút gì về chúng cả.” Hàn Giang nghi ngờ nói.

Đường Phong khẽ gật đầu: “Đúng! Nhất định là chúng ta có vấn đề ở đâu đấy mới để cho đối thủ từng bước vượt trước như vậy.” Đường Phong chìm trong suy tư, nhưng, chưa được bao lâu, Đường Phong lại nói: “Hiện giờ vẫn chưa tới lúc tổng kết kinh nghiệm giáo huấn. Năm giờ chiều, Cách Nhĩ Đệ Tự còn có một trận ác chiến.”

“Có lẽ chúng chỉ tạo uy ảo, hiện giờ người đi lại trong thị trấn không nhiều, nếu chúng thật sự dám lộ diện tại Cách Nhĩ Đệ Tự, chẳng nhẽ ta lại không tóm được chúng?” Hàn Giang bực dọc nói.

Đường Phong đứng dậy, cúi người nhặt lại máy ghi âm bị anh đập hỏng, nói: “Mặc kệ bọn chúng chiều nay có lộ mặt hay không, chúng ta cũng đều phải chuẩn bị.” Đường Phong vừa nói vừa lấy băng cát sét ra, huơ huơ trước mặt Đường Phong: “Chúng ta nhất định phải bình tĩnh. Nhưng, ở đây…”

Hàn Giang rất khó xử, anh đang suy nghĩ xử lý thi thể của Chu Nam Nam thế nào. Đường Phong bất lực nhìn thi thể của Chu Nam Nam, nói: “Tôi cũng không biết, đợi liên lạc được với thế giới bên ngoài sẽ tính tiếp vậy! Chúng ta phải dốc hết sức ứng phó với tình huống có khả năng phát sinh chiều nay.”

Đường Phong nói xong, liếc nhìn Từ Nhân Vũ đang đứng sừng sững bên cạnh. Anh đột nhiên trông thấy Từ Nhân Vũ lúc này đang thẫn thờ nhìn chằm chằm vào chiếc ba lô của Lương Viện, anh nhìn theo ánh mắt của Từ Nhân Vũ thì phát hiện ra phéc mơ tuya ba lô của Lương Viện không biết đã mở ra tự lúc nào, chiếc hộp gỗ tử đàn trong đó đã rơi ra ngoài, còn Lương Viện cẩu thả lại không hề chú ý tới sự khác lạ của chiếc ba lô mình đeo.

Đường Phong thấy vậy, lao đến nhặt ngay chiếc hộp tử đàn trên bãi cỏ lên, nhưng không hiểu sao, nắp của chiếc hộp lại mở ra, nên khi Đường Phong vừa cầm vào chiếc hộp, kệ tranh ngọc theo đà tuột ra. Hàn Giang đứng bên cạnh nhìn thấy, vội vàng lao lên phía trước, tức tốc cất kệ tranh ngọc vào trong hộp, sau đó nhét lại vào trong ba lô của Lương Viện.

“Sao lại bất cẩn như vậy!” Hàn Giang khẽ trách móc, đồng thời liếc nhìn Từ Nhân Vũ một cái. Kệ tranh ngọc vẫn nguyên vẹn, Hàn Giang yên tâm rồi, nhưng để người ngoài như Từ Nhân Vũ nhìn trộm thấy kệ tranh ngọc, Hàn Giang cũng không tránh khỏi lo lắng. Anh kéo Từ Nhân Vũ đang đứng im một chỗ, nói: “Chúng ta về đi đã!”

Ai ngờ, Từ Nhân Vũ lại giãy Hàn Giang ra, làu bàu: “Không! Tôi không thể đi cùng các anh được nữa.”

“Tại sao?” Đường Phong hỏi lại.

“Bởi vì cái thứ trong ba lô của các anh đó!” Từ Nhân Vũ hét lên.

Câu nói của Từ Nhân Vũ khiến Đường Phong và những người còn lại đều vô cùng ngạc nhiên. Đường Phong ngây ra một lúc rồi mới hỏi lại Từ Nhân Vũ: “Sao vậy? Anh nhìn thấy thứ đó rồi à?”

“Không! Tôi chưa nhìn thấy, nhưng giờ thì tôi biết rồi, tất cả những gì mà chúng ta gặp trên đường, Khương Trại, và cả ở đây nữa, thậm chí bao gồm cả sự cố máy bay, tất cả những chuyện đáng sợ này đều liên quan tới cái thứ trong ba lô của các anh, máy ghi âm ban nãy đã nói rất rõ rồi! Stephen, Chu Nam Nam, có lẽ còn cả Yelena và Makarov nữa, họ đều trở thành vật hy sinh, tôi cũng không muốn thành người tiếp theo đâu!” Từ Nhân Vũ hét lên giữa đài thiên táng trống trải vắng lặng, giọng nói của anh ta kinh động cả bầy kền kền.

Hàn Giang bước tới, nhìn Từ Nhân Vũ: “Tiến sĩ, hãy nghe tôi nói, tôi hiểu tâm trạng của anh, tôi không phủ nhận tất cả những gì gặp phải đều liên quan tới thứ trong ba lô của Lương Viện, nhưng tôi phải nhắc nhở anh rằng, nếu bây giờ mà anh tách khỏi chúng tôi, khả năng sẽ càng nguy hiểm hơn.”

“Càng nguy hiểm hơn? Thôi đi, theo các anh mới càng nguy hiểm hơn, tôi cũng không muốn bỏ mạng ở chốn này!” Từ Nhân Vũ lắc đầu nói.

Đường Phong không biết phải khuyên ngăn Từ Nhân Vũ thế nào. Hàn Giang đi đi lại lại trước mặt Từ Nhân Vũ, anh đang ngẫm nghĩ, nên ứng phó thế nào với cục diện này. Cuối cùng, anh đứng lại trước mặt Từ Nhân Vũ, nghiêm túc nói: “Được rồi! Tiến sĩ, nếu như anh cố chấp muốn bỏ đi như vậy, chúng tôi cũng không miễn cưỡng giữ anh lại nữa, nhưng mong anh suy nghĩ cho kĩ, bây giờ anh bỏ đi thì chỉ có hai con đường, một là rời khỏi đây, còn một nữa là ở lại đây, đợi đến khi điện thoại được khôi phục lại. Bất luận anh chọn con đường nào, tôi cũng đều hy vọng sau khi anh liên lạc được với thế giới bên ngoài, sẽ kịp thời báo cáo về tình hình sự cố máy bay, còn cả tình hình của chúng tôi nữa, tôi đưa cho anh một số điện thoại, anh có thể gọi vào số này.”

Vừa nói, Hàn Giang vừa móc ra tấm danh thiếp mà Từ Nhân Vũ đã đưa cho anh, viết một dãy số ra mặt trắng phía sau tấm danh thiếp, sau đó đưa lại cho Từ Nhân Vũ. Từ Nhân Vũ liếc nhìn một cái, nói: “Đây là số điện thoại? Số điện thoại thật gì mà lạ thế!”

“Là số điện thoại thật đấy, anh nhất định phải gọi vào số này nhé và nói rõ sự cố máy bay cũng như tình hình trên cả quãng đường của chúng tôi, chúng tôi là những người bạn đáng để anh tin cậy.” Hàn Giang thành khẩn nói.

Từ Nhân Vũ cầm tấm danh thiếp, đáp: “Bạn? Có lẽ là vậy! Các anh yên tâm, tôi sẽ gọi vào số này.” Nói xong, Từ Nhân Vũ không buồn quay đầu lại, một mình đi thẳng xuống núi. Hàn Giang nhìn theo bóng Từ Nhân Vũ xa dần, không khỏi buông một tiếng thở dài.

8

Đường Phong, Hàn Giang và Lương Viện nhìn theo Từ Nhân Vũ dần dần mất hút khỏi tầm mắt, sau đó họ cũng bắt đầu đi xuống núi. Trên đường đi, ba người chốc chốc lại quay đầu nhìn lại đài thiên táng, cờ phướn trên đài thiên táng vẫn đang phần phật trong gió, ở đó có thi thể của Chu Nam Nam đang bị bầy kền kền mặc nhiên cắn xé, nguyện cầu cho bầy kền kền đó sẽ đem linh hồn của cô ấy đến nơi thật xa, đến với thiên quốc.

Buổi trưa, mây khói âm u trong không trung đã tản đi, một tia nắng hiếm hoi xuất hiện, thị trấn nhỏ náo nhiệt hơn ban sáng một chút. Ba người tiện thể ghé vào một quán ăn theo phong vị Tứ Xuyên để ăn bữa trưa. Đường Phong và Lương Viện vẫn chưa thoát khỏi sự ám ảnh của đài thiên táng, nên nhìn thấy thức ăn, không có chút thích thú nào, nhưng dưới sự kiên quyết của Hàn Giang, hai người họ vẫn phải miễn cưỡng ăn cho no bụng.

Trở lại khách sạn, Từ Nhân Vũ đã trả phòng. Hàn Giang dùng chiêu đặc biệt, xâm nhập vào phòng của Chu Nam Nam, kiểm tra một lượt, ngoài xấp tiền trăm tệ lục ra được từ trong túi của Chu Nam Nam, thì không phát hiện ra bất cứ điều khả nghi nào khác. Hàn Giang để lại tiền vào trong túi, rút lui khỏi phòng.

Trở lại phòng mình, Hàn Giang nói với Đường Phong và Lương Viện: “Ở đây đã không còn an toàn nữa rồi, chúng ta phải mau rút thôi.”

Ba người trả phòng, đi bộ cả quãng đường, chẳng mấy chốc đã tới Cách Nhĩ Đệ Tự. Cách Nhĩ Đệ Tự không giống như đền chùa thường thấy của dân tộc Hán là có một bức tường vây quây lấy cả khu chùa, Cách Nhĩ Đệ Tự là một quần thể kiến trúc rộng lớn, rải rác quanh núi là những điện thờ lớn nhỏ. Đường Phong, Hàn Giang và Lương Viện đeo ba lô như những du khách thông thường, từ chân núi đi qua từng điện thờ một rồi chầm chậm tham quan dần lên. Trên đường đi, trừ những người Tạng thành kính khấn lễ ra thì họ không gặp du khách ngoại địa nào, càng không phát hiện ra ai khả nghi.

Đường Phong và Lương Viện cũng học theo người dân Tạng, khấn lễ một vòng trong dãy hành lang cầu kinh dài hun hút. “Khấn lễ có thể khiến con người quên đi phiền não!” Đường Phong nói với Lương Viện, nhưng Lương Viện vẫn không sao quên được cảnh tượng đẫm máu trên đài thiên táng ban sáng.

Sau khi tham quan xong vài tòa điện thờ chóp bạc cao quý nhất ở Cách Nhĩ Đệ Tự, ba người họ tới trước đại kinh đường của Cách Nhĩ Đệ Nhị. Đường Phong nhìn nhìn đồng hồ, đã bốn rưỡi chiều rồi, những âm thanh trầm tịnh trải dài trong đại kinh đường, tiếng tụng kinh của các Lạt ma trầm ngâm uyển chuyển, trùng trùng điệp điệp, vang vọng xa xăm. Trên quảng trường trước đại kinh đường, trừ một số người dân địa phương, thì còn lại là gần chục khách du lịch ngoại địa túm năm tụm ba, còn có cả hai du khách nước ngoài tóc vàng mắt xanh.

“Làm gì vậy nhỉ? Sao những người kia lại tụ tập ở đây?” Hàn Giang hỏi Đường Phong.

Đường Phong cũng không biết, liền tò mò hỏi một vị du khách, vị này đáp: “Nghe nói ở đây sắp có một hoạt động, chúng tôi đến xem sao.”

Đường Phong quan sát một vòng đại kinh đường, quả nhiên, hai bên đại kinh đường đều có một tượng sư tử đá không to lắm. Ba người bàn bạc, quyết định để một số vật phẩm không dùng tới vào ba lô màu xanh của Lương Viện rồi đặt phía bên phải cạnh sư tử đá.

Mọi thứ chuẩn bị xong xuôi, Đường Phong và Lương Viện đóng giả thành đôi tình nhân, ngồi tâm sự cách tượng sư tử đá không xa; Hàn Giang thì một mình lẫn vào trong đám người đang xúm lại, dùng ánh mắt nhạy bén như chim ưng của mình chăm chú quan sát từng người có mặt ở đây.

Kim giờ nhích gần tới 5 giờ, người trước đại kinh đường tụ tập càng lúc càng đông, khả năng là do chênh lệch thời gian, năm giờ chiều, trời vẫn sáng trưng. Hàn Giang không biết tiếp theo sẽ xảy ra chuyện gì? Chốc chốc anh lại nhìn chiếc ba lô màu xanh cạnh sư tử đá, lúc lại nhìn Đường Phong và Lương Viện phía xa xa, thỉnh thoảng lại lướt qua một lượt đám người vây xem, đặc biệt là những du khách hiếu kỳ.

Còn vài phút nữa là đến 5 giờ, đột nhiên, một bóng người cao ráo xuất hiện trong tầm mắt Hàn Giang, Yelena! Là Yelena! Hàn Giang đứng dậy, men theo quảng trường bước nhanh tới nơi Yelena xuất hiện. Đường Phong và Lương Viện thấy vậy, cũng đi theo, Đường Phong vội vàng hỏi: “Sao thế, anh phát hiện ra gì vậy?”

“Yelena! Tôi nhìn thấy Yelena!”

“Cái gì? Sao lại thế được? Cô ta cũng đến đây sao?” Đường Phong quay đầu lại ngó nghiêng trong đám người, nhưng không nhìn thấy bóng dáng của Yelena đâu.

Hàn Giang vừa mới bước tới chỗ Yelena xuất hiện, ở đó có vài du khách đứng chụp ảnh, không có bóng dáng của Yelena. Hàn Giang nhìn chăm chú xung quanh, đột nhiên phát hiện ra Yelena trong đám đông trước mặt, anh định bước nhanh xuyên qua quảng trường trước đại kinh đường, nhưng chính lúc này, kim giờ chỉ 5 giờ, tấm rèm màu đen trước đại kinh đường bị gió khẽ hất lên, những Lạt ma tụng kinh trong kinh đường đột nhiên ào ra như bầy ong, làm quảng trường lúc đó tràn ngập một màu đỏ. Đợi tới khi Hàn Giang rẽ những Lạt ma đi tới phía đối diện thì Yelena đã không thấy đâu nữa, chiếc ba lô màu xanh đặt cạnh sư tử đá cũng đột nhiên biến mất! Hàn Giang vô cùng tức tối, nhưng cũng chẳng biết làm thế nào. Anh quay người nhìn về phía quảng trường trước đại kinh đường, các Lạt ma người thì vỗ tay, người thì đặt câu hỏi, người thì lại lẩm nhẩm tụng kinh, lễ biện luận kinh Phật hoành tráng bắt đầu.

9

Đường Phong và Lương Viện vội vã chạy đến, phát hiện chiếc ba lô đã biến mất, Đường Phong cất lời trước: “Ba lô bị ai lấy đi rồi?”

“Tôi không biết! Ban nãy lúc các Lạt ma ra ngoài, quảng trường náo loạn, tôi chẳng nhìn thấy gì cả!” Hàn Giang khó mà che giấu được sự bực bội trong lòng.

“Lẽ nào là Yelena?”

“Chắc chắn là cô ấy xuất hiện rồi, nhưng tôi không thể khẳng định có phải là cô ấy lấy ba lô hay không?”

“Nếu như là cô ấy, như vậy thì đáng sợ quá! Lẽ nào là họ giết Nam Nam? Tôi thật sự không dám tin!” Đường Phong chau mày.

“Sao lại không dám tin! Lai lịch của họ anh biết rõ không?”

“Nhưng tôi thấy Yelena và Makarov không giống những kẻ xấu, càng không giống người tàn nhẫn như vậy.”

“Xời! Nếu như họ đến đây vì kệ tranh ngọc, thì nhất định sẽ không từ mọi thủ đoạn để đạt được mục đích. Nhưng, họ cũng coi thường tôi quá đấy, để đạt được mục đích, tôi cũng có thủ đoạn vậy.” Hàn Giang tức tới nỗi nghiến răng kèn kẹt.

“May mà đồ vẫn còn!” Lương Viện an ủi Hàn Giang, Hàn Giang kiểm tra ba lô của Đường Phong, nhìn thấy kệ tranh ngọc còn nguyên vẹn, gật gật đầu, nhẹ nhõm hơn một chút.

“Tiếp theo ta phải làm thế nào?”

“Tiếp tục tìm, tôi có thể khẳng định, nhóm Yelena nhất định cũng tới Lang Mộc Tự.” Hàn Giang nói như đinh đóng cột.

Ba người giống như ruồi mất đầu, đi loăng quăng khắp một lượt Cách Nhĩ Đệ Tự rộng lớn, nhưng không thu hoạch được gì cả. Đường Phong chỉ lên “đống tên sơn thần” trên đỉnh núi, nói: “Chúng ta đến đó xem sao, ở đó có thể nhìn bao quát toàn bộ Cách Nhĩ Đệ Tự.”

Vậy là, ba người lại đi lên dốc núi, khi leo đến lưng chừng núi thì trời đã tối, Lương Viện giở bài chuồn: “Trời tối rồi, lên trên đó cũng chẳng nhìn thấy gì cả, hay là chúng ta quay về thị trấn, tìm một khách sạn để ở đã.”

Lương Viện vừa nói dứt lời, đột nhiên, Đường Phong giống như phát hiện ra thứ gì đó: “Mọi người nhìn kìa, trên nền điện Phật trước mặt là thứ gì vậy?”

“Giống như một mảnh giấy…”

Sự tò mò thôi thúc ba người đi về phía điện Phật hoang vu đó, một cơn gió lạnh thổi qua, những mảnh giấy trên nền điện Phật bị thổi bay lên không trung, vài mảnh giấy nhỏ còn bay đến bên cạnh Đường Phong, Đường Phong bất giác rùng mình bởi những mảnh giấy trắng này làm anh nghĩ tới… “Tiền âm phủ! Toàn là tiền âm phủ!” Lương Viện ngạc nhiên hét lên, phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng trong chùa.

Đường Phong thu hết can đảm, nhặt một tờ tiền lên, tỉ mẩn quan sát, lúc này anh mới phát hiện ra, những mảnh giấy xung quanh điện phật vốn chẳng phải là tiền âm phủ gì cả, vì trên mặt có in một số hình Phật giáo và kinh phật bằng tiếng Tạng mà anh đọc không hiểu. Đây là cái gì? Trên ngọn núi hoang vu này sao lại có điện Phật? Đường Phong quyết định đến trước điện Phật này để mục sở thị.

Ba người đến trước cổng điện Phật, cửa đóng im ỉm. Đường Phong ngẩng đầu nhìn tòa kiến trúc này, điện thờ này hơi cũ kĩ, bên trong tối om, xem ra rất lâu rồi không có người ở đây. “Trên cổng hình như có vẽ thứ gì đó?” Hàn Giang nhắc Đường Phong, Đường Phong bật đèn pin, soi lên cánh cổng.

Chùm ánh sáng chiếu lên cửa, ba người loáng thoáng nhìn hình vẽ trên cánh cổng, đó là hình vẽ một vị hung thần dữ tợn, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm một vật gì đó. Đường Phong nhìn không rõ vật đó, nên khi anh soi đèn pin lên tay trái hung thần, Lương Viện lập tức hét lên thất thanh. Đường Phong sợ tới nỗi rơi cả đèn pin xuống đất, đến cả Hàn Giang cũng run rẩy trong lòng, bởi họ cùng lúc nhìn thấy rõ vật trên tay trái của hung thần - đó là một đầu người máu me đầm đìa!

Đường Phong và Lương Viện sợ hãi quá đến mức không biết chọn đi đường nào, họ vội vàng quay lại, men theo bức tường bao quanh điện Phật lúc tới, đang định bỏ đi thì không ngờ lại đi tới góc khác của bức tường, bỗng trong góc đó bỗng có một người mặc áo cà sa Tây Tạng rộng thùng thình đột nhiên rẽ ra, khiến Lương Viện và Đường Phong lại một lần nữa giật bắn mình. Hai người lùi lại vài bước, va thẳng vào Hàn Giang phía sau, Hàn Giang cũng được coi là trấn tĩnh hơn cả, nhìn thấy người trước mặt tiến lại là một ông lão người Tạng đang đi khấn quanh chùa.

Ông lão cũng giật mình khi đối diện với những người ngoại địa đột nhiên xuất hiện trước mặt, nhưng ông cũng nhanh chóng trấn tĩnh lại, nhìn Đường Phong và Lương Viện một cái, sau đó cụp mắt xuống, tiếp tục đi vòng quanh chùa. Hàn Giang vội vàng đuổi theo ông lão, hỏi: “Xin hỏi lão, đây là nơi nào ạ?”

Ông lão nhìn nhìn Hàn Giang, im lặng, lắc lắc, rồi cúi đầu vòng qua Hàn Giang, tiếp tục đi thẳng, bước vào màn đêm mịt mùng. “Đúng là ông lão quái dị, muộn thế này rồi mà vẫn còn ở đây đi quanh chùa!” Đường Phong bước lại nói.

“Hơn nữa còn không nói chuyện, điệu bộ ban nãy khiến tôi sợ chết khiếp.” Lương Viện càu nhàu.

“Có lẽ người ta không hiểu tiếng Hán.” Hàn Giang khom lưng nhặt đèn pin lên, rồi lại soi về phía cổng, anh cũng không nhận biết được trên cổng vẽ cái gì, hung thần, môn thần hay là Kim Cương la hán? Bây giờ nhìn lại, không còn khủng khiếp như ban nãy nữa, chỉ là hai bức tranh mà thôi. Nhưng lúc này, cổng điện Phật bỗng nhiên mở ra…

10

Trong cổng điện Phật cũng rọi ra một chùm ánh sáng đèn pin, còn sáng hơn cả đèn của Hàn Giang, chọc thẳng vào mắt Hàn Giang. Hàn Giang bị lóa tới nỗi không mở mắt ra được, anh theo phản xạ rút ngay khẩu súng ngắn 92 ra, lao thẳng về phía chùm ánh sáng ngoài cửa. Người đó thấy tình hình không ổn, vội lùi lại phía sau, Hàn Giang từng bước tiếp cận, mãi cho tới tận khi người đó tựa lưng lên cột, không thể lùi tiếp được nữa. Cánh tay trái của Hàn Giang gác lên cổ họng đối phương, tay phải dùng súng chỉ vào thái dương của người đó, cùng lúc, anh ngửi thấy một mùi thơm mát, mùi hương mà chỉ có phụ nữ mới có.

“Yelena!” Đường Phong ở phía sau khẽ kêu lên.

Hàn Giang lúc này mới biết, người bị mình giữ chặt hóa ra là Yelena! Nếu như trước đây, Hàn Giang chắc chắn sẽ rất đàn ông buông ngay Yelena ra, sau đó xin lỗi, nhưng lần này Hàn Giang không buông tay, anh gầm lên với Yelena: “Nói, có phải các người đã giết Chu Nam Nam không?”

“Hàn! Tôi không hiểu anh đang nói gì! Anh quá… quá dã man đấy.” Rõ ràng, Hàn Giang đang làm Yelena bị đau.

Nhưng, Yelena cũng không phải vừa, cô thấy Hàn Giang vẫn không buông tay, một đùi dưới chân đá lên, kích thẳng vào chỗ hiểm của Hàn Giang. Hàn Giang bị tấn công bất ngờ, đành phải buông tay, lùi lại phía sau một bước, nhưng nòng súng vẫn chỉ vào Yelena, bất động.

Đường Phong và Lương Viện theo vào trong sân. Makarov không lên ngăn chặn cuộc ẩu đả của Hàn Giang và Yelena, mà thò đầu ra ngoài cổng thăm dò một lúc, đóng cửa xong ông mới quay vào sân. Năm người đứng sừng sững trong khoảnh sân không rộng lắm, đối phương là bạn hay là thù, chẳng ai biết được.

Cuối cùng, Yelena vẫn là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng: “Hàn Giang, bản thân anh đang ở trong vòng nguy hiểm cao độ mà vẫn hoàn toàn không biết sao!”

“Nguy hiểm? Hừm! Không khiến cô phải bận tâm.” Hàn Giang hắng giọng.

“Đây không phải là nơi nói chuyện, vào phòng rồi nói tiếp.” Makarov lên tiếng xoa dịu. Hàn Giang nhìn về phía điện Phật không lớn lắm trong sân, trong điện tối đen, nhủ thầm: nam nhi hảo hán toàn thân dũng khí, mặc kệ có là đầm rồng huyệt hổ thì cũng phải xông vào! Hàn Giang đi theo Makarov, hiên ngang bước vào điện Phật.

Trong điện Phật tối om, không có đèn điện, chỉ có hai ngọn đèn dầu trên ban thờ phát ra ánh sáng vàng vọt âm u. Hàn Giang mượn chút ánh sáng này nhìn bao quát trong điện. Ngoài ban thờ có đặt đèn dầu ra, những chỗ khác đều phủ đầy bụi bặm, xem ra ở đây lâu lắm rồi không có người ở. Nền đất trước ban thờ được quét dọn một khoảnh, đặt hai chiếc túi ngủ, Hàn Giang ngẫm nghĩ, đây chắc là nơi ở tạm của Yelena và Makarov.

Đường Phong, Lương Viện và Yelena cũng theo Hàn Giang bước vào điện Phật, Makarov cẩn thận rón rén đóng cửa điện lại, nói: “Hàn Giang, không ngờ là các anh cũng tới đây!”

“Hừm! Đương nhiên, có hai người ở đây, chúng tôi tất nhiên cũng không thể vắng mặt.” Hàn Giang thù hằn nhìn Makarov.

“Không! Không! Hàn Giang, cậu hiểu lầm chúng tôi rồi, chúng tôi không có ác ý gì với các cậu cả.” Makarov ra sức giải thích với Hàn Giang.

“Không có ác ý? Vậy ông nói xem, hai người đến đây làm gì?”

Makarov cười khan vài tiếng, đáp: “Nói thẳng ra, cái thị trấn nhỏ này quả thật quá đẹp, dùng một câu thành ngữ của Trung Quốc các cậu thì chính là đào nguyên ngoại thế…”

“Người Trung Quốc hiếu khách, nếu các người chỉ đến du lịch, chúng tôi hoan nghênh, nhưng các người lại không phải vậy!” Hàn Giang ngắt lời Makarov.

“Đúng vậy, tôi và Yelena không phải đến đây để du lịch, nhưng anh yên tâm, chúng tôi tuyệt đối không làm gì hại đến các anh. Còn về mục đích hành động lần này của chúng tôi, khi nào thích hợp tôi sẽ nói cho anh biết, nhưng không phải là bây giờ. Hiện giờ không còn thời gian nữa, giống như Yelena ban nãy nói, các anh và chúng tôi đang ở trong vòng nguy hiểm cao độ.”

“Đang trong nguy hiểm? Lẽ nào cảnh tượng khủng khiếp trên đài thiên táng hôm nay không phải là do các người gây ra sao?” Hàn Giang vẫn hùng hùng hổ hổ.

“Đài thiên táng? Hàn, tôi không biết anh nói cái gì, từ tối hôm qua, tôi và Yelena đều ẩn nấp ở đây, chỉ trừ ban nãy Yelena ra ngoài mua đồ ăn.”

Nghe Makarov nói như vậy, Hàn Giang lại quan sát một lượt gian điện Phật không rộng lắm, trong lòng cũng tin vài phần. “Nói như vậy thì Chu Nam Nam không phải do các người giết sao?”

“Tôi vốn không quen biết người anh vừa nhắc đến, sao phải giết cô ta?” Makarov tranh luận.

“Vậy thì chiếc ba lô màu xanh đặt cạnh sư tử đá chỗ đại kinh đường là ai lấy đi mất?” Đường Phong cũng chất vấn lại.

“Ba lô màu xanh nào? Hàn, tôi hiểu rồi, anh thấy tôi xuất hiện trước đại kinh đường nên nghi ngờ tôi chứ gì?” Yelena rút cuộc cũng hiểu ra tại sao Hàn Giang lại thù địch với mình.

“Lẽ nào không phải là cô sao? Vậy tại sao cô lại xuất hiện trước đại kinh đường lúc 5 giờ?” Hàn Giang lại cất cao giọng.

“Tôi đi đâu cũng cần phải báo cáo với anh chắc?” Yelena vênh mặt, không hề tỏ ra yếu thế.

“Hàn, ban nãy tôi nói rồi đấy, Yelena ra ngoài mua ít đồ ăn. Nó xuất hiện trước đại kinh đường là muốn thăm dò chút tin tức ở đó, không ngờ lại bị anh bắt gặp.” Makarov lại đến giảng hòa.

“Được rồi, cứ coi là các người nói thật, nhưng nếu các người không làm gì hổ thẹn với lương tâm thì tại sao không ra ngoài ở khách sạn mà phải trốn vào đây làm gì?” Hàn Giang quay mặt lại chất vấn Makarov.

11

Makarov không hề tỏ ra tức giận trước lời chất vấn của Hàn Giang, ông gật đầu mỉm cười nói: “Hàn, đây cũng là điều mà tôi muốn nói với cậu. Tôi và Yelena đến thị trấn nhỏ này từ sáng sớm hôm qua. Vốn dĩ chúng tôi muốn thuê khách sạn, nhưng khi chúng tôi đi một vòng trong thị trấn thì phát hiện có người bám theo mình. Tôi đã dùng hết mọi biện pháp chống đeo bám mới cắt đuôi được những người đó. Trong thị trấn này, bất luận đến ngóc ngách nào, tôi cũng cảm thấy có đôi mắt ở góc tối nào đó nhìn chúng tôi chằm chằm, nhưng chúng tôi không phát hiện ra được những người đó!”

“Mọi người cũng có cảm giác này sao?” Những lời của Makarov khiến Hàn Giang hồi tưởng lại cảm giác vào cái đêm vừa mới tới thị trấn.

“Xem ra cậu cũng biết rồi, cậu có biết đám người đó là ai không?” Makarov chau mày.

“Tôi không biết, sáng hôm nay, cô gái ở cùng khách sạn với chúng tôi đã bị giết chết trên đài thiên táng. Tới giờ tôi vẫn không hiểu nổi. Hiện không phải là mùa du lịch, du khách trong thị trấn không đông, cư dân trong thị trấn đều thật thà chất phác, nên người ngoại địa cũng rất dễ nhận biết. Vậy sao đám người đó lại có thể ẩn mình ở đây mà không bị phát hiện nhỉ?” Hàn Giang nói ra nghi vấn trong lòng.

Makarov đáp: “Tôi đã nói rồi, bọn chúng đều là cao thủ, người của bọn chúng chắc là không nhiều, nhưng tên nào cũng có tuyệt kỹ, đám cướp mà chúng ta gặp ở Khương Trại chắc chắn không thể bì được!”

“Thế nên hai người mới ẩn náu ở đây?” Đường Phong hỏi.

“Ừm! Tôi nghĩ ở đây chắc là an toàn, nhưng ẩn náu ở đây cũng không phải là kế lâu dài, chắc chắn đám người đó sẽ biết được chúng tôi vẫn đang ở trong thị trấn, sớm muộn gì bọn chúng cũng tìm đến đây, có khi ban nãy các cậu đã dẫn chúng đến đây rồi đấy.” Makarov nói xong, lo lắng nhìn ra bên ngoài điện Phật, tiếng chó sủa từ nơi không xa lắm vọng lại, nhưng tiếng chó sủa chẳng mấy chốc đã im bặt, bên ngoài yên tĩnh trở lại.

“Vậy bước tiếp theo hai người định thế nào?” Hàn Giang hỏi Makarov.

“Thoát khỏi đám người đó.” Yelena nói như đinh đóng cột.

“Các cậu lại đây mà xem!” Vừa nói Makarov vừa trải một tấm bản đồ bằng da dê đã ngả vàng cũ kĩ lên trên ban thờ, nói với Đường Phong, Hàn Giang và Lương Viện: “Đây là bản đồ da dê mà chúng tôi phát hiện trên ban thờ.”

“Ồ! Ở ngay đây sao!” Đường Phong ngạc nhiên hỏi.

“Đúng vậy, đặt ngay trên ban thờ, bản đồ da dê bị lớp bụi dày phủ lên, tôi cũng vô tình phát hiện ra thôi.” Nói xong, Makarov chỉ chỉ lên ban thờ.

Đường Phong nhìn về phía ngón tay Makarov chỉ, quả nhiên, trên ban thờ đổ nát có một khoảnh trống không có bụi, trái ngược rõ rệt với lớp bụi dày hình thành xung quanh.

Makarov lại nói tiếp: “Ký hiệu đánh dấu trên phần bản đồ này hình như là Tạng ngữ cổ, tôi và Yelena đọc đều không hiểu, các anh có đọc được không?”

Đường Phong đã theo giáo sư La học được một ít Tạng văn cổ, anh đón lấy tấm bản đồ da dê cũ kĩ, tỉ mỉ quan sát, trên mặt bản đồ vẽ những dãy núi dài miên man, giữa những dãy núi này có một thị trấn nhỏ. Đường Phong nhận ngay ra biểu thị đánh dấu bên cạnh: “Lang Mộc! Hiện giờ chúng ta đang ở đây.”

Những ký hiệu đánh dấu khác trên bản đồ thì không dễ nhận biết như vậy, Đường Phong dùng đèn pin soi từng chút từng chút một khắp mọi góc độ trên bản đồ. Anh nhìn thấy vài dòng sông chảy ra giữa quần thể núi non uốn lượn, nhưng anh không thể hiểu được những ký hiệu đánh dấu bên cạnh dòng sông, anh còn nhìn thấy một cái hồ to nằm trọn giữa quần thể núi, Đường Phong đoán đó là một vùng biển nhỏ, nhưng anh cũng vẫn không thể nhận biết ký hiệu đánh dấu bên cạnh vùng biển nhỏ có ý nghĩa gì. Chùm ánh sáng của đèn pin trên tay Đường Phong lại quay trở lại gần Lang Mộc Tự, anh đột nhiên phát hiện ra: gần cái ký hiệu đánh dấu “Lang Mộc” đó có một khe núi, cạnh khe núi có một ký hiệu khác đánh dấu nho nhỏ “Nạp - Ma!” Cuối cùng, Đường Phong cũng đọc được cái tên đó, anh đột nhiên cảm thấy hình như mình đã nghe thấy cái tên này ở đâu đó…

12

“Nạp - Ma?” Đường Phong ra sức lục soát trong đầu cái tên mơ hồ này, nhưng đầu óc anh lại rối tung cả lên, không làm sao nhớ ra được anh đã nghe thấy cái tên này ở đâu, “Nạp - Ma…”

“Đường Phong, anh đang nói đến Nạp Ma à?” Lương Viện đột nhiên hỏi Đường Phong.

Đường Phong gật gật đầu, đáp: “Đúng vậy, cô xem gần Lang Mộc Tự có một khe núi, nếu như tôi không đọc sai thì ký hiệu đánh dấu trên này hình như tên là Nạp Ma.”

“Đại khe sâu Nạp Ma! Tấm bia gãy chúng ta phát hiện thấy trong Khương Trại không phải có cái tên này sao?” Lương Viện nhắc nhở Đường Phong.

Lúc này Đường Phong mới nhớ ra văn tự mà mình giải mã được trên tấm bia văn tự Tây Hạ đổ vỡ. “Nhưng… nhưng đó là văn tự Tây Hạ, còn ký hiệu đánh dấu trên tấm bản đồ này là văn tự Tạng cổ, lẽ nào phát âm của địa danh này trong văn tự Tây Hạ và văn tự Tạng cổ lại giống nhau?”

Mọi người trở nên trầm ngâm, bởi không ai có thể trả lời câu hỏi này của Đường Phong. Hàn Giang nhìn Makarov và Yelena rồi lại nhìn Đường Phong, đột nhiên kéo ngay Đường Phong vào góc điện Phật, hỏi: “Nó nói lên điều gì? Có phải khe sâu Nạp Ma này liên quan tới nơi mà chúng ta phải tới không?”

“Tôi nghĩ chắc là vậy!” Đường Phong đáp.

“Vậy thì chúng ta đến khe sâu Nạp Ma thôi, từ tấm bản đồ da dê này cho thấy, sau khi vượt qua khe sâu Nạp Ma là có thể đến huyện Mã Khúc, dù cho chúng ta không tìm thấy nơi mà chúng ta cần đến đi chăng nữa, thì ít nhất cũng có thể đến được Mã Khúc.” Hàn Giang đưa ra phán đoán của mình.

Hàn Giang quay lại nói với Makarov và Yelena: “Đi cùng chúng tôi nhé!”

Yelena lại nhìn chăm chú vào bản đồ hồi lâu, cuối cùng gật đầu nói: “Được, làm như anh nói vậy. Mọi vấn đề đều đợi tới khi ra khỏi khe núi sẽ tính sau. Hiện giờ năm người chúng ta là một hội, phải cùng nhau ra khỏi đây!”

Năm người thương lượng để quyết định, Hàn Giang đột nhiên hỏi Makarov: “Hai người có vũ khí không?”

Makarov lắc lắc đầu, cười nói: “Hàn, chúng tôi chỉ là hai du khách, vũ khí ở đâu ra?”

“Đúng vậy! Hay là cảnh sát Hàn muốn phát vũ khí cho chúng tôi?” Yelena cũng cười.

Hàn Giang cười nhạt một tiếng, nói: “Thôi đi, hai cha con cô đừng có diễn kịch với tôi nữa, lúc ở Khương Trại, hai người đều có thu hoạch cả mà?”

Câu này vừa thốt ra, khuôn mặt tươi cười của Yelena và Makarov đều “dừng hình”. Mãi một lúc sau, Makarov mới vỗ vỗ vai Hàn Giang nói: “Hàn, cậu là một đặc công xuất sắc, động tác nhỏ của chúng tôi cũng không qua nổi mắt cậu.” Nói xong, Makarov rút từ trong thắt lưng ra một khẩu súng ngắn Walther P5 9 ly do Đức sản xuất, nói tiếp: “Cái này thu hoạch được ở Khương Trại, khá ổn, hàng của Đức, trong băng đạn có tám viên, ngoài ra còn thu hoạch được năm băng đạn đầy ự.”

Hàn Giang đưa ánh mắt hướng về Yelena. Yelena “hừm” một tiếng, cởi cúc áo khoác, mở về phía Hàn Giang, lộ ra dáng người đáng tự hào và báng súng đen bóng, nói: “Súng tiểu liên cỡ vừa Ingram M10 do Mỹ chế tạo, trong băng đạn có 32 viên, trong túi còn có ba băng đạn đầy.”

Hàn Giang gật gù, lấy khẩu súng ngắn 92 của mình ra, kiểm tra băng đạn, nói: “Việc không nên chậm trễ, vì đã chuẩn bị xong rồi, nên bây giờ xuất phát thôi.”
 

hoahongden12

Active Member

1

Màn đêm bao trùm lên thị trấn nhỏ Lang Mộc Tự, một vùng tĩnh lặng như đã chết, chỉ có chó ngao Tây Tạng mà những hộ dân du mục nuôi dưỡng thỉnh thoảng lại sủa gào lên vài tiếng. Mặt trăng đêm nay hoàn toàn đã bị mây đen che kín, không có lấy một ánh trăng lọt xuống mặt đất, nhiệt độ ban đêm nhanh chóng hạ xuống âm độ. Hàn Giang, Đường Phong, Lương Viện, Makarov và Yelena, năm người lần lượt theo chân nhau chui ra khỏi điện Phật hoang phế, áp người vào bức tường màu đỏ bên ngoài điện Phật, vội vã tiến về phía đại khe sâu Nạp Ma.

Trước khi lên đường, Hàn Giang xác định rõ ràng nhiệm vụ của từng người, Hàn Giang đi trước mở đường, Makarov và Yelena đi ngay phía sau, nhiệm vụ của Đường Phong là bám sát đội hình, bảo vệ Lương Viện, đương nhiên cũng bao gồm cả việc bảo vệ kệ tranh ngọc.

Mất bao công sức, mọi người mới mò tới cửa vào khe núi. Hàn Giang đi đầu, vừa mới bước vào cửa hang thì đã sững sờ trước cảnh tượng hiện lên trước mắt, anh dừng ngay lại. Makarov và Yelena phía sau không hiểu Hàn Giang gặp phải tình huống đột xuất nào, nên đã nghi ngờ tiến lên phía trước xem xét thì chỉ thấy trước mặt mọi người là tấm cờ phướn khổng lồ đủ màu sắc đang phần phật trong gió, một vị Lạt ma trong bộ cà sa màu đỏ đang ngồi khoanh chân trước cờ phướn, miệng lẩm bẩm đọc kinh. Không hiểu do trời lạnh hay do thói quen của các Lạt ma mà vị Lạt ma này lại lấy áo cà sa trùm kín từ đầu đến chân, ngồi quay lưng lại phía mọi người. Trong lòng mọi người đều không hiểu, nửa đêm khuya khoắt thế này, sao vị Lạt ma này còn ngồi đây tụng kinh?

Hàn Giang thử thăm dò bước lên phía trước vài bước, Lạt ma không chút phản ứng, miệng vẫn lẩm nhẩm đọc kinh, đột nhiên tay phải giương lên, ném lên không trung một xấp giấy nhỏ. Hàn Giang giật bắn mình, theo phản xạ lùi lại một bước, tay cũng thò vào sau thắt lưng, mò tới khẩu súng đang găm ở đó. Đợi tới khi Hàn Giang đứng lại thì lúc này mới phát hiện ra, những tờ giấy này giống hệt như những tờ giấy nhỏ ban nãy nhìn thấy ngoài điện Phật, bên trên kín mít những văn kinh Tạng ngữ, kèm theo những tờ giấy tung bay rợp không gian này là tiếng tụng kinh của Lạt ma vang vọng khắp cả hang…

Makarov ghé sát bên tai Hàn Giang, nói nhỏ: “Có lẽ Lạt ma này đang làm pháp sự, mặc kệ ông ta, chúng ta đi đường chúng ta.” Hàn Giang gật gật đầu, dẫn mọi người tiến vào trong hang núi.

Mọi người cố gắng nói thật khẽ, đi vòng sau lưng Lạt ma. Lạt ma có vẻ như không buồn để ý tới sự xuất hiện của mọi người, vẫn ngồi khoanh chân như vậy, lầm rầm đọc kinh, nhưng khi Đường Phong bước tới sau lưng Lạt ma thì vị Lạt ma đó đột nhiên quay mặt lại, lướt nhìn mọi người một cái. Đường Phong nhìn về phía Lạt ma, bốn mắt nhìn nhau, đôi mắt của Lạt ma toát lên một ánh nhìn lạnh như băng, trong lòng Đường Phong bất giác run rẩy, nhưng khi anh muốn nhìn rõ mặt của Lạt ma thì mới phát hiện ra khuôn mặt của Lạt ma đã hoàn toàn ẩn trong bóng tối, anh không thể nhìn thấy gì được nữa.

Đường Phong rớt lại phía cuối đoàn, anh vẫn muốn nhìn rõ dung nhan của Lạt ma, nhưng Yelena lại đến kéo anh đi. Không để anh kịp giải thích cô ấy đã lôi anh vào đại khe sâu.

Trong đại khe sâu Nạp Ma, đường đi khúc khuỷu, một con suối nhỏ uốn lượn bên trong. Dòng suối nhỏ khuất lấp này chính là khởi nguồn của Bạch Long Giang, một dòng suối chầm chậm chảy ra từ khe núi, tới thảo nguyên Nhược Nhĩ Cái thì trở nên hùng mạnh, tuôn trào ra từ dãy núi non cao vút của vùng tây bắc Tứ Xuyên, chảy mãi cho tới tận khi hòa vào dòng Trường Giang. Nhìn tiếp hai bên khe núi, vách núi dựng đứng sừng sững, những tảng đá hình thù quái dị lởm chởm. Trong bóng đêm bao trùm, những tảng đá này hiện lên càng thêm phần hung tợn. Mọi người tức tốc đi qua động Tiên Nữ, Hổ Huyệt cùng những thắng cảnh khác, rồi hai mươi phút sau thì một bãi cỏ rộng hiện ra trước mặt họ. Lương Viện không gượng dậy được, đổ người ra bãi cỏ, thở hổn hển, van nài Hàn Giang cho nghỉ ngơi một lúc. Makarov có tuổi, lại đang bị thương, chạy cả đoạn đường này cũng thở không ra hơi. Hàn Giang nhìn về phía cửa hang, mọi thứ đều bình thường, vậy là anh mới bớt cảnh giác, đồng ý để mọi người nghỉ ngơi chốc lát.

Mọi người không ai nói năng gì, ngồi trên bãi cỏ, người nào ngẫm nghĩ tâm sự người nấy. Đột nhiên, Đường Phong đứng phắt dậy, hét lên với mọi người: “Không được rồi! Trong này có vấn đề.”

2

Trong khe núi tĩnh lặng, đột nhiên nghe thấy Đường Phong hét lên như vậy, trong lòng ai cũng hốt hoảng, Hàn Giang ngạc nhiên hỏi: “Có vấn đề gì vậy?”

Đường Phong đáp: “Vấn đề, vấn đề chính là ở chỗ vị Lạt ma ban nãy gặp ở cửa động!”

“Lạt ma thì sao?” Mọi người càng thêm kinh ngạc.

“Lạt ma đó nhất định có vấn đề. Ban nãy khi tôi đi qua lưng hắn, Lạt ma đó đã nhìn trộm tôi một cái, lúc đó tôi đã cảm thấy đôi mắt đó có vấn đề… mãi tới khi vừa rồi tôi nhìn đôi mắt của Yelena tôi mới nhớ ra, đôi mắt đó có con ngươi không phải màu đen, mà giống như màu mắt của Yelena vậy.” Vừa nói, Đường Phong vừa quay ra nhìn thẳng vào đôi mắt của Yelena.

“Ý anh là Lạt ma ban nãy không phải là người Trung Quốc? Mà là một…” Yelena trợn trừng mắt.

“Một người nước ngoài!” Hàn Giang tiếp lời Yelena.

Đường Phong gật gật đầu, nói tiếp: “Mọi người hãy nghĩ lại xem hành động bất thường của tên Lạt ma đó, đêm khuya lạnh giá thế này mà lại xuất hiện ở cửa động, đó vốn dĩ đã rất không bình thường. Còn nữa, sao hắn lại lấy áo cà sa trùm kín đầu? Tại sao lại vờ như không thấy sự xuất hiện của chúng ta? Càng quan trọng hơn nữa là, khi tôi đi qua phía sau lưng hắn, nghe thấy tiếng tụng kinh của hắn…”

“Sao, kinh hắn tụng có vấn đề gì à?” Makarov truy vấn.

“Tôi đã từng học qua một chút tiếng Tạng, cũng hơi thạo kinh Phật, bây giờ nghĩ lại, ban nãy nghe Lạt ma tụng kinh, vốn dĩ không đúng, hắn tụng kinh vốn không phải là tiếng Tạng, càng không phải là kinh Phật, bởi vậy, từ đó tôi phán đoán, Lạt ma đó chắc chắn là một Lạt ma giả!”

“Cái gì? Lạt ma giả?” Mọi người đều vô cùng kinh ngạc.

“Người đó không phải là Lạt ma thì là ai?” Lương Viện chớp chớp đôi mắt hoảng hốt hỏi.

Đường Phong vịn lên vai của Lương Viện nói: “Cái này mà cũng cần phải nói sao? Cải trang thành Lạt ma, đúng lúc này thì xuất hiện ở đây, cô nói xem có thể là ai?”

Mắt Lương Viện toát lên sự sợ hãi: “Là những người tấn công chúng ta trong Khương Trại, cũng chính là hung thủ sát hại Nam Nam!”

Lúc này, phía trên khe núi, có một con kền kền bay lướt qua trên không trung, bãi cỏ trong khe núi chìm trong tĩnh lặng, năm người nhìn nhau, trong đầu Hàn Giang nhanh chóng suy ngẫm tới hoàn cảnh trước mắt họ, đột nhiên, Yelena cất lời hỏi anh: “Hàn, người đó là kẻ thù của chúng ta, vậy tại sao hắn lại vờ như không thấy sự xuất hiện của chúng ta, anh không cảm thấy trong này có vấn đề sao?”

“Đúng vậy! Tôi đoán hắn đang đợi đồng bọn của mình, một mình hắn không đủ sức đối phó với chúng ta, bởi vậy hắn tạm thời ẩn nấp không hành động.”

“Nói như vậy thì chúng ta nên quay lại xử hắn.” Vừa nói, Yelena vừa định rút súng.

Hàn Giang kéo Yelena lại: “E rằng bây giờ không kịp nữa rồi.”

Hàn Giang nhoài người ra đất, ghé sát tai xuống thảm cỏ, anh nghe thấy tiếng bước chân dồn dập. Anh đứng thẳng dậy, nói với mọi người: “Những kẻ sắp đến không lương thiện, tám đến mười người, bước chân đều và nhịp nhàng, rõ ràng là đã từng được huấn luyện tác chiến đặc chủng trong một thời gian dài, trang bị của chúng thì khỏi phải nói, chắc chắn cũng vô cùng tinh luyện và hiện đại. Chúng ta không có thiết bị hồng ngoại nhìn ban đêm, chắc chắn không phải là đối thủ của chúng, ba mươi sáu kế kế chuồn là thượng sách, lui!”

Năm người tức tốc đi vào sâu trong khe núi. Khe núi dần dần trở nên nhỏ hẹp, mặt đất phủ đầy sỏi đá lô nhô và lùm cây gai góc, càng lúc càng khó đi. Lương Viện đi rất chậm chạp, dù đã có Hàn Giang và Đường Phong vừa kéo vừa lôi đi nhưng vẫn rớt lại phía sau mọi người. Tiếng bước chân của đám người đó càng lúc càng rõ rệt, Đường Phong lôi Lương Viện chạy thục mạng lên phía trước. Đột nhiên, Đường Phong tuột tay, ngay sau đó đã nghe thấy tiếng kêu của Lương Viện, Đường Phong quay lại nhìn, hóa ra Lương Viện trong lúc hoảng loạn đã vấp phải một hòn đá trên đường nên ngã ra, đùi thì bị bụi gai rạch xước. “Đường Phong, tôi thật sự không chạy nổi nữa rồi.” Lương Viện lúc này đã không còn chút tính khí đại tiểu thư nào nữa.

Đường Phong không biết phải làm thế nào, đành phải cõng Lương Viện, tiếp tục chạy lên phía trước. Chẳng bao lâu sau, mọi người lại tới một bãi cỏ rộng rãi trong khe sâu. Đường Phong đặt Lương Viện xuống, rồi mệt lả ngồi bệt xuống đất. Hàn Giang nhìn nhóm người tạm thời ghép lại này, lắc lắc đầu, nói: “Không thể chạy như thế này được nữa, già già trẻ trẻ, Lương Viện lại bị ngã thế này, nếu tiếp tục chạy nhất định sẽ bị chúng đuổi kịp. Yelena, cô bảo vệ cha cô và Lương Viện chạy trước, tôi và Đường Phong ở lại đây kháng cự một trận, để mọi người tranh thủ thời gian.”

“Tôi cũng ở lại, dựa vào mấy chúng ta có lẽ có thể giải quyết xong bọn chúng.” Yelena yêu cầu được ở lại cùng Hàn Giang chung vai chiến đấu.

“Không! Bên đó cũng cần cô.” Hàn Giang cự tuyệt ý tốt của Yelena.

Yelena vẫn muốn nói thêm gì đó, nhưng Đường Phong đã hất hất tay với cô: “Không kịp nữa rồi, như thế mà làm đi, gặp lại ở phía trước.”

Yelena nhìn nhìn Hàn Giang, gật đầu, không nói thêm gì nữa. Makarov rút súng ngắn, đi trước mở đường, Yelena và Lương Viện bám sát sau lưng. Ba người dần dần mất hút vào sâu trong khe núi, trên bãi cỏ chỉ còn lại Đường Phong và Hàn Giang.

3

Đường Phong và Hàn Giang rút súng ra, lần lượt nấp dưới tảng đá to hai bên khe núi. Bước chân của đám người đó càng lúc càng gần kề, Đường Phong thậm chí đã có thể nghe thấy chúng hét lên khẩu lệnh ngắn gọn bằng tiếng Anh. Chắc chắn chúng không ngờ rằng ở đây đang có người đợi chúng, nếu không thì, chúng đã không ra lệnh bằng lời, mà phải dùng tay để thực hiện điều đó.

Nghĩ tới đây, Đường Phong tự tin thêm vài phần, anh lên nòng súng, chỉ đợi đám người đó xuất hiện. Nhưng khi anh nhìn lên bầu trời đêm, trong lòng bất giác cũng bao trùm một tầng mây sầu cảm, bởi bầu trời đêm hôm nay mây đen giăng kín, không có lấy một ánh trăng, mà kẻ thù của họ có khả năng đeo thiết bị hồng ngoại nhìn thấu màn đêm. Đường Phong hiểu rằng, đây chắc chắn sẽ là một trận chiến đấu gian khổ!

Hàn Giang và Đường Phong gần như cùng lúc bóp cò, hai bên khe núi hình thành hỏa lực đan chéo vào nhau, chặn đứng đám người áo đen này trong khe núi. Nhưng đám người áo đen này lại không chụm nhau lại, mà vừa nghe thấy tiếng súng, tám tên áo đen tức tốc tản ra bãi cỏ, nhoài người ra đất, bắt đầu bắn trả.

Trong đêm đen, Đường Phong và Hàn Giang thiếu thiết bị hồng ngoại nhìn xuyên màn đêm, căn bản không thể bắn chuẩn, đành phải dùng hỏa lực để kìm chế kẻ địch. Nhưng tình thế tốt chẳng được bao lâu, nhóm áo đen gần như đã nắm rõ tình hình, lợi dụng ưu thế của thiết bị nhìn xuyên màn đêm và hỏa lực lớn mạnh, nên chẳng mấy chốc đã khống chế được hỏa lực của Đường Phong và Hàn Giang. Hai người nấp sau tảng đá to, chỉ cần thò đầu ra một cái là chắc chắn sẽ có một viên đạn bay xuyên qua đỉnh đầu họ, dội liên tiếp lên vách đá, làm văng ra biết bao nhiêu là đá vụn.

Đường Phong đã bắn sạch hết ba băng đạn, anh đoán Hàn Giang cũng bắn hết khá nhiều đạn rồi, mà hỏa lực của kẻ địch càng lúc càng mạnh. Đường Phong ý thức rõ ràng, nếu tình hình tiếp tục diễn ra như thế này, hai người họ ắt sẽ bỏ mạng tại đây. Đường Phong vừa nghĩ tới đây thì bỗng thấy trên không trung bay tới hai thứ gì đó - lựu đạn! Đường Phong thấy tình hình không ổn, nghiêng người nhảy lên như cá, “Bùm!...”, tảng đá anh vừa náu thân đã nổ tan nát, Đường Phong tránh được sự công kích của lựu đạn, nhưng lại bị đá vụn đập cho no đòn.

Đường Phong ngẩng đầu lên, lắc lắc đầu, hất đá vụn trên người xuống, đang định nhổm dậy tiếp tục chiến đấu thì lại nghe thấy hai tiếng nổ lớn bên phía Hàn Giang. Đường Phong nặng trĩu trong lòng, nhanh chóng bò sang bên phía Hàn Giang. Lúc bò gần tới chỗ Hàn Giang, Đường Phong mới phát hiện ra Hàn Giang cũng bị đá vụn bắn khắp người. Đường Phong giúp Hàn Giang hất những mảnh đá vụn trên người ra, khẽ nói: “Kẻ thù xông lên rồi.” Đúng vậy, đám người áo đen thấy lựu đạn công kích ra trò đã khom lưng, tức tốc tiến về phía bên này.

“Mẹ nó! Suýt nữa là lấy mất mạng của bố mày! Đến lúc phải cho chúng mày nếm sự lợi hại của bọn tao rồi đấy.” Hàn Giang nghiến răng bật ra câu này. Đường Phong không hiểu, chỉ thấy Hàn Giang moi từ trong túi ra hai quả lựu đạn, cười nói: “Đồ chơi này tôi cũng có, nhưng chỉ có hai quả.”

“Sao anh lại có cái này?”

“Thiệt cho tiến sỹ Từ quá, đều là của anh ấy lấy ra từ Khương Trại, gã ta định giữ lại phòng thân, nhưng lại bị tôi phát hiện nên mới tặng lại tôi đấy.”

“Đồ tốt thế này sao anh không lấy ra sớm.” Đường Phong trách móc.

“Đồ tốt phải giữ lại đến lúc cần thiết nhất, nhóm Yelena chắc là đi được kha khá rồi. Sao, đợi kẻ thù đến, chúng ta mỗi người một quả, ném xong thì rút lui!” Không kịp đợi Hàn Giang nói xong, Đường Phong đã cầm một quả lưu đạn lên, ném về phía đám người áo đen. “A…”, đám người áo đen bên đó hét lên thảm thiết, ngay tức khắc lửa bốc ngùn ngụt lên tận trời, tiếng súng nổ vang. Hàn Giang tức tối trách: “Sao không đợi tôi mà đã ném rồi?” Nói xong, anh cũng vội vàng ném nốt quả lưu đạn cuối cùng, và lại thêm một tiếng “bùm”. Bọn người áo đen không ngờ lại gặp phải sự phản kháng ngoan cường đến vậy, chúng không dám manh động.

Đường Phong và Hàn Giang nhân cơ hội chui vào trong bụi cây phía sau khe sâu, mất hút trong màn đêm. Đám người áo đen đó chẳng mấy chốc đã tỉnh ra, tên thủ lĩnh của đám cướp hậm hực ra lệnh bằng tiếng Anh: “Đuổi! Mau đuổi chúng cho tao!”

Hàn Giang kéo Đường Phong xuyên qua những bụi rậm um tùm gai góc không có đường đi, khe sâu mỗi lúc một nhỏ hẹp, hai bên vách núi cũng càng đi càng dốc đứng, đột nhiên, Đường Phong kinh ngạc: “Chết rồi! Phía trước không còn đường!”

4

Hai đỉnh núi trùng điệp giao nhau, đột nhiên ở phía trước, con đường mòn dưới chân bỗng nhiên đứt quãng, hình như đây đã tới điểm cuối của khe sâu. Đường Phong và Hàn Giang tuyệt vọng ngửa mặt nhìn lên đỉnh đầu, chiếc rìu thần công của tự nhiên đã gọt đỉnh núi này thẳng đứng. Trên đỉnh núi hiểm trở cao chót vót không một bóng người, chỉ có hai con kền kền đậu trên đó, ngạo mạn nhìn chăm chú mọi thứ mà chúng phát hiện được trong khe sâu, còn phía sau, truy binh đã cận kề… “Đây lẽ nào chính là tuyệt địa của chúng ta?” Đường Phong thì thầm nói.

“Không! Đường Phong, nhóm Yelena nhất định đã đi qua đây, cho thấy ở đây chắc là có đường đi.” Hàn Giang hét lên với Đường Phong.

Đường Phong đột nhiên tỉnh ngộ: “Đúng vậy, nhìn trên bản đồ da dê, đại khe sâu Nạp Ma không thể ngắn như vậy, cách đây còn xa mà vẫn chưa phải là điểm cuối của khe sâu, nhưng đường ở đâu đây?”

Đúng lúc Đường Phong và Hàn Giang không biết làm thế nào thì bỗng có một người trên lưng chừng núi dốc hiểm trở hét lên với họ: “Hàn, Đường, phía trước có đường đấy, các anh đi nhanh lên!”

Đường Phong và Hàn Giang nghe thấy vậy liền ngẩng đầu nhìn lên, người trên lưng chừng núi chính là Makarov, đứng bên cạnh ông còn có Yelena và Lương Viện. Không kịp nghĩ ngợi nhiều, Hàn Giang kéo Đường Phong xuyên qua bụi rậm, đến phía dưới đỉnh hai ngọn núi hiểm trở. Đến lúc này họ mới phát hiện ra, hóa ra ở giữa hai đỉnh núi, có một miệng hang hẹp chỉ rộng khoảng hơn một mét, nếu không tiến gần lên phía trước thì không thể phát hiện ra được. Đường Phong và Hàn Giang tức tốc thông qua miệng hang nhỏ hẹp này, trong hang quả nhiên rộng rãi thênh thang, lại là một vùng thiên địa khác.

Đường Phong quay lại nhìn lên đỉnh núi, anh không hiểu, hỏi: “Makarov và Yelena đứng ở đó làm gì nhỉ? Sao họ vẫn chưa đi xa?”

Hàn Giang ngửa mặt lên nhìn hồi lâu, đáp: “Lẽ nào cậu không nhìn thấy hai tảng đá khổng lồ kia?”

Đường Phong nhìn lại lần nữa, phát hiện ra trên eo núi, phía trước Makarov và Yelena có hai tảng đá to, anh lập tức hiểu ra Makarov và Yelena muốn làm gì.

Lúc này, trên eo núi, Makarov, Yelena và cả Lương Viện đang cùng nhau dồn sức, đẩy hai tảng đá to này xuống núi. Mặt đất bắt đầu rung chuyển, tảng đá lớn kéo theo vô số đá vụn, lũ lượt nối đuôi nhau trút thẳng xuống, không xiên không lệch, vừa vặn lăn vào miệng hang nhỏ hẹp.

Makarov, Yelena, Lương Viện tức tốc xuống núi gặp lại Đường Phong và Hàn Giang, đợi tới khi năm người hợp lại thành một nhóm thì bên phía miệng hang đã vọng lại tiếng kêu gào bất lực của đám người áo đen.

Không có thời gian nói chuyện, mọi người lục đục tiến vào sâu trong khe núi. Phong cảnh trong khe sâu lúc thì hùng vĩ diễm lệ, lúc lại uốn lượn quanh co, mỗi một bước đi đều nhìn thấy một cảnh đẹp khác nhau, chỉ có điều là trong bóng đêm, mọi người đều vội vã nên chẳng ai có tâm trạng để thưởng thức cảnh đẹp. Không biết đi được bao lâu, địa hình hình như mỗi lúc một cao, ở giữa đỉnh núi dựng đứng cao vút hiểm trở trước mặt, một con đường xanh mướt từ thấp tới cao bỗng nhiên xuất hiện trước mắt mọi người. “Thật hùng vĩ diễm lệ làm sao!” Đường Phong bất giác cảm thán.

Mọi người đều mệt mỏi, nghe thấy sau lưng đã không còn âm thanh của truy binh, nên thần kinh căng cứng rút cuộc cũng được thả lỏng, năm người nằm ngổn ngang trên con đường xanh mướt, hớp lấy từng hớp lớn không khí tươi mới ở đây. Lúc này, giữa đất trời, mọi âm thanh tự nhiên cũng đều lắng đọng, chẳng còn ai có thể làm phiền họ thưởng thức sự hùng vĩ diễm lệ thần kỳ ở chốn này.

Sau khi hồi sức lại, Hàn Giang là người đầu tiên phá vỡ bầu không khí yên tĩnh, anh tự mình lẩm bẩm: “Chúng ta chắc là đã đi ra khỏi đại khe sâu rồi nhỉ?”

Đường Phong ngồi dậy, nhìn xung quanh, nói: “Ở đây chắc sắp đến đoạn cuối của khe sâu rồi.”

“Đám người đó có thể đuổi kịp không nhỉ?” Mặt Lương Viện rầu rĩ.

“Tôi nghĩ chúng ta đã cắt đuôi chúng rồi.” Yelena nói.

Makarov đáp: “Yelena, đừng có lạc quan quá, đám người đó không cam chịu dừng lại vậy đâu, hai tảng đá to đó chỉ có thể ngăn chặn bọn chúng được một lúc, có lẽ, bọn chúng chẳng mấy chốc sẽ cho nổ tung tảng đá, đuổi kịp đến đây.”

Lời của Makarov khiến trong lòng mọi người đều lo lắng. Đường Phong nói: “Vậy thì chúng ta ở đây đã không còn an toàn nữa rồi?”

“Đúng vậy, từ trang bị và tố chất của đám người này cho thấy, chúng thật sự lợi hại hơn rất nhiều toán cướp trước đây chúng ta gặp trong Khương Trại, đây vẫn chưa phải là nơi an toàn.” Makarov đáp.

Khe núi âm u, tĩnh lặng khiến người ta nổi da gà, Lương Viện vẫn nép sau người Đường Phong, run rẩy hỏi: “Ở đây có sói không nhỉ?”

Sói? Đường Phong đứng dậy, nhìn xung quanh: “Ở đây… chắc là không có sói đâu…” nói tới đây, Đường Phong phóng tầm mắt ra xa, và bỗng nhiên im lặng.

Mọi người tò mò đứng hết cả dậy, hướng về phía Đường Phong nhìn chăm chú. Một âm thanh kỳ lạ từ nơi xa xăm vọng lại, âm thanh đó càng lúc càng gần, càng lúc càng rõ. Đường Phong đứng trên con đường xanh mướt mà cảm thấy áp lực trong lòng vô cùng nặng nề, áp lực khiến anh không thể thở nổi. Anh không biết đây là âm thanh gì, cũng không biết tiếp theo đây sẽ có điều khủng khiếp gì xuất hiện?

Rút cuộc, Đường Phong nhìn thấy rồi, tất cả mọi người cũng nhìn thấy rồi: đen sì sì, kền kền rợp trời, từ đỉnh núi bay lượn vòng tới. “Nhanh! Chạy nhanh!” Đường Phong lớn tiếng hét lên, nhưng đã muộn rồi, bầy kền kền đã sà xuống tấn công. Năm người không kịp phản ứng, chỉ biết thân ai người nấy chạy. Đường Phong vốn không nhìn rõ phương hướng, trong lòng anh lúc đó chỉ có một tâm niệm, thoát khỏi bầy kền kền đáng ghét này. Dĩ nhiên, anh chẳng bao giờ quên được Lương Viện, nên anh nắm chặt lấy tay Lương Viện, chạy về phía con đường xanh mướt trên dốc. Lương Viện giữa đường vấp ngã không biết bao nhiêu lần, Đường Phong lần nào cũng bất chấp nguy hiểm có thể bị kền kền mổ, cứu giúp Lương Viện. Hai người chạy thục mạng về phía trước, nhìn không rõ đường, cũng không biết phương hướng, đôi chân đã mỏi nhừ rồi, chỉ có tiếng gió kêu gào bên tai, và sự đau buốt thấu tâm can khi bị móng vuốt kền kền cào rách da thịt nhắc nhở họ rằng: tôi vẫn còn sống.

5

Con đường xanh mướt hướng lên trên, nó sẽ thông tới đâu đây? Là thiên đường hay địa ngục? Đường Phong và Lương Viện đều không biết, họ tới điểm cuối cùng của con đường xanh, một ngọn núi sừng sững vút thẳng tận tầng mây, chặn đứng con đường trước mặt họ. Đây thực sự là tuyệt lộ, không có cửa, động uốn lượn âm u, phía sau lưng họ, bầy kền kền vẫn đang không ngừng lao đến tấn công. Trong lúc hoảng loạn, Đường Phong nhìn thấy bên cạnh con đường xanh mướt có một con dốc dựng đứng, dốc khoảng 60 độ, phía dưới dốc là gì, Đường Phong không nhìn thấy, nhưng, thời khắc này, đã không còn sự lựa chọn nào khác, Đường Phong quay đầu lớn tiếng hỏi Lương Viện: “Dám xuống dưới không?”

Lương Viện lúc này dũng cảm lạ thường, kiên quyết gật đầu: “Dám! Nếu chết chúng ta sẽ cùng chết.”

Đường Phong cũng gật gật đầu, ôm chặt lấy Lương Viện, nhắm mắt lại, hai người cùng nhau lăn xuống con dốc dựng đứng…

Không biết bao lâu sau, Đường Phong rút cuộc mở mắt, anh lắc lắc đầu, phát hiện Lương Viện đang nằm yên trong lòng mình. Anh hồi tưởng lại mọi chuyện xảy ra trước đó, xuyên qua đại khe sâu Nạp Ma, kẻ địch truy sát, kền kền tấn công, mình và Lương Viện cùng nhau lăn xuống dốc núi… Nghĩ tới đây, Đường Phong giật bắn mình, Lương Viện giờ sao rồi? Anh đang định ngồi dậy thì bỗng cảm thấy toàn thân ê ẩm đau buốt, anh cũng không phân biệt được đâu là vết thương bị kền kền cào cắn, đâu là vết thương do lăn xuống dốc núi. Anh cố gắng kìm nén đau đớn, ngồi dậy, khẽ gọi Lương Viện. Một lúc lâu sau, Lương Viện mới từ từ mở mắt, chớp chớp đôi mắt to, sững sờ nhìn Đường Phong, đột nhiên hỏi: “Chúng ta đang ở đâu đây?”

Nghe thấy câu này, Đường Phong giật bắn mình, Lương Viện sao vậy? Mất trí rồi? Anh vội vàng nhắc Lương Viện: “Chúng ta ban nãy mới bị kền kền tấn công, hai chúng ta cùng nhau ngã xuống dốc núi.”

Lương Viện bừng tỉnh, “Ồ! Tôi nhớ ra rồi.”

Đường Phong thở phào, quan tâm hỏi: “Cô không sao chứ?”

Lương Viện vươn vươn vai, cười nói: “Tôi không sao, ban nãy giống như ngủ vậy, bây giờ tinh thần tốt hơn rồi.”

Đường Phong xem xét cẩn thận, Lương Viện quả thật không sao, ngoài hai ống tay áo bị rách toạc cùng một vết rách trên đùi ra thì không có vết cào cắn của kền kền, cũng không có vết thương do bị ngã.

Đường Phong tức khí trong lòng: “Cô thì đơn giản nhẹ nhàng rồi, ngủ một giấc? Tôi thì thập tử nhất sinh đấy!” Nói xong, Đường Phong cắn chặt răng, gắng gượng đứng dậy, vết thương trên người đau tới nỗi trước mắt tối om, anh suýt nữa ngã nhào ra đất.

Đường Phong ngẩng đầu nhìn xung quanh, bầy kền kền đáng sợ đã không còn thấy bóng dáng đâu nữa, bản thân mình hiện giờ đang ở trên một bãi cỏ dưới đáy hang, chỉ trừ con dốc ban nãy mới lăn xuống, xung quanh toàn là đỉnh núi vực sâu, giữa những vực sâu cheo leo có thể thấp thoáng nhìn thấy một con đường nhỏ, anh đột nhiên nhớ tới những người khác, Hàn Giang, Yelena, Makarov đâu?

Nếu như không ngoài dự đoán, mấy người họ chắc cũng lăn xuống con dốc này. Đường Phong và Lương Viện lục soát khắp bãi cỏ dưới hang núi, chẳng bao lâu sau, họ phát hiện ra một bóng người, chính là Hàn Giang. Đường Phong gọi Hàn Giang tỉnh dậy. Nhìn lại Hàn Giang, tuy khắp người bị thương, nhưng rõ ràng là những vết thương nhỏ này đối với Hàn Giang cao to, rắn rỏi mà nói thì chẳng thấm vào đâu.

Ba người tìm khắp bãi cỏ, đột nhiên, một bóng đen thấp thoáng sau tảng đá to, tay bóng đen đó cầm khẩu súng, nòng súng đen bóng lặng lẽ nhắm thẳng vào ba người họ!

Ba người lùi lại phía sau một bước, bóng đen đó tiến lên phía trước hai bước, tiến sát lại, ba người lúc này mới nhìn rõ, bóng đen cầm súng chính là Makarov. Makarov nhìn thấy Đường Phong và Hàn Giang, thở phào một cái, buông súng trong tay xuống. Makarov cũng thương tích đầy mình, vết thương cũ trên vai lại bị kền kền cào rách, máu chảy đầm đìa.

Hàn Giang giúp Makarov xử lý qua vết thương, cầm máu, bốn người tiếp tục tìm kiếm Yelena dưới đáy hang, nhưng mãi cho tới tận khi mặt trời lấp ló rạng đông, họ cũng vẫn chưa tìm thấy bóng dáng của Yelena đâu cả.

6

Tìm khắp nơi mà không thấy Yelena, Makarov thất vọng ngồi bệt ra bãi cỏ, Đường Phong nói: “Có lẽ Yelena tháo chạy bằng đường khác rồi.”

Makarov lắc lắc đầu: “Đường ư? Anh đừng an ủi tôi nữa, ở trên đó tôi nhìn thấy rõ, vốn chẳng còn con đường nào khác cả, trước mặt là đỉnh núi sừng sững, hai bên toàn là dốc đứng cheo leo, chỉ có con dốc này, lăn xuống là vẫn còn hy vọng. Yelena nhất định đã gặp phải điều bất ổn, nếu nó không bị thương, hôn mê bất tỉnh, hay vẫn còn ở trên đó, thì cũng hoảng loạn không biết đường nào mà chạy, hoặc chạy về đường cũ. Bất luận tình huống nào đi chăng nữa, đối với Yelena mà nói, đều là đường chết!”

Mọi người nghe phân tích của Makarov mà lòng cũng trĩu nặng, Hàn Giang nói: “Tôi thấy thế này, mọi người ở đây đừng đi đâu nữa, tôi lên trên xem sao.”

Đường Phong ngẩng đầu nhìn lên khoảng trời nhỏ hẹp trên đỉnh đầu, bất giác cảm thấy mình biến thành ếch ngồi đáy giếng, anh hỏi Hàn Giang: “Xung quanh đây toàn là vách đá dựng đứng, cho dù chúng ta có lăn xuống dốc núi này, không có công cụ leo núi, anh có thể leo lên được không?”

Hàn Giang ngẩng đầu nhìn lên vách đá dựng đứng xung quanh, cũng không chắc chắn, lại thở dài, nói: “Đành phải thử xem sao!”

“Hàn! Hay là để tôi lên trên, dù sao Yelena cũng là con gái tôi.” Makarov bịt vết thương nói.

“Ông đang bị thương, sao có thể leo lên được!”

“Nhưng…” Makarov vẫn muốn tranh luận, Đường Phong đột nhiên lấy tay ra hiệu im lặng, ngắt quãng tranh luận của hai người. Đường Phong lấy ngón tay chỉ lên phía trên, bốn người nín thở, dỏng tai nghe ngóng - phía trên có người tới!

Bốn người nép vào vách núi, đây là góc chết mà bên trên không nhìn thấy được. Chẳng bao lâu sau, trên đỉnh đầu vọng lại những âm thanh hỗn loạn, một giọng nói bằng tiếng Anh vang lên: “Quỷ tha ma bắt! Đuổi cả đêm, lẽ nào bọn đó biến mất rồi sao?”

Không có ai trả lời, tiếp đó, lại là những âm thanh hỗn loạn. Trên đỉnh đầu mọi người vang lên loạt tiếng súng, “Tạch! Tạch! Tạch! Tạch…”, một loạt đạn bắn lên vách đá dưới đáy hang, không một ai nhúc nhích, bởi mọi người đều hiểu rõ, đây là bọn người áo đen thử thăm dò.

Một lúc sau, âm thanh trên đỉnh đầu dần dần đi xa, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm, bước ra khỏi vách đá. Makarov nói với Hàn Giang: “Hàn! Bây giờ không cần thiết phải leo lên đó nữa, nhất định Yelena vẫn đang còn ở trên đó, tôi đoán khả năng lớn là nó đã bị đám người đó bắt đi rồi.”

Không hiểu sao Hàn Giang cảm thấy khó chấp nhận nổi suy đoán đó, anh lắc đầu, khẽ phản bác lại Makarov: “Không! Yelena không dễ bị tóm vậy đâu.”

“Hàn, đừng quan tâm tới Yelena nữa, nếu như nó bị bọn người đó bắt đi, dựa vào sức lực của chúng ta bây giờ, cũng không thể làm gì được; còn nếu như nó thoát được thành công, dựa vào bản lĩnh của bản thân nó, nhất định có thể ra khỏi đại khe sâu. Hiện tại cái chúng ta cần quan tâm chính là chúng ta. Làm thế nào để ra khỏi đại khe sâu đây? Giả dụ tình huống xấu nhất xảy ra, Yelena bị tóm, biện pháp tốt nhất để chúng ta giải cứu nó chính là nhanh chóng ra khỏi đây, bởi vậy, bây giờ chúng ta không cần nghĩ tới Yelena nữa...”

Hàn Giang không sao nghe tiếp được nữa, liền hét lên với Makarov: “Yelena là con gái của ông, sao ông có thể nói những câu như vậy?”

Đối diện với sự chỉ trích của Hàn Giang, Makarov không hề tức giận, ông vỗ vỗ vai Hàn Giang: “Hàn, anh vẫn chưa hiểu Yelena, anh phải tin rằng nó có thể ứng phó được.”

“Hừm! Tôi không hiểu Yelena, cũng không hiểu ông! Các người rút cuộc là ai? Đến đây vì cái gì?” Hàn Giang vẫn chưa hết tức giận, chất vấn Makarov.

“Chúng tôi là ai, đến đây làm gì, hiện giờ không quan trọng! Hiện giờ quan trọng là phải duy trì lý trí!” Makarov cũng hét lên với Hàn Giang.

Hai người cãi vã hồi lâu, rút cuộc vẫn là Đường Phong phải tới xoa dịu, anh nói với Hàn Giang: “Tâm trạng của anh chúng tôi đều hiểu, nhưng hiện giờ cần là cần lý trí, tôi thấy lão Mã nói cũng có lý, việc gấp rút trước mắt là chúng ta phải khẩn trương ra khỏi đây.”

Hàn Giang lườm Đường Phong một cái, nhưng gật đầu, nói: “Được thôi! Sẽ nghe mọi người, bây giờ đi thế nào?”

Makarov chỉ lên con đường nhỏ giữa vách núi cheo leo: “Tôi không biết con đường đó sẽ thông đến đâu, nhưng giờ thì đành phải thử xem sao.”

Con đường nhỏ hẹp giữa vách núi cheo leo không đủ rộng để hai người đi cạnh nhau, còn chỗ hẹp nhất chỉ có thể đủ cho một người nghiêng người đi qua, quả là một con đường lên trời theo đúng nghĩa. Chẳng mấy chốc, mọi người đã đi xuyên qua con đường hẹp dài khoảng mấy trăm mét, đến một chỗ bằng phẳng giống như giếng trời, mà phía trước là một vách núi sừng sững, chặn đứng đường đi. Lương Viện ngạc nhiên hỏi: “Lẽ nào đây chính là đường cụt?”

Sau một lúc trầm ngâm, Makarov đột nhiên chỉ lên “giếng trời” trong góc bị bụi cây um tùm che lấp, nói: “Đây không phải là đường cụt đâu, mọi người xem, ở đây có cửa động!”

Rẽ bụi cây um tùm ra, một cửa động âm u rộng khoảng hai mét bỗng hiện ra trước mặt mọi người, gió lạnh trong động sộc ra, một làn khói trắng bàng bạc bay lên. Đường Phong bật đèn pin, chiếu vào trong động: một con dốc thoải xuống, sâu không thấy đáy, không biết sẽ thông tới đâu. Đường Phong hỏi Makarov: “Chúng ta vào động chứ?”

Makarov gật gật đầu: “Đã đến đây rồi, tại sao không vào mục sở thị?”

Bốn người bàn bạc một hồi rồi hạ quyết tâm, tiến vào trong động xem đến cùng. Makarov đi đầu, Hàn Giang bám sát theo sau, cùng tiến vào động, sau đó là Lương Viện, cuối cùng là Đường Phong. Đường Phong trước khi tiến vào động, ngẩng đầu nhìn lên trời, lúc này trời đã sáng trưng, dù ánh nắng ban mai đã soi rọi vào “giếng trời” âm u lạnh lẽo, nhưng Đường Phong cũng không thể quay lại, anh đang bước vào một thế giới còn lạnh lẽo âm u hơn.
 

hoahongden12

Active Member

1

Trong hang động tối đen, đi được khoảng mười lăm phút thì bốn người đã dần dần quen với bóng tối bên trong động. Họ đến cuối con dốc, đó là một mặt phẳng không rộng lắm, ở đây lại xuất hiện một con dốc hướng xuống phía dưới. Tiếp tục đi xuống dưới, con dốc càng lúc càng hẹp, càng lúc càng khó đi, mặt đất toàn là đá vụn và những chùm nhũ đá nhỏ từ trên đỉnh hang rủ xuống, Lương Viện bắt đầu hoảng hốt: “Tôi thấy cái động này hình như chưa từng có ai đến hay sao ấy, bên trong không biết sẽ gặp phải điều đáng sợ gì nữa, hay là chúng ta quay lại đi!”

“Tôi đã nói trước là cô đừng đi theo rồi mà, biết ngay là cô sẽ làm vướng chân chúng tôi, bây giờ sợ rồi chứ gì?” Đường Phong oán trách Lương Viện.

Lương Viện vừa nghe thấy Đường Phong trách móc như vậy, lập tức cãi lại: “Tôi mà thèm vướng chân mọi người, không phải tôi sợ mà là tôi lo lắng. Tôi không biết cái động này sẽ thông đến đâu, cũng không biết sẽ gặp phải tình huống gì. Hơn nữa, chúng ta cũng không mang theo trang bị thiết yếu mà lại dám xuống thám hiểm động…”

“Quay về? Bọn người áo đen không biết chừng đang đợi chúng ta ở ngoài đó đấy…” Đường Phong vẫn đang định nói tiếp thì đã bị Hàn Giang ngắt lời: “Lương Viện nói không phải không có lý, xem ra, đây là một hang động đá vôi karst rất sâu, nếu tiếp tục đi xuống dưới thì khả năng sau đó sẽ xuất hiện giếng sâu hoặc cửa động thẳng đứng, hay cũng có khả năng sẽ có sông ngầm hoặc hồ dưới lòng đất, nếu như không có dây thừng hoặc thiết bị lặn, rồi lại bị lạc đường trong động, thì chúng ta có thể sẽ bị giam trong động! Thật không thể ngờ, một cái hang nhìn bên ngoài nhỏ và không có gì khác thường mà bên trong lại lớn thế này…”

Hàn Giang nói tới đây, đột nhiên im bặt, bởi lúc này họ đã đi tới điểm cuối của con dốc nhỏ hẹp này, vòng qua một đống đá vụn, phía trước bỗng rộng mở thênh thang, một đại sảnh lớn hình bầu dục hiện lên trước mắt họ, đây là một đại sảnh to bằng sân bóng đá với những tảng đá hình khối to lớn dựng đứng sừng sững trên mặt đất, cao gần bằng hai ba người. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên đỉnh đại sảnh, phần đỉnh đại sảnh cao ngang với một tòa nhà mười tầng, từng chùm nhũ thạch khổng lồ dài tới bốn năm mét, tầng tầng lớp lớp rủ xuống, giống như “lưỡi gươm Damocles” treo trên đỉnh đầu mọi người, dưới ánh đèn pin rọi lên, hình dạng của chúng đa dạng quái dị, lấp lánh ánh sáng kì dị, hỗn tạp. Lương Viện nhìn vào chùm nhũ đá trên đỉnh hang, lo lắng hỏi: “Những chùm nhũ đá này có thể rơi xuống đầu chúng ta không nhỉ?”

Mọi người sau khi được Lương Viện nhắc nhở, liền để ý quan sát chùm nhũ đá trên đỉnh hang động, lúc này họ mới phát hiện ra, những chùm nhũ đá này có vẻ rất kiên cố, nhưng có vài chùm nhũ đá đã lung lay sắp rụng, Đường Phong chỉ vào những mảnh đá vụn trên mặt đất, nói: “Những chùm nhũ đá có lẽ đã rất giòn rồi, mọi người nhìn xem, những mẩu đá vụn trên mặt đất đều là từ trên đỉnh hang động rơi xuống đấy.”

Hàn Giang dùng súng gõ vào một tảng đá vôi trên vách động, quan sát một lượt, gật đầu đồng ý với Đường Phong. Anh nói: “Đá vôi ở đây rất giòn, chùm nhũ đá này to nên cũng sẽ rất dễ rơi xuống, mọi người phải đặc biệt cẩn thận.”

Bốn người đi một vòng quanh đại sảnh hình bầu dục, ở đầu bên kia đại sảnh, họ lại phát hiện ra một cửa hang, một đường đi sâu hun hút không biết thông tới đâu. Hàn Giang nhìn đường đi, miệng lẩm bẩm: “Cái động này rút cuộc sâu tới mức nào vậy?”

Makarov nhìn đường đi trước mặt, nói: “Theo như quan sát của tôi, không gian của động đá vôi này sẽ rất lớn, mọi người đã cảm nhận thấy gió ở đây chưa?”

Makarov vừa nhắc, mọi người mới chú ý tới luồng gió từ từ thổi lại từ đầu bên kia con đường, gió phả lên mặt, thật là sảng khoái. Makarov giải thích: “Còn có cả khói trắng bay lên từ cửa động, điều đó cho thấy không khí trong cửa động luân chuyển rất tốt, cũng cho thấy không gian trong hang đá vôi rất rộng lớn.”

“Không gian trong hang đá rất rộng, chúng ta rất khó ra khỏi đây, hay là quay lại đường cũ vậy!” Lương Viện lại ra sức khuyên mọi người quay về.

Lần này, Đường Phong không phản đối nữa, Hàn Giang chìm trong suy tư, đến cả Makarov kiên quyết nhất cũng bắt đầu trở nên do dự…

2

Đúng lúc bốn người đang chần chừ chưa quyết, đột nhiên, từ con dốc mà họ tới đây bỗng vọng lại tiếng bước chân dồn dập. Bốn người lập tức trở nên cảnh giác, tiếng bước chân càng lúc càng gần, loáng một cái, bốn người đã nấp sau đống đá vụn đầu đường, chuẩn bị rút lui bằng con đường này bất cứ lúc nào…

“Hay là Yelena?” Đường Phong khẽ hỏi.

“Không! Không phải chỉ có một người đến.” Makarov đáp.

“Không phải là Yelena, chính là bọn người áo đen đó rồi!” Đường Phong trợn mắt.

Đường Phong vừa nói dứt lời, trên đầu con dốc phía bên kia đại sảnh hình bầu dục vọng lại mấy câu càu nhàu bằng tiếng Anh: “Điên rồi, bắt chúng ta xuống cái động quái quỷ này, bọn chúng sao có thể chạy tới đây nộp mạng được!”

Thoắt cái, sáu tên áo đen trang bị vũ khí từ đầu tới chân, đeo cả thiết bị hồng ngoại nhìn xuyên màn đêm, bồng súng đột kích M4A1, xuất hiện trong đại sảnh hình bầu dục. “Sợ gì y như rằng gặp ngay phải cái đấy, chúng ta mau rút lui thôi!” Đường Phong khẽ đề xuất.

“Lui ư? Không kịp nữa rồi! Chúng ta chạy không nổi với chúng đâu. Cậu xem, chúng ta bốn người, chúng sáu người, chúng trong chỗ sáng, chúng ta trong bóng tối, sao chúng ta không ở đây xử lý hết bọn chúng?” Vừa nói, Hàn Giang vừa nhìn chùm nhũ đá lung lay sắp rụng trên đỉnh đại sảnh.

Đường Phong và Makarov lĩnh ý, gật gật đầu với Hàn Giang, ba khẩu súng cùng nhắm chuẩn vào chùm nhũ đá. Sáu tên áo đen này rõ ràng vô cùng căng thẳng, tên nào cũng duy trì cảnh giác cao độ, lăm lăm khẩu súng trong tay chúng rồi cuối cùng lần lượt lục soát trong đại sảnh hình bầu dục, từng bước, từng bước, rút cuộc, chúng đã tới chính giữa đại sảnh hình bầu dục. Trên đỉnh đầu chúng chính là hai chùm nhũ đá khổng lồ dài ba bốn mét, hai chùm nhũ đá đã lung lay chực rụng…

“Pằng! Pằng! Pằng!...” Đường Phong, Hàn Giang và Makarov, ba người ba khẩu súng trong tay, cùng lúc bắn lên hai chùm nhũ đá khổng lồ trên đỉnh trung tâm đại sảnh, “Áaa…” một chùm nhũ đá trong đó lập tức rơi xuống, rơi trúng một tên áo đen, tiếng kêu thảm thiết của tên áo đen vang vọng khắp đại sảnh.

Nhưng chùm nhũ đá còn lại thì không nghe lời như vậy, tuy nó đã lung lay chực rụng nhưng lại chần chừ không chịu rơi xuống, mãi tới khi Hàn Giang có thể bắn rụng chùm nhũ đá này thì đám người áo đen lại tránh được. Ngay sau đó, đám người áo đen vốn đang ẩn nấp đã bắt đầu bắn trả điên cuồng, đạn bắn như mưa trút xuống đống đá vụn mà hội Đường Phong ẩn náu, họ vốn không thể bắn trả.

Lúc này, Hàn Giang đã có chút ân hận, anh lại lần nữa đánh giá thấp tố chất và thực lực của bọn người áo đen này. Anh vốn cho rằng mình có thể lấy tối đánh sáng, chắc là sẽ có vài phần thắng lợi, nhưng vừa bắt đầu bắn nhau thì mới phát hiện ra, hỏa lực dưới nòng súng của bọn họ hoàn toàn yếu thế hơn, trong huyệt động âm u này, lại không có thiết bị nhìn xuyên thấu màn đêm nên họ hoàn toàn ở trong thế bị động.

Không thể cố thủ được nữa! Hàn Giang khẽ nói với Đường Phong và Makarov: “Hai người dẫn Lương Viện đi trước, tôi ở đây kháng cự một lúc nữa, chốc nữa gặp lại mọi người.”

Đường Phong và Makarov không nói gì cả, đã đến lúc này thì cũng chẳng còn cách nào hơn, ba người khom lưng, áp người vào vách núi, nhanh chóng rút lui bằng con đường thông đến đây. Họ không biết con đường này sẽ dẫn tới đâu, cũng không biết sẽ gặp phải điều gì ở đây, nhưng, hiện tại muốn quay lại bằng đường cũ là điều không thể nên đành phải tiến lên phía trước, có lẽ sẽ có đường sống.

Đường Phong kéo Lương Viện, khom lưng, áp vào tường, rút lui vào sâu trong thông đạo. May mà con đường này uốn lượn quanh co, rẽ qua một khúc quanh, đạn của kẻ địch sẽ không bắn trúng được họ. Đường Phong đứng thẳng người, kéo Lương Viện bước nhanh về phía trước. Phía sau lưng, đám người áo đen không rõ tình hình đã lao ra nhả đạn điên cuồng, ngay sau đó là tiếng súng phản kích của Hàn Giang.

3

Đường Phong kéo Lương Viện chạy thục mạng vào trong thông đạo, đây là một con đường quanh co, nhưng rất bằng phẳng, thông đạo rất thông gió, không có nhiều chùm nhũ đá trên đỉnh nên hoàn toàn không cần phải lo lắng nhũ đá đột nhiên rơi xuống. Đường Phong sau khoảng hơn chục phút chạy thục mạng, dần dần bỏ xa tiếng súng sau lưng, anh không biết Hàn Giang hiện giờ ra sao? Ban đầu còn có thể nghe thấy tiếng súng phản kích dồn dập của Hàn Giang, nhưng hiện giờ… Đường Phong bước chậm lại, thở hổn hển, nhìn chăm chú về phía trước, lúc này, trước mặt lại xuất hiện một đại sảnh rộng lớn - đại sảnh thác đá.

Thời khắc này, Đường Phong đang chứng kiến một cảnh tượng hùng vĩ mà anh chưa từng thấy trong cuộc đời. Ở phía bắc đại sảnh này (nếu như la bàn vẫn nhạy), phía trên vách hang có một cửa hang khổng lồ hình bầu dục, trong cửa hang tối đen như mực, nên anh không thấy rõ bên trong có những gì, nhưng lại nhìn thấy phía dưới cửa hang là một thác đá hùng vĩ rộng khoảng ba bốn chục mét; từ cửa hang đổ xuống mặt đất đại sảnh trên thác đá, không biết là do thấm nước hay là do có khoáng sản mà lại ánh lên những tia sáng lấp lánh.

Đúng lúc Đường Phong đang chìm đắm trong kỳ quan thì đột nhiên phía sau thông đạo vọng lại tiếng bước chân dồn dập, Đường Phong và Makarov lập tức trở nên cảnh giác, hai người tắt đèn pin, nấp sau một tảng đá cạnh đường vào tiền sảnh thác đá, tiếng bước chân đó càng lúc càng gần, càng lúc càng rõ, rồi cuối cùng thì một bóng đen chạy vào trong đại sảnh, nòng súng của Makarov và Đường Phong nhắm thẳng vào bóng đen đó, nhưng họ cũng nhanh chóng nhận ngay ra đó là Hàn Giang.

Đèn pin lại được bật lên, Hàn Giang quay đầu lại nhìn, thấy Đường Phong và Makarov đang cầm súng nhắm vào mình, anh ngạc nhiên: “Tôi kiên trì ở đó bảy tám phút, sao giờ các anh mới chạy tới đây?”

“Chúng tôi đang đợi anh, còn nữa… ở đây thực sự hùng vĩ quá!” Đường Phong thu súng lại, nói.

“Cái gì mà hùng với chả vĩ, đám người đó sắp đuổi được đến đây rồi, các anh không cần sống…” Hàn Giang nói tới đây đột nhiên ngưng bặt, bởi cảnh tượng trước mắt thực sự quá hùng vĩ, nên người có vốn kiến thức phong phú đầy mình như Hàn Giang cũng không thể không bị chinh phục.

Đường Phong sau khi được Hàn Giang cảnh tỉnh, chẳng mấy chốc đã tỉnh táo trở lại. Ở đây quá nguy hiểm, tuyệt đối không phải là nơi để thưởng thức cảnh đẹp, anh nhìn khắp một lượt xung quanh đại sảnh thác đá, nhìn thấy phía nam đại sảnh, đối diện với thác đá có một cửa động hơi tròn, rất giống với cửa động khổng lồ phía trên thác đá, chỉ có điều nhỏ hơn một vòng.

Đường Phong chỉ về phía cửa động này, hét lên với mọi người: “Nhanh! Đi đường này.” Nói xong, Đường Phong dẫn mọi người chui vào, khi họ vừa mới chui vào bên trong thì phía sau đã vọng lại tiếng bước chân của truy binh.

Đường Phong một tay cầm súng, một tay cầm đèn pin, bước nhanh qua đường hầm trong cửa động hơi tròn này. Đường hầm này không giống với thông đạo uốn lượn quanh co ban nãy mà thẳng tắp hướng về phía trước, thẳng xuống dưới, càng chạy càng thấy ẩm ướt, có chỗ thậm chí còn có thể nhìn thấy khe nước chảy róc rách, chẳng mấy chốc, Đường Phong đã phát hiện ra mạch nước hiện rõ trên vách động.

“Đây là cái gì?” Lương Viện dừng lại tò mò hỏi.

Không đợi Đường Phong cất lời, Makarov đã thở hổn hển giải thích: “Đây là mạch nước, mạch nước xuất hiện ở đây cho thấy ở đây đã từng tích nước trong một thời gian dài, nhưng hiện giờ nước rút rồi.”

“Đúng vậy, chúng ta chạy vào sâu như vậy, rất có khả năng sẽ xuất hiện sông ngầm hoặc hồ dưới lòng đất? Mọi người xem, ở đây đã xuất hiện nước rồi!” Đường Phong lo lắng nói.

“Sau lưng quân truy sát, trước mặt lại xuất hiện hồ dưới lòng đất, vậy phải làm thế nào đây?” Lương Viện ngạc nhiên.

Hàn Giang giữ bình tĩnh: “Bất luận thế nào, đi tới cùng rồi tính tiếp, đến đường cùng ắt sẽ có lối thoát.”

Tiếng bước chân của truy binh phía sau mỗi lúc một rõ. Đường Phong dẫn mọi người tiếp tục chạy về phía trước, cũng không biết chạy được bao lâu, bỗng xuất hiện một hồ nước dài chặn đứng đường đi của họ.

4

“Chết tiệt, quả nhiên có hồ nước dưới lòng đất.” Đường Phong đứng bên hồ chửi rủa.

Đường Phong không biết phải làm thế nào khi nhìn về hồ nước trước mặt. Mặt hồ rộng gần chục mét, dài… không thấy điểm kết thúc, mặt hồ phẳng lặng như gương, dưới ánh đèn pin soi rọi, lấp lánh ánh sáng màu xanh ngọc bích tuyệt đẹp. “Hồ nước dưới lòng đất này đẹp thật đấy, giống như một tấm ngọc bích xanh biếc.” Lương Viện trầm trồ.

“Tôi hiểu rồi, tại sao ban nãy đại sảnh kia lại hình thành thác đá hùng vĩ đến vậy. Hàng nghìn năm trước, nước trong hang động phía trên chảy xuống đại sảnh, sau hàng nghìn năm tích lũy, không ngừng bào mòn, cuối cùng hình thành nên thác đá hùng vĩ đó; còn nước chảy vào trong đại sảnh lại chảy vào đường hầm, chảy mãi tới đây, rút cuộc thì hình thành nên hồ nước dưới lòng đất này.” Đường Phong giải thích.

Hàn Giang không chút hứng thú với những giải thích của Đường Phong, anh đáp: “Hiện giờ nói chút gì có ích đi, nghĩ xem chúng ta nên làm thế nào!”

“Xem ra chúng ta đành phải đội nước nhất chiến rồi!” rõ ràng là Makarov không hiểu câu thành ngữ “đội nước nhất chiến” này.

Đường Phong im lặng, anh mượn ánh sáng đèn pin, soi thẳng về phía không thấy bờ của đầu bên kia hồ nước dưới lòng đất. Không khí ở đây lưu thông rất tốt, phía bờ bên kia chắc là có đường, lại nhìn nước hồ, cũng không sâu lắm, Đường Phong hạ quyết tâm: bơi qua hồ nước ngầm.

Khi Đường Phong nói ra ý kiến của mình, mọi người đều kinh ngạc, đến cả Hàn Giang cũng vô cùng ngạc nhiên. Đường Phong hỏi Lương Viện: “Cô biết bơi không?”

Lương Viện gật đầu: “Tôi còn bơi giỏi là đằng khác, chỉ có điều chưa từng bơi trong hồ nước ngầm thế này bao giờ, ở dưới đấy có thủy quái không nhỉ?”

“Cô yên tâm, ở đây đến cá còn chẳng có nữa là! Vì mọi người đều biết bơi, vậy thì bơi qua đi, tôi đoán hồ này không thể quá dài.” Đường Phong kiên định nói.

Makarov thử thăm dò nhiệt độ nước, lạnh thấu xương, ông chau mày: “Nước rất lạnh, mọi người nhất định phải kiên trì, cũng phải giúp đỡ lẫn nhau, tôi xuống trước.” Nói xong Makarov lục từ trong ba lô ra mấy chiếc kính lặn quân dụng đưa cho mọi người. Hàn Giang hơi bất ngờ, nghi ngờ nhìn Makarov rồi mới đón lấy kính.

Đường Phong và Lương Viện phía trước, Hàn Giang và Makarov phía sau, bốn người cởi áo khoác ra, cất vào trong ba lô, đeo kính lặn lên, lần lượt nhảy xuống hồ nước dưới lòng đất lạnh cóng. Đợi sau khi họ bơi được hơn chục mét, đám truy binh cũng đuổi đến nơi, chúng lập tức giương súng điên cuồng bắn xuống mặt hồ.

Thấy bắn xuống nước vô hiệu, lập tức có hai tên áo đen mở ba lô ra, lôi ra hai thiết bị lặn mặc vào người, tay cầm khẩu súng P11 dưới nước, nhảy xuống dưới hồ.

Hồ nước trong vắt thấy tận đáy, khả năng nhìn được dưới nước rất cao, sau khi Đường Phong bơi được hai chục mét thì kinh ngạc phát hiện ra, dưới đáy hồ mọc rất nhiều ụ đá trắng khổng lồ nhô lên, có ụ thì mới mọc, có ụ thì đã cao ba bốn mét, còn có cả mấy cột đá khổng lồ cao tới năm sáu mét, đỉnh đã gần chạm tới mặt nước, dưới mặt hồ rõ ràng là một rừng đá dưới nước, tươi đẹp hùng vĩ.

Đường Phong quay người lại nhìn Hàn Giang và Makarov bám sát phía sau. Hàn Giang bơi rất giỏi nên khỏi phải nói, Makarov tuy tuổi tác đã ngót nghét bảy mươi, lại đang bị thương nhưng dưới nước hồ lạnh buốt như vậy vẫn bơi rất cừ; nhìn tiếp Lương Viện bên cạnh, động tác chậm chạp dị thường, rõ ràng, cô ấy vẫn chưa thể thích ứng với nước hồ lạnh cóng dưới này… Không ổn! Chân trái của Lương Viện đột nhiên bị chuột rút, cô đau đớn giãy giụa trong nước. Đường Phong vội vàng tiến đến kéo lấy Lương Viện, nhưng sức của một người rõ ràng không đủ, Hàn Giang tức tốc bơi đến cùng Đường Phong đẩy Lương Viện lên mặt nước, ngay sau đó, Đường Phong và Hàn Giang cũng cùng ngoi lên mặt nước. “Lương Viện, cô sao rồi?” Đường Phong quan tâm hỏi.

Mặt Lương Viện tái xanh, thở hổn hển, Hàn Giang trả lời thay cô ấy: “Bị chuột rút rồi, nước lạnh quá.”

“Vậy làm thế nào? Không muốn chết thì phải cố gắng tới cùng!” Hàn Giang cắn răng nói. Họ quay đầu lại thì đã có thể nhìn thấy hai bóng đen bám đuôi, Đường Phong vội vã hỏi Lương Viện: “Lương Viện, cô vẫn ổn chứ?”

Lương Viện ra sức gật đầu rồi lại lặn xuống nước. Đường Phong nhìn Hàn Giang, im lặng, lại bơi tới bên cạnh Lương Viện, bơi tiếp gần chục mét lên phía trước. Lương Viện quả thực bơi rất chậm, Đường Phong trong lòng sốt ruột, sao hồ nước nhỏ như vậy mà bơi mãi vẫn chưa đến bờ, nếu như truy binh đuổi kịp, hậu quả sẽ không thể tưởng tượng nổi.

Đường Phong sốt ruột lo lắng, bất giác tăng tốc, một mình bơi lên phía trước, anh muốn xem phía trước còn bao xa mới đến bờ, nhưng đột nhiên, anh phát hiện dòng nước bên cạnh mình có chút không bình thường, anh mở trừng mắt trong nước, phát hiện phía trước tối đen, hồ nước ngầm màu xanh không thấy đâu nữa, chuyện gì thế này?

Đường Phong ngoi lên mặt nước, anh không nhìn rõ phía trước, nhưng anh nghe thấy tiếng nước chảy ào ào. Mặt hồ trước mắt không còn yên ả nữa, dòng nước đột nhiên chảy xiết, đầu óc Đường Phong cũng quay cuồng theo, anh suy nghĩ để phán đoán xem phía trước là gì? Đột nhiên, một ý nghĩ lóe lên trong đầu anh - phía trước là thác nước!

5

Dòng nước chảy xiết đẩy Đường Phong về phía trước, Đường Phong giật bắn mình, cố gắng bơi lùi lại, anh chặn đứng Lương Viện đang khó nhọc bơi về phía trước, rồi lấy tay ra hiệu cho Hàn Giang và Makarov, bốn người nổi trên mặt nước, Đường Phong chỉ về phía trước, nói nhỏ: “Thác nước!”

Mọi người đã hiểu ra, sự hoảng sợ đều hiện rõ trên khuôn mặt từng người, phía trước có thác nước, phía sau có truy binh, nếu rơi xuống dưới thác nước này, chắc chắn sẽ chết chắc, truy binh thì đang đuổi tới nơi… giờ đã là đường cùng rồi.

Lòng Đường Phong như có lửa đốt, một mình anh lại lặn xuống nước. Anh nhìn thấy những ụ đá chi chít dưới đáy hồ, sát vách động dưới đáy hồ có hai ụ đá rất to, một ụ đá to hơn một chút, cao khoảng bốn năm mét, một ụ đá thì nhỏ hơn, cao khoảng ba bốn mét, xung quanh hai ụ đá to này còn mọc rất nhiều những tảng đá nhỏ khác. Những ụ đá, tảng đá lớn lớn nhỏ nhỏ này hình thành nên một rừng đá; nhìn thấy vậy, trong lòng Đường Phong bỗng lóe lên một ý nghĩ.

Anh nổi lên mặt nước, ra hiệu cho mọi người lặn xuống dưới, sau đó chỉ chỉ vào hai ụ đá to, đưa mọi người bơi về phía rừng đá đó, mọi người bơi tới bên ụ đá, rồi lại nổi lên mặt nước, Hàn Giang không thể chờ đợi thêm liền hỏi ngay: “Nhất định là cậu đã có ý tưởng rồi phải không?”

Đường Phong ôm lấy ụ đá to nhất, thở hổn hển, đáp: “Đúng! Mọi người nhìn thấy hai ụ đá to này rồi chứ? Đợi hai tên đó bơi tới đây, chúng ta sẽ ôm lấy hai ụ đá này rồi lặn xuống nước. Có ụ đá này che chắn, lần này chắc chắn chúng ta có thể thoát được, còn nếu như không thoát được, thì thôi đành phải bỏ mạng lại vậy.”

Makarov cười ranh mãnh: “Tôi hiểu rồi, kế sách một mũi tên trúng hai đích, vừa có thể cứu được mạng chúng ta, vừa có thể khử được hai tên đó.”

“Ông lão người Nga này, sao lại biết nhiều thành ngữ Trung Quốc thế nhỉ, nhưng ông nói sai rồi, lần này là mượn dao giết người!”

Hàn Giang xem xét địa hình, hoàn toàn tán đồng chủ ý của Đường Phong, cuối cùng anh dặn dò: “Đây là thử thách quan trọng nhất của chúng ta, mọi người phải nín thở cho thật sâu, xuống nước rồi là không thể lấy hơi được nữa, tôi đếm đến ba, một, hai, ba!” Hàn Giang nói xong, hít một hơi thật sâu, ôm lấy ụ đá to nhất, cùng Makarov lặn xuống nước, Đường Phong và Lương Viện bơi tới cạnh ụ đá nhỏ hơn. Đường Phong hỏi Lương Viện: “Chuẩn bị xong chưa?” Lương Viện gật gật đầu: “Chuẩn bị xong rồi.” Hai người cũng học theo Hàn Giang, hít một hơi thật sâu, lặn xuống nước, mặt đối mặt ôm chặt lấy ụ đá đó. Đường Phong gắng hết sức mở to mắt, quan sát động tĩnh dưới hồ, từng giây từng giây trôi qua, lúc này, từng giây trôi qua đối với họ cũng thật quá dài, và cũng thật quan trọng, vì bản thân anh không biết mình có thể kiên trì được bao lâu nữa. Anh nhìn Hàn Giang và Makarov, rồi lại nhìn Lương Viện, “Lương Viện, cô nhất định phải gắng gượng đấy!” Đường Phong âm thầm cầu nguyện trong lòng.

Theo thời gian từng giây từng phút trôi qua, Đường Phong cũng cảm nhận được nhiệt độ cơ thể mình đang tức tốc hạ xuống, tai và mắt rõ ràng bắt đầu cảm thấy khó chịu, phổi phải chịu đựng áp lực không thể chịu đựng nổi, Đường Phong vẫn gắng sức chịu đựng. Nếu ngay cả bản thân mình cũng khó nhọc nhường vậy, thì Lương Viện sẽ thế nào đây? Đường Phong không dám nghĩ tiếp, cũng không dám nhìn Lương Viện nữa…

Rút cuộc, hai gã đó cũng xuất hiện rồi, Đường Phong nhìn thấy rõ thứ chúng đang cầm trong tay là khẩu súng ngắn P11 dưới nước do Đức chế tạo. Đường Phong trong lòng kinh ngạc, nhưng lại có chút mừng thầm. Kinh ngạc ở chỗ bọn áo đen này không ngờ lại trang bị hiện đại đến vậy, toàn diện đến vậy, đến cả súng bắn dưới nước mà cũng có; mừng thầm ở chỗ, may mà họ không quay lại chiến đấu với bọn người này.

Hai tên áo đen này rõ ràng không phát hiện ra bốn người nhóm Đường Phong. Chúng vốn không ngờ rằng trong rừng đá này lại có thể nấp được mấy người khá to như vậy, chúng chỉ biết tiến lên phía trước truy đuổi, nên bơi rất nhanh qua khu rừng đá này…

Đường Phong nhìn chăm chú mọi thứ, thời khắc quan trọng nhất tới rồi, chỉ cần gắng gượng hơn chục giây nữa, đợi hai tên đó rơi xuống thác nước là họ sẽ có thể nổi lên mặt nước, hớp từng hớp không khí tươi rói. Đột nhiên, Đường Phong phát hiện ra gã đang bơi phía trước bỗng ra sức giãy giụa trong nước, xem ra hắn đã phát hiện thấy thác nước trước mặt; nhưng đã quá muộn, gã đó chưa kịp kêu lên câu nào thì đã bị dòng nước chảy xiết cuốn phăng xuống thác, không kịp cất tiếng kêu gào thảm thiết, không kịp kêu cứu, thậm chí còn không nghe thấy cả tiếng động mà hắn rơi xuống. Hắn đã âm thầm biến mất không chút động tĩnh như vậy thì lẽ nào thác nước phía trước sâu không thấy đáy?

Gã bơi phía sau phát hiện ra đồng bọn rơi xuống dưới, biết được đại sự không ổn, sống chết cố bơi quay lại. Nhưng hắn càng muốn bơi quay lại, dòng nước xiết càng muốn cuốn hắn đi, nhưng mà tên này cũng thuộc dạng khỏe mạnh hơn người, nên sau một hồi giãy giụa, hắn đã thoát được khỏi dòng nước xiết, bơi trở lại được.

Đường Phong âm thầm oán thán, vì mong rằng hai tên này nếu đều rơi cả xuống thì mình sẽ có thể nổi lên mặt nước, tha hồ hít thở, nhưng thật không ngờ, tên này lại bơi được về. Đường Phong cảm thấy cơ thể mình đã đến đỉnh điểm, anh biết mình không thể kiên trì thêm được nữa.

6

Đúng lúc Đường Phong đang vô cùng khổ sở thì mặt nước bên cạnh bắn tung tóe, Lương Viện ngoi lên mặt nước. Đường Phong thấy vậy cũng ngoi lên theo, hớp lấy từng ngụm không khí tươi rói, nhìn lại Lương Viện đã thấy máu mũi cô ấy chảy ròng ròng và bất tỉnh nhân sự.

Đường Phong và Lương Viện đã bị bại lộ như vậy rồi thì Makarov và Hàn Giang cũng không nhất thiết phải gắng gượng nữa, hai người lần lượt trước sau nổi lên mặt nước. Tiếng động họ phát ra khi giãy giụa khiến tên đang bơi phát hiện ngay ra họ, nhưng khi gã này chưa kịp phản ứng lại, Hàn Giang đã kịp thời dùng con dao găm quân dụng thu hoạch được ở Khương Trại phi thẳng vào đối thủ. Gã này ban nãy vừa tiêu hao rất nhiều sức lực, càng không ngờ tới việc Hàn Giang lại chủ động tấn công như vậy, nên chân tay hắn cuống quýt cả lên đến nỗi không bắn nổi phát nào, mắt trợn trừng trừng nhìn Hàn Giang ngay trước mặt.

Hàn Giang dùng tay trái kẹp chặt lấy người hắn, dìm xuống nước, tay phải dồn sức cứa một đường, cắt đứt cổ họng của hắn. Một đám bọt bong bóng sủi lên mặt nước, lúc này mắt hắn trợn ngược và vô cùng hoảng sợ, nên ra sức giãy giụa trong nước. Súng đã rớt khỏi tay, hắn muốn ngoi lên mặt nước, nhưng Hàn Giang đã dồn hết sức lực của người đàn ông tráng kiện mà dìm hắn xuống nước sâu hơn …

Đường Phong và Makarov kinh ngạc chứng kiến cảnh tượng này, nhưng họ không thể nhìn thấy rõ mọi việc dưới nước, nên Makarov rút dao găm ra, định lao đến trợ giúp. Đúng lúc đó, mặt hồ yên ắng trở lại, mặt nước vốn trong vắt giờ loang ra vệt đỏ tươi, là máu, máu người, mùi tanh của máu chẳng mấy chốc lan tỏa khắp mặt hồ. Đây là máu của gã đó hay là của Hàn Giang gặp rủi ro?

Đúng lúc Đường Phong và Makarov đang chần chừ do dự thì một vật đen sì nổi lên mặt nước. Vật đen thui đó dập dềnh theo dòng nước, trôi về phía trước. Dòng nước trước mặt bắt đầu chảy xiết, vật đen thui đó chẳng mấy chốc biến mất theo dòng nước cuồn cuộn cuốn đi. Lúc này Đường Phong và Makarov đã biết gã đó đã bị Hàn Giang xử xong, nhưng Hàn Giang mãi vẫn chưa thấy ngoi lên mặt nước, nên lòng hai người bất giác trùng xuống.

Rút cuộc thì Hàn Giang cũng đã nổi lên mặt nước giữa một vùng máu loang lổ, từ từ bơi về phía họ, đến lúc này Đường Phong và Makarov mới yên tâm trở lại. Hàn Giang bơi về, phát hiện Lương Viện vẫn bất tỉnh nhân sự, mặc cho Đường Phong kêu gọi thế nào, Lương Viện cũng không phản ứng gì. Hàn Giang nhìn Lương Viện rồi nói với Đường Phong: “Đừng gọi nữa, không ích gì đâu, mau hô hấp nhân tạo đi.”

“Cái gì? Anh bảo tôi hô hấp nhân tạo cho cô ta?” Đường Phong hỏi lại Hàn Giang.

“Phí lời, không phải cậu thì tôi chắc! Một trong những nhiệm vụ của cậu là bảo vệ Lương Viện mà.”

“Nhưng đâu có nói là phải hô hấp nhân tạo?”

“Thôi đi, đừng có được lợi lại còn làm ra vẻ ta đây, nhanh lên!”

Makarov tiến lại vỗ vỗ vai Đường Phong: “Chàng trai, đừng có ngượng!” nói xong, Makarov và Hàn Giang bơi đi để tìm lối thoát khác. Lúc này, Đường Phong cũng không còn gì để đắn đo, anh hít một hơi thật sâu, từ từ kề sát miệng vào môi Lương Viện. Đôi môi Lương Viện lạnh tới nỗi không có lấy làn hơi ấm làm Đường Phong giật thót mình. Anh chưa từng bao giờ lo lắng cho Lương Viện như lúc này. Anh ôm chặt lấy Lương Viện, muốn lấy thân nhiệt của mình ủ ấm cho cô ấy… Lương Viện rút cuộc đã dần dần tỉnh lại, cô thấy mình đang nằm trong lòng Đường Phong, được Đường Phong hô hấp nhân tạo, khuôn mặt trắng bệch bất giác ửng đỏ. Đường Phong thấy Lương Viện tỉnh lại, đang định buông tay ra thì Lương Viện lại ra sức ôm chặt lấy anh không rời…

“Thôi nào, thôi nào, đây không phải là nơi để thân mật, ban nãy còn ngại ngùng e thẹn, bây giờ đã lại không nỡ buông nhau ra rồi!” Hàn Giang và Makarov không biết từ lúc nào đã lại đứng bên cạnh họ.

Đường Phong và Lương Viện quyến luyến buông nhau ra, Hàn Giang cười nói: “Ban nãy nhân lúc hai người hôn nhau, tôi và Lão Mã đi thăm dò đường, phát hiện ra một miệng hang rộng khoảng hai mét trên vách động dưới nước, cách rừng đá này không xa lắm. Tôi đã bơi vào trong xem sao, bên trong là một con đường rất hẹp.”

“Ý của anh là chúng ta sẽ bơi ra theo con đường đó?” Đường Phong hỏi.

Hàn Giang gật đầu: “Chẳng còn cách nào khác.”

“Nhưng con đường đó dài đến đâu, thông tới đâu, chúng ta cũng không biết, hơn nữa anh xem Lương Viện, cô ấy…” Ánh mắt Đường Phong lúc này nhìn Lương Viện tràn đầy sự thương xót.

“Đường Phong, vừa hô hấp nhân tạo một cái là quan tâm người ta vậy sao.”

“Bảo vệ Lương Viện, là nhiệm vụ mà anh đã giao phó cho tôi! Đấy là anh nói mà.”

“Đừng có lí luận với tôi nữa!” Hàn Giang quay lại hỏi Lương Viện: “Tôi đã tính toán sơ sơ, con đường này khả năng dài hơn hai chục mét, tôi cũng không rõ bơi qua đó thì sẽ đến đâu. Sao rồi? Cô ổn chưa?”

Có sức mạnh của tình yêu, tinh thần Lương Viện đã khá hơn rất nhiều, cô kiên định gật gật đầu với Hàn Giang, đáp: “Tôi vẫn có thể gắng được!”

“Được! Tinh thần thiếu nữ thật đáng khen ngợi.” Hàn Giang cổ vũ Lương Viện xong, làm người dẫn đầu, lặn xuống nước. Đường Phong bảo vệ Lương Viện cũng lặn xuống nước. Chẳng mấy chốc, họ đã chui vào trong thông đạo màu trắng rất hẹp. Ở đây không có những ụ đá to giống như trong hồ nước ngầm, chỉ có vài ụ đá nhỏ mới nhô lên, cho thấy niên đại hình thành ở đây muộn hơn, nên vẫn chưa có nhiều ụ đá to. Thông đạo màu trắng ngắn hơn Hàn Giang dự đoán, nên sau khi bơi được khoảng mười lăm mét, mọi người lại đến một hồ nước ngầm khác. Hồ nước ngầm này không to lắm, nước không sâu, cũng không có ụ đá mà chỉ là một hồ nhỏ hoàn toàn khép kín, nên mọi người lại bơi tiếp mấy phút, rút cuộc đã nhìn thấy bờ.

7

Lên đến bờ, bốn người toàn thân run rẩy, ngồi bệt trên bờ, hớp lấy từng hớp không khí tươi rói trong động. Mãi một lúc sau, Lương Viện mới cất lời trước: “Ban nãy thật sự nguy hiểm quá, nếu như rơi xuống thác nước thì chúng ta bây giờ đã xong hết rồi, đại nạn không chết, ắt có hậu phúc.” Lương Viện tự an ủi bản thân.

Đường Phong lại nói: “Thực ra, chúng ta nên cảm ơn vận may của mình, vì hiện đang là mùa nước cạn, nếu như là mùa hè lượng nước dồi dào, thì hồ nước ngầm đó sẽ dài tới mức nào? E rằng chỗ chúng ta đang ngồi hiện giờ cũng chìm trong nước.”

Makarov trầm trồ: “Cái động đá vôi này thần kỳ thật đấy, bên trong còn có cả thác nước, hơn nữa lại còn là thác nước nhiều tầng, phía dưới thác nước không biết sẽ thông tới đâu? Tôi ở Nga chưa từng nhìn thấy huyệt động nào thần kỳ như vậy.”

“Đúng vậy! Cái động này tôi cũng chưa từng nghe nói đến, xem ra chúng ta là nhóm người đầu tiên phát hiện ra nó. Nếu như có thể ra ngoài, chúng ta sẽ…” vừa nói, Đường Phong vừa định cởi quần áo ướt sũng trên người ra, Hàn Giang vội vàng ngăn anh lại: “Đừng cởi quần áo vội, ở đây vẫn chưa phải là nơi nghỉ ngơi, chúng ta phải đi xa một chút, đến nơi an toàn sẽ lại nghỉ tiếp.”

“Lẽ nào chúng ta ở trong hang đá vôi lạnh lẽo lại mặc quần áo ướt sũng thế này đi sao? Tôi thấy chúng ta không bị bọn áo đen đó đánh chết thì cũng chết vì cảm lạnh cũng nên!” Đường Phong ca thán.

Hàn Giang lắc lắc đầu: “Đường Phong, đừng kêu ca nữa, khắc phục chút đi!” vừa nói anh vừa đứng dậy, nhìn nhìn thông đạo tối đen sau lưng: “Quay về thì không quay được nữa, chỉ còn con đường này, từ đây đi thôi.”

Bốn người lại đi vào một đường hầm. Hàn Giang đi đầu soi đèn pin; anh bất giác mừng thầm trong bụng, may mà đèn pin này chịu được nước nên chưa bị nước ngâm hỏng. Không biết đi được bao lâu, họ đến một đại sảnh đá vôi huy hoàng hơn hẳn - đại sảnh màu vàng cam, ở đây to hơn, hùng vĩ hơn, càng khó tưởng tượng hơn đại sảnh hình bầu dục và đại sảnh thác đá, bởi trên khắp vách động trong đại sảnh, có vô số những lỗ nhỏ, suối đá màu cam, màu đỏ và màu vàng từ vô số những lỗ nhỏ này chảy ra, tuôn trào ra ngoài, phủ kín gần như hầu hết vách động, hình thành nên cảnh quan độc đáo kỳ lạ đến vô cùng.

Hàn Giang ngạc nhiên thốt lên: “Đại sảnh này quả thật ngoài sức tưởng tượng.” Đường Phong, Lương Viện và Makarov hoàn toàn quên mất sự lạnh giá trên cơ thể, người nào người nấy há hốc mồm kinh ngạc, mắt mở to, chìm đắm trong cảnh quan hùng vĩ này.

Một lúc lâu sau, Đường Phong mới trầm trồ: “Tôi cảm giác mình đang ở một thế giới hoàn toàn khác.”

“Đúng vậy! Tuy bị người ta truy sát, nhưng chuyến đi này của chúng ta quả thật không lãng phí.” Lương Viện vẫn còn chút phấn khởi.

Hàn Giang đi một vòng quanh đại sảnh màu vàng cam, sau đó mở ba lô ra, lôi ra chiếc la bàn và GPS. “Mong là hai thứ này chưa bị hỏng, nhìn thì thấy hình như vẫn bình thường, nhưng… thế này là thế nào!” Hàn Giang đột nhiên hét lên kinh ngạc. Mọi người quây lại xem, Hàn Giang chỉ vào GPS và la bàn, nói: “Ở đây không nhận được tín hiệu vệ tinh thì là bình thường, nhưng mọi người xem, cái la bàn này làm sao vậy?”

Nhìn bên ngoài, la bàn không có bất cứ hỏng hóc nào, nhưng kim la bàn lại quay tít cả lên, nên không thể nhận biết được bên nào là Bắc bên nào là Nam. “Lẽ nào từ trường ở đây không có tác dụng nữa sao?” Đường Phong nghi ngờ không hiểu.

Cuối cùng, vẫn là Makarov kiến thức uyên bác nói: “Lúc tôi còn phục vụ trong quân đội, đã từng tới Afghanistan. Trong một lần chỉ huy một binh đoàn đặc chủng truy kích một đội du kích, đội du kích này đã dụ chúng tôi vào một hang động trong núi. Trong hang động đó động nối động, có rất nhiều ngã rẽ, chúng tôi vào đó chưa được bao lâu thì đã chóng hết cả mặt khi di chuyển, lúc đó la bàn của chúng tôi cũng xuất hiện tình trạng như thế này, hoàn toàn không tìm được phương hướng. Tôi thấy tình hình không ổn, lập tức chỉ huy mọi người rút lui theo đường đến, nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn lạc đường. Trong động, chúng tôi không ngừng bị quân du kích mai phục, nên rút cuộc, chỉ có mình tôi thoát ra được khỏi hang núi. Sau khi thoát ra, tôi không sao hiểu nổi nên đã báo cáo tình hình với cấp trên. Sau này trong một lần hành động, sau khi chúng tôi phải trả giá rất đắt thì cuối cùng mới hoàn toàn chiếm lĩnh được hang động đó. Sau đó, cấp trên đã mời chuyên gia đến khảo sát hang động này. Kết quả khảo sát là trong động có mạch khoáng sản sắt nam châm, cho nên…”

“Ý ông nói là sắt nam châm là linh hồn ở đây, cũng có nghĩa là ở đây có mạch khoáng sản sắt nam châm?” Hàn Giang ngắt lời Makarov.

“Tôi nghĩ chắc là như vậy, vì ngoài điều này ra, tôi cũng không tìm được cách giải thích nào hợp lý hơn.” Makarov đáp.

“Nói như vậy, hiện giờ chúng ta đã hoàn toàn mất phương hướng, lạc đường trong huyệt động khổng lồ này rồi.” Đường Phong toát mồ hôi hột.

“Bây giờ phải làm thế nào? Nếu như chúng ta vĩnh viễn không thoát ra được, thì sẽ…” Lương Viện nói mà chỉ chực khóc.

“Không phải lo lắng, tiểu cô nương, cùng lắm chúng ta ở đây sống cuộc sống của người nguyên thuỷ, vẽ tranh lên vách động, ghi chép lại sự tích anh hùng của chúng ta. Rồi bao nhiêu năm sau, khi các nhà thám hiểm phát hiện ra chốn này, thì sự tích của chúng ta sẽ được lưu truyền khắp thiên hạ. Đến lúc đó, chúng ta đều thành người nổi tiếng rồi, khà khà!” Makarov đến lúc này mà vẫn không quên pha trò.

“Cháu không thèm làm người nổi tiếng chết tiệt gì đấy đâu! Cháu vẫn còn trẻ mà!” Lương Viện không những không vui vẻ trước lời pha trò của Makarov, ngược lại còn rơi vài giọt nước mắt khiến Đường Phong lại càng thêm xót xa.

“Được rồi, nhanh chóng tìm lối thoát thôi!” Hàn Giang luôn giữ được đầu óc tỉnh táo. Thế nhưng mọi người đi một vòng trong đại sảnh vàng cam, trừ đường hầm lúc tới đây ra, thì cũng không tìm thấy một thông đạo nào khác. Lẽ nào ở đây chính là điểm tận cùng của huyệt động?

8

Mọi người đều bắt đầu trở nên lo lắng, không tìm thấy lối ra thì làm thế nào? Chắc chắn là không thể theo đường cũ về chứ nhỉ? “Không! Không thể không có lối ra, nhất định vẫn còn có lối ra.” Hàn Giang suy đoán.

Trong lúc nước sôi lửa bỏng, Đường Phong đột nhiên hét lên từ trong một góc đại sảnh vàng cam: “Ở đây có cái cửa hang!” Mọi người chạy tới, cùng nhau quan sát, hóa ra là một cửa hang hình tròn hướng xuống dưới, chuẩn xác mà nói, đây nên gọi là giếng mới đúng!

“Giờ không có công cụ thì làm thế nào để xuống?” Hàn Giang nhìn vào miệng giếng tối đen, sâu không thấy đáy hỏi.

Mọi người nhìn nhau, chẳng ai có cách gì. Đột nhiên, Đường Phong hình như lại phát hiện ra điều gì đó, cúi người xuống, dùng đèn pin soi một vòng từ đầu tới chân lần theo cửa hang, Hàn Giang có chút mất kiên nhẫn nói: “Đừng soi nữa, căn bản không thể nhìn thấy đáy được!”

Đường Phong đáp: “Không phải tôi muốn nhìn tận đáy, mà là đang tìm dây thừng.”

“Cậu điên à, ở đây lấy đâu ra dây thừng?”

“Mọi người xem, đây là cái gì?” Mọi người cúi người tỉ mẩn quan sát, khi đèn pin của Đường Phong soi xuống dưới, mọi người nhìn thấy trong một góc giếng, hóa ra có treo một sợi dây ni lông. Sợi dây này thả thẳng xuống giếng. Lần theo sợi dây, mọi người phát hiện ra trên vách đá cách giếng thẳng hai mét, có hai chiếc đinh to được người ta đóng chặt vào đó, xung quanh đinh sắt còn có một cuộn dây ni lông.

“Sao ở đây lại có sợi dây? Lẽ nào trước khi chúng ta đến đây đã có người từng tới đây?” Vẻ mặt Hàn Giang vô cùng kinh ngạc.

“Có lẽ là như vậy! Xem ra chúng ta không phải là nhóm người đầu tiên tiến vào hang đá vôi này rồi.” Makarov thất vọng nói.

“Không! Không thể có điều đó, nếu như có người từng tới đây thì tại sao thế giới bên ngoài không biết tới sự tồn tại của huyệt động này?” Hàn Giang vẫn không chịu tin vào sự thật này.

Trên mặt Makarov lộ ra nét biểu cảm kỳ lạ, ông nói: “Đó chỉ là một khả năng.”

“Cái gì?”

“Trước chúng ta, tất cả những người vào thám hiểm động, không có một ai còn sống để ra ngoài!” Makarov đưa ra kết luận khiến mọi người sởn da gà - tất cả những người vào trong động đều chết rồi! Mọi người không chịu tin vào kết luận đó, nhưng lại không có bất cứ lí do nào để có thể phản bác lại.

Đường Phong cầm cuộn dây ni lông cạnh thành giếng lên, xem xét: “Phần dây để lại bên trên cũng rất dài, không biết bên dưới còn dài đến đâu?” Vừa nói, Đường Phong vừa kéo lên trên. Thời gian trôi qua từng giây từng phút, sợi dây ni lông trên tay Đường Phong càng kéo càng dài, mắt mọi người càng trợn càng to, bởi vì... bởi vì sợi dây ni lông trông rất bình thường này, hóa ra kéo mãi không hết, không tính cả cuộn dây vốn ở trên giếng, chỉ tính riêng dây ni lông kéo được lên trên giếng đã dài gần năm mươi mét rồi. Tay của Đường Phong bắt đầu khẽ run rẩy, sợi dây dài miên man này rốt cuộc dài đến đâu đây? Cái giếng này rốt cuộc sâu bao nhiêu mét? Cuối cùng, khi Đường Phong nhấc đoạn ni lông cuối lên, mọi người lúc đó đều ngạc nhiên ngây cả người ra vì đoạn dây ni lông cuối cùng này hóa ra lại bị cắt phăng ngọt lịm…

Đây là thứ gì mà lại cắt phăng dây ni lông ngọt lịm như vậy? Mọi người kinh ngạc nhìn chăm chú sợi dây và miệng giếng trước mắt. Hàn Giang cẩn thận quan sát hồi lâu, suy đoán: “Từ hình dáng, chất liệu và tính chất của sợi dây này có thể thấy rằng nó đã có từ nhiều năm trước rồi, tuyệt đối không phải là thứ của một hai chục năm nay.”

“Ừm, tôi thấy lịch sử của cuộn dây này ít nhất phải trên bốn mươi năm, thậm chí còn nhiều hơn.” Makarov đồng ý với phán đoán của Hàn Giang.

Hàn Giang lại nói: “Từ độ dài của sợi dây treo trong giếng mà phán đoán thì cái giếng này ít nhất cũng phải sâu tới năm mươi mét; dây đứt rồi, cho thấy độ sâu của giếng không chỉ dừng lại ở năm mươi mét.”

“Đúng vậy, cái giếng này rút cuộc sâu bao nhiêu mét đây?” Đường Phong hỏi.

“Muốn biết sâu bao nhiêu, thì phải xuống xem sao!” Hàn Giang nói như đinh đóng cột.

“Cái gì? Anh muốn xuống dưới!” Mặt Đường Phong toát lên vẻ kinh ngạc.

Hàn Giang giẫm giẫm lên sợi dây, gật gật đầu, nói với mọi người: “Tuy sợi dây này nhiều năm tuổi rồi, nhưng vẫn rất chắc chắn. Hiện tại tôi nghĩ không còn có đường thoát nào khác, chỉ có cách xuống thăm dò thì may ra còn có cơ hội thay đổi thời cơ. Ngoài ra, mọi người có cảm nhận được luồng không khí không? Chúng ta có thể đi được tới nơi sâu như thế này mà, không khí vẫn rất tốt, luồng không khí sộc lên từ giếng. Điều này chứng minh dưới giếng thẳng chắc là có không gian rất rộng lớn. Hiện giờ tôi quả thật không dám tưởng tượng, không gian trong động đá vôi này rút cuộc rộng lớn nhường nào!”

Hàn Giang kiểm tra một chút hai chiếc đinh sắt lớn, đinh sắt được ghim kiên cố vào trong vách đá, vô cùng chắc chắn. Hàn Giang nhìn mọi người, cười nói: “Đừng có mặt mày ủ rũ như thế, chúng ta hiện giờ không phải vẫn đang rất ổn sao? Tôi xuống trước! May mà trước đây tôi đã học qua khóa leo dây. Mọi người tóm lấy một ít dây, nếu tôi gặp phải nguy hiểm gì, hoặc là muốn mọi người kéo sợi dây lên thì sẽ ra sức đạp sợi dây.”

Mọi người nhìn nhau, không ai nói gì cả, cùng lúc gật gật đầu với Hàn Giang. Hàn Giang buộc một đầu sợi dây vào thắt lưng mình, chui vào giếng... Chẳng mấy chốc, bóng dáng Hàn Giang đã mất hút trong giếng…

9

Tuy có đinh sắt cố định, nhưng mọi người vẫn căng thẳng tóm lấy sợi dây. Một phút sau, ba phút sau, năm phút sau, mười phút sau, mười lăm phút sau… theo thời gian từng giây từng phút trôi đi, tim mọi người đập mỗi lúc một nhanh, lòng bàn tay cũng ướt đẫm mồ hôi. Sợi dây trong tay mọi người tuột xuống từng chút, từng chút một. Năm mét, mười mét, hai mươi mét, ba mươi mét, bốn mươi mét, mọi thứ dường như vẫn bình thường… Đột nhiên, sợi dây trong tay mọi người giống như không thể điều khiển nổi, rơi vun vút xuống dưới giếng, tiếng động đáng sợ vọng lên từ dưới giếng, năm mươi mét, sáu mươi mét… mọi người bừng tỉnh, dốc hết sức kéo sợi dây lên, nhưng sợi dây vẫn vun vút tuột xuống. Đường Phong cảm thấy lòng bàn tay mình như bị sợi dây cọ rách, nhưng anh vẫn không thể khống chế được sợi dây, dưới giếng thẳng hình như có một sức mạnh khủng khiếp không thể gọi tên, đó là gì nhỉ? Quái vật hung mãnh? Hay là… Hai tay Makarov kéo sợi dây, một chân đạp lên vách đá, trán đổ mồ hôi, ông không kịp nghĩ ngợi nhiều nữa, hướng xuống miệng giếng dưới chân hét toáng lên: “Hàn! Hàn! Xảy ra chuyện gì vậy?”

Trong giếng chỉ có âm thanh vọng lại kéo dài, không có tiếng Hàn Giang đáp lại, đến cả tiếng động đáng sợ cũng không nghe thấy nữa. Cuối cùng, sợi dây dừng lại không tiếp tục tuột xuống nữa, ba người phía trên giếng thẳng mệt mỏi rã rời ngồi bệt bên cạnh giếng, nhưng họ không kịp nghỉ ngơi, lập tức lại lao tới bên miệng giếng, kêu gọi Hàn Giang. Không có hồi âm, Đường Phong vội vàng kéo sợi dây lên, nhưng khi tay vừa chạm vào sợi dây thì anh đã lập tức kinh ngạc kêu lên: “Không ổn!”

“Sao thế?” Lương Viện và Makarov quan tâm hỏi.

Đường Phong không trả lời, chỉ lo lôi sợi dây lên. Mấy phút sau, Đường Phong kéo được đoạn dây cuối cùng lên, Hàn Giang đã biến mất rồi! Ba người mắt tròn mắt dẹt, không biết phải làm thế nào, sự khủng hoảng đầy ắp trong mắt mỗi người. Trong bầu không khí lặng lẽ đó, Lương Viện đã bật khóc thành tiếng: “Dưới đó rút cuộc có thứ gì đáng sợ vậy?”

“Lương Viện, đừng có khóc! Tôi chưa chết! Ha ha! Dưới này quả thật là quá đẹp!” Đột nhiên, một giọng nói vang vọng từ trong giếng thẳng vọng lên. Lương Viện lập tức ngừng khóc bởi cô đã nhận ra giọng nói đó, chính là Hàn Giang!

“Anh sao rồi?” Lương Viện hướng về giếng thẳng lớn tiếng hỏi.

“Bị trầy xước chút thôi, không sao cả, có thể nhìn thấy cảnh đẹp như thế này thì chết cũng đáng đấy!” giọng Hàn Giang oang oang vang vọng trong giếng.

“Anh còn ung dung vậy sao, ban nãy rút cuộc sao thế? Làm chúng tôi sợ chết khiếp!” Đường Phong hỏi.

“Khà khà, đừng hỏi nữa, tôi không thể diễn đạt bằng lời được, mọi người xuống đây sẽ biết, Lương Viện, cô xuống trước đi, sau đó đến Đường Phong, cuối cùng thì tủi cho Lão Mã rồi, đoạn cuối cùng trong giếng thẳng là một con dốc, có rất nhiều đá vụn, mọi người phải cẩn thận, ban nãy tôi đã bị ngã ở đấy, khà khà, dưới này quả thật quá hùng vĩ!” dưới giếng vọng lên tiếng cười ngốc nghếch của Hàn Giang.

“Tôi nghĩ anh ta bị ngã đập đầu xuống đất rồi cũng nên, tôi chưa bao giờ thấy anh ta như vậy.” Đường Phong lẩm bẩm.

“Có lẽ dưới đó thật sự rất đẹp!” Lương Viện nói.

“Cảnh có đẹp đến thế nào đi chăng nữa thì hiện tại cũng không thể khiến tôi hứng thú được…” Đường Phong nói tới đây, phía dưới lại vọng lên tiếng Hàn Giang: “Quên không nhắc nhở mọi người, trong giếng thẳng có hai thứ rất đáng sợ, mọi người phải chuẩn bị tâm lý trước đấy.”

Thứ đáng sợ? Đường Phong, Lương Viện và Makarov nhìn nhau, không hiểu Hàn Giang ý gì, hỏi lại Hàn Giang nhưng bên dưới không thấy tiếng trả lời.

Đường Phong giúp Lương Viện buộc chặt sợi dây, từ từ thả Lương Viện xuống dưới, lúc mới bắt đầu mọi việc đều hết sức bình thường, nhưng khi sợi dây thả xuống dưới được khoảng năm mươi mét, trong giếng thẳng âm u đột nhiên vang lên tiếng kêu thất thanh của Lương Viện, lòng Đường Phong ngay lập tức thắt lại.

Tiếng kêu thét xé rách tâm can của Lương Viện khiến lông tơ trên người Đường Phong cũng dựng hết cả lên. Anh hướng về phía giếng thẳng lớn tiếng kêu gọi Lương Viện, nhưng chỉ thấy tiếng khóc thút thít của cô ấy vọng lên, xem ra Lương Viện vẫn chưa bị nguy hiểm tới tính mạng. Sợi dây tiếp tục thả xuống dưới, nhưng chưa được bao lâu, trong giếng thẳng lại vọng lên tiếng thét thất thanh của Lương Viện. Đường Phong không thể chịu đựng được nữa, đang định kéo sợi dây lên thì bên dưới lại vọng lên tiếng của Hàn Giang: “Đường Phong, đừng kéo dây lên, Lương Viện đã an toàn rồi.”

Rút cuộc Lương Viện đã gặp phải thứ gì dưới giếng thẳng mà khiến cô ấy khiếp sợ đến vậy? Đường Phong mang theo một bụng nghi ngờ nên đã buộc đèn pin lên cánh tay rồi xuống giếng. Đường Phong đã từng học được chút ít kỹ thuật leo vách đá và leo dây khi ở trong lão K, nên chẳng mấy chốc, anh đã xuống được hơn ba mươi mét. Trong giếng thẳng dường như mọi thứ đều vẫn bình thường, nhưng Đường Phong vẫn không dám lơ là cảnh giác. Xuống được khoảng bốn mươi mét, chân Đường Phong chạm tới vách động, ở đây không giống như trạng thái treo lơ lửng ban nãy nữa, chỗ này trong giếng thẳng đã xuất hiện một con dốc, chân Đường Phong đã có thể giẫm lên con dốc nham thạch mà từ từ tụt xuống. Nhưng, ở đây không vì xuất hiện con dốc mà trở nên dễ đi hơn, con dốc phủ đầy đá vụn, vách đá bên cạnh lởm chởm những hình thù quái dị, nham thạch giống như bất cứ lúc nào cũng có thể sụt xuống làm Đường Phong giật thót tim, ban nãy chính ở chỗ này Lương Viện… Đột nhiên, Đường Phong trượt chân, đứng không vững, xém chút nữa là trượt ngã, may mà sợi dây buộc trên người đã treo anh lơ lửng trên không trung. Người Đường Phong đung đưa qua lại trên không, anh nhắm chuẩn một chỗ, ra sức khom lưng, đạp mạnh một cái, hai chân lại đứng trên con dốc; nhưng Đường Phong vừa mới đứng vững thì bỗng phát hiện ra trên vách đá trước mặt, có một bộ xương trông vô cùng hung tợn. Dưới ánh sáng của đèn pin soi rọi, bộ xương ánh lên chút ánh sáng âm u lấp loáng, thật là khủng khiếp.

Trong giếng thẳng tối om này, gặp phải một bộ xương đáng sợ như vậy nên cảm giác nghẹt thở bao trùm lấy Đường Phong. Anh muốn hét lên, nhưng hét không thành tiếng. Anh thở hổn hển, điều chỉnh trạng thái của bản thân, mãi một lúc sau, anh mới bình tĩnh trở lại. Giờ thì anh đã hiểu tại sao Lương Viện lại hét lên thất thanh như vậy, và cũng đã hiểu ra thứ đáng sợ mà Hàn Giang nói là cái gì, chính là bộ xương này! Nhưng, Hàn Giang nói có hai thứ đáng sợ, nói như vậy, thì đằng sau vẫn còn một bộ xương nữa sao?

10

Quả nhiên, khi Đường Phong xuống tới khoảng sáu mươi mét, ở đây lại đột nhiên xuất hiện một bộ xương khác, chỉ có điều bộ xương này không còn hoàn chỉnh mà đã rơi vãi trên đất. Lần này thì Đường Phong đã bình tĩnh hơn, anh lại tiếp tục tụt xuống hơn chục mét nữa thì tới điểm cuối cùng của con dốc. Tại đây, anh đã nhìn thấy Hàn Giang và Lương Viện, và cũng nhìn thấy một cảnh tượng không thể tưởng tượng nổi trong cả cuộc đời mình. Đây là một đại sảnh màu trắng, giống như thế giới cổ tích toàn một màu trắng vậy, cao bằng khoảng hơn chục tầng lầu. Không gian đại sảnh của động đá vôi to đủ bằng hai sân bóng đá, trên vách đá, thậm chí là trên nền đất, khắp nơi đều mọc lên những ụ thạch cao màu trắng đủ mọi hình dáng kỳ dị, óng ánh bắt mắt, cả hang động đá vôi như được khoác lên tấm áo trắng. Trên đỉnh đại sảnh, hàng chục chiếc trụ cột thạch cao co lớn màu trắng trong suốt, giống như những chùm đèn khổng lồ rọi sáng toàn đại sảnh. Đường Phong bất giác kinh ngạc thẫn thờ, anh ngẩng đầu lên, nhìn ngắm thế giới ngầm không thể tưởng tượng này, miệng lẩm bẩm: “Quả thật quá đẹp!” Sau đó cười ngốc nghếch, anh cũng giống Hàn Giang “ngã đập đầu xuống đất”.

Chẳng bao lâu sau, Makarov cũng đã xuống tới nơi. Sau khi nhìn ngắm sơ qua cảnh đẹp, Makarov lấy ra một khẩu súng ngắn hoen rỉ loang lổ, nói với mọi người: “Ban nãy tôi mới nhặt được nó bên cạnh bộ xương thứ hai trong giếng đấy. Súng ngắn Walther PPK nòng 7,65 ly do Đức chế tạo năm 1935, nhưng đã han rỉ hỏng rồi, chắc là không dùng được nữa.”

Hàn Giang đón lấy khẩu súng, xem xét: “Han rỉ tới mức này, chắc cũng có nhiều năm nay rồi. Xem ra chủ nhân của khẩu súng này chính là bộ xương ban nãy trong giếng. Liên hệ với những gì chúng ta dự đoán trước đó, hiện giờ căn bản có thể đoán định, trước chúng ta, dĩ nhiên không phải là rất gần đây, phải tầm khoảng mấy chục năm trước, đã từng có một nhóm người đi vào trong huyệt động này.”

“Sao đám người đó lại vào trong huyệt động xa xôi này nhỉ? Lẽ nào chỉ là đến khảo sát?” Đường Phong hỏi.

“Tôi nghĩ không đơn giản như vậy, nếu như chỉ là thám hiểm khoa học thông thường thì sao phải mang theo súng? Phải hiểu rằng, súng ngắn Walther PPK nòng 7,65 ly năm đó là hàng hiếm, tại Trung Quốc tôi nghĩ để có được nó không hề đơn giản.” Makarov đưa ra phán đoán của mình từ những gì trên khẩu súng.

Hàn Giang gật đầu: “Đám người đó chắc chắn không đơn giản, mục đích bọn họ tới đây rất đáng để nghi ngờ.”

Đường Phong đột nhiên nghĩ ra điều gì đó, kinh ngạc nói: “Ở đây có khi nào là Hắc Đầu...”

“Chúng ta tìm kiếm xem bọn họ còn để lại thứ gì ở đây không.” Hàn Giang quyết đoán ngắt lời Đường Phong, sau đó hậm hực trợn mắt nhìn Đường Phong một cái, đó là bí mật của họ, không thể để Makarov biết được.

Mọi người đi một vòng trong đại sảnh màu trắng, phát hiện thêm hai chiếc thùng và một đống củi gỗ. Mở thùng ra, bên trong hóa ra là một thùng đầy ắp nến, còn một thùng nữa làm bằng da được chế tạo để đi khảo cứu, khóa đã han rỉ chết cứng, mở ra xem, bên trong ngoài mấy viên đạn đã rỉ vàng thì cũng chẳng còn gì cả.

Đường Phong nghi ngờ nhìn chiếc thùng da này: “Trong chiếc thùng này, trước đấy chắc chắn là để đồ, thậm chí còn là đồ rất quan trọng, nếu không thì cũng chẳng cần phải tốn nhiều công sức đem nó tới huyệt động tận sâu trong lòng đất thế này.”

Makarov so sánh mấy viên đạn rỉ vàng trong thùng da, nói: “Mấy viên đạn này là đạn của khẩu súng ngắn Walther PPK nòng 7,65 ly.”

“Nếu như vậy thì chủ nhân của chiếc thùng này cũng chính là chủ nhân của khẩu súng ngắn, cũng chính là bộ xương trong giếng thẳng đó?” Đường Phong nói.

Hàn Giang khẳng định: “Chắc là như vậy; tạm thời bỏ mặc những thứ này đi, tiền nhân đã chuẩn bị cho chúng ta nến và gỗ thế này rồi, chúng ta nên ở đây nghỉ ngơi chút đã, rồi hong khô quần áo ướt trên người. Tôi nghĩ, ở đây chắc là an toàn.”

Trong đại sảnh màu trắng, gió lưu thông rất tốt, đốt nến không thành vấn đề, chỉ có điều đống củi đó, để lâu năm trong hang động âm u ẩm ướt nên phần lớn đã bị mục nát không dùng được nữa, nhưng còn một ít vẫn có thể nhóm lửa. Vậy là, Hàn Giang nhóm một đống lửa lên, đem lại chút ấm áp cho mọi người.

11

Mọi người để Lương Viện hong khô quần áo trước tiên, mấy người còn lại lui ra chỗ khác. Makarov vẻ ngoài tưởng như bị cảnh đẹp trong đại sảnh màu trắng hớp mất hồn, nhưng thật ra ông vẫn luôn lo lắng cho Yelena; còn Hàn Giang thì kéo Đường Phong sang một bên, nhìn bề ngoài hai người có vẻ như cũng đang thưởng thức cảnh đẹp trong động, nhưng khi đến chỗ khuất, Hàn Giang lập tức khẽ hỏi: “Kệ tranh ngọc vẫn ổn chứ?”

Đường Phong quay đầu lại liếc Lương Viện đang bán khỏa thân bên đống lửa một cái, ba lô của anh đang ở chỗ Lương Viện, khẽ đáp: “Anh yên tâm, không vấn đề gì cả, ban nãy tôi kiểm tra qua rồi, kệ tranh ngọc lành lặn như lúc ban đầu.”

Hàn Giang yên tâm hơn một chút, anh lại nhớ tới câu nói ban nãy của Đường Phong, bèn hỏi: “Ban nãy cậu nghi ngờ hang động đá vôi này chính là Hắc Đầu Thạch Thất mà chúng ta cần tìm kiếm?”

Đường Phong khẽ gật đầu, đáp: “Rất có khả năng như vậy. Trên cao nguyên tây bắc Tứ Xuyên, hang động đá vôi karst vốn rất hiếm gặp, huống hồ đây còn là hang động đá vôi karst hùng vĩ huy hoàng như thế này? Bởi vậy, tôi suy đoán, hơn một nghìn năm trước, bộ lạc Đảng Hạng Khương sinh sống ở đây, rất có thể đã phát hiện ra hang động đá vôi này, và đã từng sinh sống trong huyệt động này. Giống như dân tộc du mục Tiên Ti nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc vậy, khởi nguồn tại động Ca Tiên vùng rừng rậm thăm thẳm Đại Hưng An Lĩnh phía đông bắc Trung Quốc, người Tiên Ti sau này di chuyển xuống trung nguyên phía nam, kiến lập nên vương triều Bắc Ngụy. Thế nhưng, người Tiên Ti không bao giờ quên được động Ca Tiên - nơi khởi nguồn của dân tộc họ, nên họ đã nhiều lần phái người trở về tế lễ. Nếu như những suy đoán vừa rồi của tôi là sự thật, thì ở đây quả thực là Hắc Đầu Thạch Thất mà chúng ta tìm kiếm. Đó chính là sau khi vương triều Tây Hạ bị diệt vong, rất có khả năng một nhánh người Đảng Hạng đã mang theo một tấm kệ tranh ngọc trở lại Hắc Đầu Thạch Thất, nơi khởi nguồn của dân tộc họ, cũng chính là huyệt động này.”

“Nếu như vậy thì kệ tranh ngọc thứ hai chính là ở đây?”

“Rất có khả năng này.”

Hàn Giang nghe xong suy đoán của Đường Phong, trầm tư hồi lâu, rút cuộc, vẫn lắc lắc đầu: “Đường Phong, bây giờ kết luận như vậy vẫn còn sớm lắm, chúng ta vẫn chưa phát hiện ra bất cứ vết tích sinh hoạt nào của nhân loại cổ đại ở đây cả.”

“Đúng vậy! Thế nên ban nãy tôi đã bảo tất cả những gì tôi nói đều chỉ là suy đoán của cá nhân tôi, quan trọng là vẫn cần phải tìm thấy những chứng cứ liên quan thì mới có thể chứng minh đây chính là Hắc Đầu Thạch Thất.”

“Ừm, ra ngoài trước đã rồi nói sau.” Hàn Giang ngập ngừng một lúc, lại hỏi Đường Phong: “Cậu nhìn nhận thế nào về sợi dây, súng, nến và thùng da đó, còn cả đám người đã từng tới đây nữa?”

“Tôi không biết trước đây ở đây đã từng xảy ra chuyện gì, nhưng từ những vật phẩm này mà phán đoán thì đám người từng tiến vào hang động này lai lịch không tầm thường, chắc chắn không phải là sơn dân bản địa. Từ niên đại cho thấy, phần lớn là trước giải phóng, không thể là sau giải phóng, bởi nếu là sau giải phóng, thì chính phủ hoặc đơn vị nghiên cứu khoa học, tổ chức thám hiểm khoa học nhất định đã để lại hồ sơ ghi chép rõ ràng. Còn về mục đích để nhóm người này đến đây, có khả năng là vì thám hiểm kỳ quan, cũng có khả năng là thám hiểm khoa học bí mật, nhưng tôi luôn cảm thấy, mục đích của đám người này không hề đơn giản, rất có khả năng mục đích của họ cũng chính là Hắc Đầu Thạch Thất.”

“Phán đoán của cậu hoàn toàn giống như của tôi. Đám người đó gặp nạn ở đây, nhưng đã gặp phải điều gì nhỉ? Bắn giết? Hồng thủy ngầm? Hay là bị dã thú tấn công?”

“Dã thú tấn công? Sao mà như vậy được? Trong động đá vôi karst rộng lớn thế này, không thể có sinh vật to lớn sống ở đây được.”

“Tôi hiểu cái lý lẽ đó, nhưng lòng dạ tôi lại run rẩy bất an.” Hàn Giang nói tới đây thì thấy Makarov đang tiến về phía họ. Anh lại khẽ nói với Đường Phong: “Được rồi, nói vậy thôi đã, cậu nhớ rõ, không được sự cho phép của tôi, tất cả những gì chúng ta vừa nói đều không được nói cho ai khác.”

Đường Phong hiểu, đấy là nhằm vào Makarov và Yelena (giả dụ có thể gặp lại Yelena), nhưng anh vẫn hỏi lại một câu: “Cũng không được nói với Lương Viện sao?”

Hàn Giang im lặng hồi lâu, đáp lại: “Đúng, tạm thời cũng không cần nói với cô ấy.”

“Hàn! Tôi không thể không nói, chuyến này đến đây quả không hề uổng công, ở đây quả thật quá đẹp!” Makarov bước đến, trầm trồ nói.

Ba người lại bàn bạc về đường thoát ra ngoài bước tiếp theo, rồi quay lại bên đống lửa. Lúc này, Lương Viện đã hong khô quần áo.

12

Đường Phong, Hàn Giang và Makarov vừa hong quần áo vừa sắp xếp lại những trang thiết bị mang bên mình. Súng đạn đã xong xuôi, GPS không nhận được tín hiệu, la bàn không chuẩn xác nữa, toàn bộ điện thoại đã bị hỏng do ngâm nước, một ít thực phẩm để bên trong cũng bị ngâm nước không ra hình thù, nhưng mọi người vì phải nhét chút gì vào bụng nên vẫn miễn cưỡng nuốt trôi những thứ khó nuốt này.

Cuối cùng, Hàn Giang thất vọng khi phát hiện ra, chiếc đồng hồ quân dụng chống nước chống rung của mình hóa ra cũng không chạy nữa. Khỏi phải nói, đồng hồ của những người khác chắc chắn cũng hỏng hết rồi, đi mất bao nhiêu thời gian trong hang động như vậy, mà không biết bên ngoài giờ đã là lúc nào? Cần phải đi bao lâu nữa mới có thể lại nhìn thấy ánh sáng?

Cả đêm không ngủ, lại cả một đoạn đường bị người xấu truy sát, quả thật là quá mệt mỏi, nên chẳng bao lâu sau, Hàn Giang, Đường Phong, Lương Viện và Makarov đã ngủ thiếp đi quanh đống lửa.

Không biết bao lâu sau, Đường Phong bỗng giật mình một cái, anh bị loạt âm thanh kỳ dị làm tỉnh giấc. Anh ngồi dậy nhìn xung quanh, một vùng tối đen, nến tắt rồi, đống lửa cũng đã tàn. Anh bất giác giật mình, thật là không nên chút nào, trong hoàn cảnh nguy hiểm thế này thì sao lại ngủ say như vậy? Anh sờ lên người, súng vẫn còn, rồi lại mò lấy hai cây nến châm lên, nhìn thấy Makarov, Lương Viện vẫn đang ngủ say, còn Hàn Giang thì bị tiếng động của anh làm tỉnh giấc. Đường Phong hỏi Hàn Giang: “Anh có nghe thấy tiếng gì không?”

Hàn Giang dỏng tai nghe ngóng: “Chẳng có tiếng gì cả!”

Đường Phong đứng dậy, đi một vòng trong đại sảnh màu trắng, âm thanh kỳ dị lúc nãy giờ đã không nghe thấy nữa. Trong đại sảnh yên tĩnh tới nỗi chỉ nghe thấy tiếng tim mình đang đập, lẽ nào ban nãy là do tai mình xuất hiện ảo thính? Đường Phong lắc lắc đầu, quay trở lại bên cạnh ngọn nến, gọi Makarov và Lương Viện dậy. Bốn người thương lượng, vẫn là nên đi, chỉ có đi ra ngoài, đến nơi an toàn mới có thể yên tâm nghỉ ngơi.

Bốn người thu dọn hành lý, vứt bỏ những thứ không cần thiết đi, mang theo nến trong đại sảnh và cả khẩu súng ngắn rỉ sét. Hàn Giang cố ý cắt đi đoạn dây thả xuống giếng còn thừa ra, cất vào trong ba lô đề phòng những lúc cần dùng tới. Sắp xếp xong đồ đạc, bốn người lại lên đường, nhưng họ lập tức gặp phải một vấn đề mới. Trong đại sảnh màu trắng trừ cái giếng đó ra, còn có hai lối ra, một to một nhỏ, thực ra là hai đường hầm tối đen một lớn một nhỏ, rút cuộc nên đi vào đường hầm nào đây? Bốn người đau đầu chán nản.

Đường Phong chỉ vào đường hầm to: “Đi đường to đi, nếu như không thông thì quay lại.”

Hàn Giang gật đầu: “Nhưng, bắt đầu từ đây thì chúng ta phải đánh dấu cái đã.”

“Đánh dấu! Lấy cái gì đánh dấu?”

“Đánh dấu phải nổi bật bắt mắt.” Hàn Giang đột nhiên quay về phía Lương Viện: “Lương Viện, cô có mang theo son môi không?”

Lương Viện lập tức lôi từ trong chiếc túi nhỏ của mình ra một thỏi son, đưa cho Hàn Giang. Đường Phong nhìn túi mỹ phẩm nhỏ của Lương Viện, bó tay lắc đầu, Hàn Giang thì cười nói: “Tôi biết ngay mà, con gái các cô, bất kể đi đâu đều mang theo đồ trang điểm.”

Bốn người chui vào đường hầm to, tuy trên đỉnh hầm chi chít những nhũ đá đủ hình đủ dạng nhưng đường đi dưới chân lại rất bằng phẳng, hơn nữa đường càng đi lại càng rộng nên khiến mọi người như thấy được tia hy vọng mới. Đi mãi, đi mãi, Đường Phong đang dẫn đầu đột nhiên dừng lại, bởi vì... bởi vì anh lại nghe thấy âm thanh kỳ dị ban nãy. Lần này, anh có thể khẳng định, chắc chắn không phải là ảo thính của mình.
 

hoahongden12

Active Member

1

Bốn người đều dừng lại. Đường Phong mở to mắt, tim bắt đầu đập thình thịch, nhìn về phía đường hầm tối đen trước mặt. Đây là âm thanh gì? Anh không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả âm thanh nghe thấy lúc này, vì âm thanh quái dị, âm thanh khủng khiếp, âm thanh đó càng lúc càng to, hình như đang lao về phía họ!

“Nó là cái gì vậy nhỉ?” Đường Phong rút cuộc thốt ra một câu.

“Mặc kệ nó là cái gì, thì cũng chuẩn bị chiến đấu đi! Lương Viện, cô lùi lại phía sau!” Nói xong, Hàn Giang rút ngay khẩu súng ngắn 92 ra, hai tay giữ súng, xông lên phía trước, nhưng trong đầu anh lại rối tung cả lên, anh nghĩ tới hai bộ xương trong đại sảnh màu trắng, từng khuôn mặt khủng khiếp đang ẩn hiện trước mặt anh, xương trắng? Hồng thủy? Dã thú?...

Lương Viện lùi lại phía sau, Đường Phong ở giữa, Hàn Giang bên phải, Makarov bên trái, ba khẩu súng, duy trì thế trận. Âm thanh đó cận kề rồi, càng lúc càng vang, rung chuyển, lao vào tấn công màng nhĩ. Bốn người cảm thấy màng nhĩ như sắp rách toạc ra. Lương Viện đau đớn bịt tai lại, còn Đường Phong, Hàn Giang và Makarov thì cố kìm nén cơn đau, sẵn sàng chuẩn bị bắn chết kẻ thù bất cứ lúc nào. Thế nhưng khi thứ đó thật sự xuất hiện trước mặt họ, thì cánh tay ba người bắt đầu run lên lẩy bẩy, vì thứ đáng sợ đó đen thui thui, đen kìn kịt, hình như lấp đầy cả nửa đường hầm, vừa kêu vừa lao vun vút về phía trước, ào tới trước mặt. Hàn Giang vẫn là người đầu tiên kịp thời phản ứng lại: “Dơi! Chạy mau!”

Đúng vậy, đó là hàng nghìn hàng vạn con dơi, mênh mông cuồn cuộn, không có bất cứ thứ gì có thể chặn đường của chúng trong đường hầm âm u hun hút này. “Pằng! Pằng!” trong lúc hoảng loạn, Đường Phong lao lên phía trước bắn hai phát, nhưng đối với hàng vạn con dơi này thì hai phát đạn quả thật chẳng thấm vào đâu. Đại quân dơi vẫn theo hàng theo lối, tức tốc lao vù vù về phía trước. Hàn Giang, Makarov không chống lại nữa mà vội quay đầu bỏ chạy, làm ý chí của Đường Phong lúc này cũng sụp đổ theo, anh kéo Lương Viện đang ngây ra chạy thục mạng. Vài con dơi bay qua đỉnh đầu họ, Đường Phong quay đầu lại nhìn, đại đội dơi đã áp sát, anh đã có thể nhìn thấy rõ những chiếc răng nanh nhọn hoắt lộ ra ngoài miệng những con dơi hung tợn này.

Đường Phong kéo Lương Viện chạy thục mạng. Anh hiểu rằng, nếu như bị đại đội dơi đuổi kịp, hai người họ sẽ giống như những người trong giếng, trở thành một đống xương trắng. Rút cuộc, đúng giây phút Đường Phong và Lương Viện sắp nổ tung thì họ đã nhìn thấy đại sảnh màu trắng tuyệt đẹp. Họ chạy vào trong đó, rẽ thật nhanh, trốn vào trong đường hầm nhỏ hơn bên cạnh.

Đường Phong và Lương Viện nằm bò ra đất, thở hổn hển, mãi một lúc sau, hai người mới hồi sức lại. “Xem ra muốn nhìn thấy cảnh đẹp, thì cũng phải mạo hiểm đấy.” Đường Phong than thở.

“Đúng vậy! Có lúc thậm chí còn phải trả giá bằng cả mạng sống nữa!”

“Giờ thì tôi đã biết hai bộ xương đó bị chết thế nào rồi!”

“Á! Ý anh là họ bị dơi tấn công?”

“Nhiều khả năng là như vậy, họ bị đàn dơi tấn công rồi ngã xuống giếng mà chết, cũng có khả năng trực tiếp bị dơi tấn công đến chết.”

“Thật là quá đáng sợ! May mà ban nãy lúc chúng ta nghỉ ngơi, đàn dơi không xuất hiện, nếu không thì chúng ta thật sự…” nói tới đây, Lương Viện tê hết cả da đầu.

“Nghĩ tới mà vẫn phát sợ!” Đường Phong thật sự không thể tưởng tượng nổi, nếu như hàng vạn con dơi này xông vào đại sảnh màu trắng lúc họ đang ngủ say thì cảnh tượng sẽ thế nào đây.

Trong bóng tối, Lương Viện mở to mắt, nhìn xung quanh, hỏi Đường Phong: “Chúng ta đang ở đâu vậy?”

“Nếu như tôi không nhầm thì hiện giờ chúng ta đang ở trong đường hầm nhỏ hơn.”

“Vậy thì chúng ta vẫn rất nguy hiểm, chúng ta phải nhanh chóng rời khỏi đây thôi.”

“Đúng vậy, hội Hàn Giang không biết chạy đi đâu rồi nhỉ?” Đường Phong nhìn xung quanh, một vùng tối đen, mò mẫm, đèn pin của anh không thấy đâu nữa, thảo nào không có lấy một tia ánh sáng. Lúc này anh mới hồi tưởng lại, ban nãy trong lúc chạy thục mạng, đèn pin của anh chắc là bị rơi trong đường hầm rồi. Lương Viện nghe thấy hung tin này, bật khóc thành tiếng, Đường Phong cũng trở nên tuyệt vọng. Trong huyệt đạo dưới lòng đất phức tạp, rộng lớn mà mất đi ánh sáng thì cũng đồng nghĩa với chết chóc.

2

Đường Phong lau lau nước mắt Lương Viện, an ủi nói: “Đừng khóc nữa, chúng ta vẫn còn hy vọng, chỉ cần tìm thấy hội Hàn Giang, chúng ta sẽ có hy vọng.”

“Nhưng họ chạy đi đâu rồi nhỉ?”

“Tôi nghĩ chắc là họ cũng chạy vào đường hầm này, ngoài chỗ này ra, không còn lối thoát nào khác, có khi họ cũng đang tìm chúng ta cũng nên.”

“Ừm, vậy thì chúng ta tiếp tục tiến lên phía trước thôi.”

Đường Phong và Lương Viện cùng đỡ nhau, mò mẫm tiến vào trong đường hầm, may mà đại quân dơi không đuổi vào đây. Sau khi hai người đi được khoảng mấy chục mét thì tới một không gian cũng khá lớn. Đoạn hầm này ngắn vậy sao? Đường Phong nghi ngờ, nhìn xung quanh trong bóng tối, đột nhiên anh phát hiện ra một tia sáng, nên nói với Lương Viện: “Xem, ở đó có ánh sáng!”

Nhưng vừa mới dứt lời, đốm sáng đó đột nhiên phụt tắt, xung quanh lại là một vùng tối đen. Tim Đường Phong bất giác đập thình thịch. Ánh sáng đó là do thứ gì phát ra? Đèn pin, hay là… ma trơi dưới lòng đất?

Đường Phong và Lương Viện sững sờ đứng tại chỗ, không ai dám di chuyển nửa bước… Cứ như vậy, hai người đứng đó hồi lâu, mãi cho tới tận khi ánh sáng đó xuất hiện lại. Đường Phong thu hết can đảm, hét lên về phía ánh sáng đó: “Ai?”

“Đường Phong phải không?” Đường Phong rốt cuộc đã nghe thấy giọng của Hàn Giang, rốt cuộc cũng nhìn thấy ánh sáng. Anh và Lương Viện mừng rỡ ôm chặt lấy nhau.

Hai tia sáng gần lại, rồi Hàn Giang và Makarov xuất hiện trước mặt hai người. Hàn Giang quan tâm hỏi: “Sao hai người không bật đèn pin lên?”

“Lúc nãy bị dơi đuổi, đèn pin của tôi rơi mất rồi.” Đường Phong rầu rĩ nói.

“Tôi cũng tìm hai người mãi, may mà chúng ta đã gặp lại nhau, nếu không thì…” Hàn Giang không nói tiếp nữa.

“Đúng đấy! Nếu mà không gặp lại hai người, tôi và Lương Viện coi như xong rồi.”

“Thôi được rồi! Ở đây tôi cũng mang theo một chiếc đèn pin dự phòng, cậu cầm lấy đi.”

Đường Phong bật đèn pin lên, nhìn xung quanh, ở đây giống như một ngã tư, trừ hang động tối đen mà mình vừa mò mẫm đi ra đây thì còn có ba hang động khác, hang động đối diện hình như đã sụp đổ, chỉ còn lại hai cửa hang bên trái và bên phải. Đường Phong hỏi: “Bây giờ chúng ta nên đi đường nào?”

Hàn Giang giới thiệu: “Ban nãy chúng ta đã thăm dò hai cái động này rồi, cái động bên trái khá thẳng, hình như thông đến nơi rất xa, động bên phải bên trong uốn lượn quanh co, có chỗ còn bị sụp đổ, cho nên tôi nghiêng về động bên trái.”

“Sự việc đã đến thế này rồi thì cũng đành vậy thôi.”

Bốn người chui vào đường hầm bên trái, Lương Viện lo lắng hỏi: “Lần này chúng ta không nhầm đường tiếp chứ?”

“Ai mà biết được? Xem ý trời vậy!” Makarov lại thốt ra một câu thành ngữ Trung Quốc.

Bốn người đi được vài trăm mét thì đường hầm này kịch đường, đến một đại sảnh không lớn lắm, mặt đất cao thấp lồi lõm, toàn là đá vụn và bùn đất; ngẩng đầu nhìn lên, trên đỉnh đại sảnh không có những chùm nhũ đá hùng vĩ mà là từng thanh “ống đá” to nhỏ như những ống sắt thép.

Lương Viện tò mò chỉ vào những “ống đá” này hỏi: “Đó là những thứ gì mà trông thần kỳ vậy?”

Đường Phong sau khi quan sát, giải thích: “Đây gọi là ống ngỗng, tên chính thức gọi là ‘chùm nhũ đá hình thân lúa mạch’, nó là một chùm nhũ đá thu nhỏ, cũng chính là trạng thái của chùm nhũ đá vẫn chưa hoàn toàn thành hình.”

“Nói như vậy thì sảnh ống ngỗng có vẻ ít tuổi phải không?” Hàn Giang hỏi.

“Cũng có thể nhận định như vậy, tới đây chúng ta nên phải cẩn thận, vì cấu tạo địa chất ở đây rất không ổn định.” Đường Phong ngập ngừng một lúc, chỉ lên một con dốc hướng lên trên trước mặt, nói: “Đây là cái ‘cầu thang lớn hình chữ chi’, độ dốc lớn, mọi người hãy đi theo hình chữ Z, như vậy sẽ dễ đi hơn đấy.”

Mọi người bước lên những tảng đá vụn và bùn đất theo “hình chữ Z.” Sau khi bước lên “cầu thang lớn hình chữ chi”, tất cả mọi người lại lần nữa trợn tròn mắt…

3

Bốn người đi lên “cầu thang lớn hình chữ chi”, trước mặt lại là một đại sảnh động đá vôi rộng lớn. Tuy trong đại sảnh này toàn là đá nham thạch đổ sụp, hình dạng cũng không theo quy tắc nào cả, nhưng điều đó cũng không thể che lấp được sự kỳ thú ở đây. Đây là một đại sảnh ngũ sắc, trên vách nham thạch chi chít những mảng thạch cao màu vàng nhạt, trên một thác đá vẫn chưa hình thành hoàn chỉnh trải kín suối đá màu đỏ và màu vàng cam, mưa đá màu trắng mọc từng đám trên vách hang, giống như những chùm hoa nhỏ màu trắng bung nở trên vách động; còn có cả những hạt trân châu đủ hình đủ dạng, cột đá khổng lồ đã bị sụp đổ, ánh sáng ngũ sắc giống như đá quý, quả thật không thể ngờ tới, nó tỏa sáng lấp lánh, soi rọi toàn bộ đại sảnh.

Bốn người đều bị cảnh đẹp bất ngờ trước mắt chinh phục, chậm rãi di chuyển bước chân tiến lên phía trước, bởi mỗi bước chân đều dẫn tới một cảnh đẹp khác nhau. Phía trước vọng lại tiếng nước nhỏ xuống. Đây là âm thanh những giọt nước từ những chùm nhũ đá trên đỉnh động nhỏ xuống vũng nước phía dưới. Đường Phong nghi ngờ soi thẳng đèn pin về phía trước, anh lần nữa lại bị bất ngờ bởi cảnh tượng trước mắt. Ở đó hóa ra là một hồ nước ngầm rộng lớn, mặt hồ phẳng lặng lấp lánh ánh sáng màu xanh âm u. Khi Đường Phong tiến vào, hồ nước lại toát lên màu xanh lục diễm lệ như ngọc bích. Lẽ nào đây là một hồ nước đổi màu?

Đường Phong ngồi xổm xuống, chiếu đèn pin ra xa, trong hang động âm u, không nhìn thấy bờ bên kia của hồ nước. Vậy hồ nước này rút cuộc to nhường nào? Ranh giới của nó ở đâu? - Trong lúc Đường Phong đang suy nghĩ rối bời thì phía sau lưng bất ngờ vang lên tiếng trầm trồ của Lương Viện: “Đây quả thực là một thế giới ngũ sắc, đẹp quá đi!”

“Đúng vậy! Đẹp tới nỗi khiến người ta nghẹt thở.” Đường Phong tiếp lời.

“Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy cảnh đẹp như vậy.” Makarov vốn hiểu biết phong phú cũng không thể không ca ngợi.

“Mọi người xem, những thứ màu vàng trên vách đá là gì vậy?” Lương Viện tò mò chỉ vào những tảng đá thạch cao màu vàng nhạt chi chít trên vách hang.

Đường Phong bước tới bên vách hang, quan sát một hồi rồi nói: “Đây là lưu huỳnh, trạng thái tự nhiên của lưu huỳnh.”

“Thảo nào vừa mới bước vào trong hang động này, tôi đã ngửi ngay thấy mùi lưu huỳnh.” Nói xong, Makarov lại khịt khịt ngửi mùi lưu huỳnh nồng nặc trong không khí.

“Lưu huỳnh?” Lương Viện giống như nghĩ tới điều gì đó, bỗng ngạc nhiên hỏi: “Trong đại sảnh có nhiều lưu huỳnh như vậy, không phải sẽ đốt cháy được sao?”

Lời của Lương Viện khiến trước mắt mọi người đều hiện lên cảnh tượng cả đại sảnh ngũ sắc chìm trong biển lửa, cháy bùng bùng. “Không thể!” Hàn Giang đứng dậy nói: “Mọi người xem, ở đây vốn không có vết tích của lửa.”

“Đúng vậy! Nếu như ở đây đã từng bị lửa thiêu cháy thì chúng ta đã không nhìn thấy được cảnh đẹp như vậy nữa. Lưu huỳnh tự nhiên vốn không dễ cháy vậy đâu, ngoài ra, mọi người cảm nhận thấy không? Tuy không gian ở đây rộng lớn như vậy, nhưng không khí lại loãng hơn ban nãy rất nhiều.”

Đường Phong vừa nhắc nhở xong thì mọi người đều cảm nhận thấy ngay, không khí ở đây quả thực loãng hơn trước đó. “Sao lại như thế này nhỉ?” Lương Viện hoảng hốt hỏi.

Đường Phong nhìn xung quanh lần nữa, rồi phát hiện trong đại sảnh, trừ “cầu thang lớn hình chữ chi” lúc đến và hồ nước ngầm không thấy điểm kết thúc ra thì xung quanh đại sảnh không có lối thoát nào khác, trong lòng anh bất giác hoang mang. Anh vẫn chưa nói gì thì Makarov đã ngạc nhiên hỏi: “Sao ở đây không có lối thoát nào cả nhỉ? Thảo nào không khí loãng như vậy?”

Đường Phong nói: “Không nên kết luận sớm thế, đại sảnh này không giống như mấy đại sảnh trước đây chúng ta đi qua, ở đây tuy ngũ sắc giao thoa, nhưng cấu tạo địa chất lại yếu và phức tạp, không đơn giản như mấy đại sảnh mà chúng ta thấy trước đây. Ở đây động nằm trong động, mọi người xem, hình dạng của cả đại sảnh này không theo quy tắc nào cả, mặt phẳng thì giống như hình hồ lô, hiện nay chúng ta đang ở trong phía trước toàn đại sảnh, cũng chính là phần nửa dưới của hồ lô, không biết chừng chúng ta tiếp tục tìm kiếm sẽ phát hiện ra lối thoát mới.”

4

Đường Phong vừa mới dứt lời, một chùm nhũ đá đột nhiên rơi xuống bên cạnh Lương Viện. Lương Viện sợ đến nỗi hét toáng lên, làm cả đại sảnh vang vọng. Hàn Giang và Makarov không hiểu chuyện gì, không hẹn mà gặp cùng rút súng, lập tức cảnh giác quan sát xung quanh, nhưng khắp nơi cũng không phát sinh tình huống nào cả.

“Được rồi, được rồi! Không có gì cả, chỉ là một chùm nhũ đá rơi xuống thôi mà!” Đường Phong an ủi Lương Viện đang hốt hoảng sợ hãi.

Lương Viện khó khăn lắm mới trở lại bình thường được. Bốn người không dám ở lại đây lâu, Đường Phong dẫn mọi người tới phía sau đại sảnh ngũ sắc, cũng chính là phần nửa trên của “hồ lô”. Không gian ở đây nhỏ hơn ban nãy rất nhiều, mọi người ai nấy cầm đèn pin soi chiếu xung quanh, tìm kiếm lối thoát, nhưng trừ vách đá đẹp long lanh ra thì chẳng thu hoạch được gì cả. Đường Phong thất vọng nói: “Lẽ nào ở đây quả thật không có lối ra? Nếu mà như vậy, chúng ta phải quay lại thôi.”

“Cậu muốn đi qua một lối thoát còn lại sao?” Hàn Giang hỏi lại.

“Cái gì?” Đường Phong lập tức hiểu ngay ý của Hàn Giang. “Ý anh là hồ nước ngầm?”

“Khà khà, coi như cậu thông minh!”

“Nhưng hồ nước ngầm vốn không thấy đầu bên kia, có khi đầu bên đó chẳng có gì cả, vốn cũng chẳng có lối thoát, ông trời phù hộ, chúng ta có lẽ không nên xuống nước nữa.”

“Đúng đấy! Tôi cũng không muốn xuống nước nữa đâu, hiện giờ tôi đã cảm giác mình sắp bị cảm lạnh rồi, nhưng ai mà biết được sẽ như thế nào chứ?”

Mọi người đi vòng quanh trong nửa phần trên “hồ lô” cả nửa ngày trời, cuối cùng thì cũng tới vị trí “miệng hồ lô” hẹp nhất trong toàn bộ “hồ lô”. Đèn pin trong tay Đường Phong soi thẳng về phía trước, chùm ánh sáng rọi vào một thông đạo nhỏ hẹp. “Mọi người xem, ở đây có đường đi.” Đường Phong nói.

Mọi người cùng đến nhìn, lúc này mới phát hiện ra, tại vị trí “miệng hồ lô”, bỗng nhiên xuất hiện một thông đạo âm u. “Đi từ đây sao?” Hàn Giang hỏi.

“Thử xem thế nào! Trừ ở đây ra thì còn có thể đi đường nào nữa?” Đường Phong chán nản giơ hai tay ra.

“Vậy được, lần này tôi đi đầu. Đường Phong, anh bảo vệ Lương Viện, Lão Mã đệm sau cùng nhé.” Hàn Giang ra lệnh xong, anh chui vào thông đạo nhỏ hẹp tối đen trước tiên, đi được bảy tám mét thì thông đạo này hẹp tới nỗi chỉ có thể từng người một đi qua, và phía trước thì vẫn không nhìn thấy điểm cuối.

Đường Phong lại nhớ tới đại khe sâu Nạp Ma, bất giác than thở: “Chúng ta thoát được khỏi đại khe sâu trên mặt đất, giờ lại đến một cái đại khe sâu dưới lòng đất.”

“Hơn nữa khe sâu còn hẹp như thế này!” Makarov ca thán.

Khe sâu dưới lòng đất này uốn lượn quanh co, chẳng mấy chốc họ đã mất phương hướng. Không biết đi được bao lâu, không khí trong khe sâu càng lúc càng loãng, khe sâu dưới lòng đất giống như không có điểm tận cùng… Bốn người đến trước một “cầu thang” hướng lên trên, bước lên bậc thang, lại tiếp một “cầu thang” khác cũng hướng lên trên lên tiếp, phía trên rộng rãi hơn một chút, nhưng hai “cầu thang” này cũng khiến bốn người mệt mỏi rã rời, đặc biệt là Lương Viện, cô thở hổn hển hơn tất cả những người khác. Makarov nhìn Lương Viện mặt đỏ phừng phừng, cười nói: “Tiểu cô nương, lười luyện tập sức khỏe đấy mà!”

Nếu như trước đây, tính khí ngạo mạn như Lương Viện sẽ phản bác lại, nhưng lúc này cô chỉ dựa vào vách động, lo thở hổn hển. Đường Phong thấy Lương Viện hình như có chút không bình thường nên liền tiến đến sờ trán cô, vừa chạm vào một cái, Đường Phong liền giật bắn mình: “Lương Viện, cô sao thế? Trán nóng thế này!”

“Không sao cả, chỉ có điều cơ thể rã rời… nhưng, tôi vẫn có thể cố gắng được.” Lương Viện quả thực kiên cường hơn trước đây rất nhiều.

Đường Phong rất ngạc nhiên, Hàn Giang cũng chú ý thấy Lương Viện không giống lúc trước lắm, ủ rũ mệt mỏi, dáng vẻ như sắp ốm đến nơi. Hàn Giang cũng sờ trán Lương Viện rồi quan sát một lúc, nói: “Không có gì lạ cả, cô ấy bị sốt rồi, cái này cũng thường thôi, một cô gái ở dưới lòng đất lạnh lẽo thế này, đi bao lâu như vậy, vừa lạnh vừa đói, lại còn ngâm trong nước lâu như thế, nếu không bị ốm thì mới là chuyện lạ. Tình hình trước mắt cho thấy, chúng ta phải nhanh chóng ra khỏi đây, trị bệnh cho Lương Viện. Đường Phong, cậu phải chăm sóc cô ấy nhiều hơn, mọi người cũng cố gắng thêm chút nữa, tôi nghĩ chúng ta cũng sắp ra khỏi đây rồi.” Hàn Giang nói những lời mà bản thân mình cũng không dám tin để cổ vũ mọi người. Chứng cứ duy nhất ủng hộ cho quan điểm của anh chính là con đường này quả thật hướng lên trên, có lẽ đã cận kề mặt đất rồi. Nhưng, chẳng bao lâu sau, một “cầu thang” hướng xuống dưới lại xuất hiện trước mặt Hàn Giang…

5

Hàn Giang đối diện với “cầu thang” hướng xuống dưới này, chán nản lắc đầu, không có lối ra nào khác, đành phải thuận theo, “xuống cầu thang”. Và như vậy, bốn người trong hang động nhỏ hẹp dưới lòng đất, lên lên xuống xuống, hết rẽ lại vòng, đúng lúc mọi người gần như tê mỏi thì trước mặt bỗng rộng mở thênh thang, chờ đợi họ sẽ là thứ gì đây? Cảnh đẹp hùng vĩ hay là lối ra để thoát khỏi bóng tối? - Đều không phải. Mọi người còn chưa kịp phấn khởi thì đã thất vọng phát hiện ra, ở đây vừa không có cảnh đẹp hùng vĩ, cũng không có lối ra để thoát khỏi bóng tối, vách động xung quanh bình thường không có gì kỳ lạ, lối ra chỉ có một thông đạo nhỏ hẹp dưới khe sâu trong lòng đất.

“Đây được coi là cái gì? Khe đất ư? Hẹp thế này, tôi thấy chỉ chứa đủ một người nghiêng người lách qua.” Đường Phong chán nản nói.

“Cứ coi là khe đất đi thì chúng ta cũng phải đi qua.” Hàn Giang kiên định nói.

Nhìn vào khe đất chật hẹp ẩm ướt, không có điểm kết thúc, mọi người vừa nhìn vừa bước đi, không một ai biết nếu như đi vào đó rồi thì sẽ gặp phải điều gì trong đó. Hàn Giang lấy từ trong ba lô ra hai đoạn dây lấy được từ trong giếng, buộc vào thắt lưng mình, sau đó nói với mọi người: “Mọi người đều buộc sợi dây này lên eo đi, tôi vào trước, nếu có gì bất trắc, mọi người có thể kéo tôi lại! Hiện giờ chúng ta là kiến trên cùng một sợi dây, đừng có mặt mày ủ rũ, không biết chừng, khe đất không dài, vừa chui vào một cái bên kia lại có thiên động.”

“Cũng có khả năng chúng ta chui vào trong khe đất mất nửa ngày nhưng cuối cùng cũng không có đường đi.” Đường Phong nói.

“Không có đường đi thì lại quay ra! Đừng nói những câu đen đủi.” Hàn Giang luôn để cho người khác thấy sự tự tin đầy mình của anh, nhưng trải qua mọi chuyện, trong lòng mọi người đều thấu hiểu, Hàn Giang cũng có lúc sợ hãi, có lúc sự tự tin của anh chỉ để cho người khác thấy mà thôi.

Mọi người đều buộc sợi dây lên eo mình, theo Hàn Giang chui vào khe đất chỉ đủ cho một người lách qua, không khí bên trong càng lúc càng loãng. Trong khe đất tĩnh mịch này chỉ có thể nghe thấy tiếng tim đập và tiếng thở của mấy người. Sau khi bốn người khó nhọc tiến về phía trước hơn trăm mét trong động, vừa không nhìn thấy thiên động mà Hàn Giang mong đợi, cũng không thấy ngõ cụt mà Đường Phong lo lắng, khe đất tối đen, không có điểm kết thúc, không có lối ra, mọi người sắp ngạt thở đến nơi rồi…

Đột nhiên, Hàn Giang đi đầu bất động, trong lúc mọi người đang ngạc nhiên thì phía trước vọng lại giọng nói vang vang của Hàn Giang: “Ở đây bị một tảng đá to chặn đường rồi.”

Mọi người nghe thấy vậy, lòng bỗng chùng xuống, Đường Phong oán thán: “Tôi đã bảo là ngõ cụt rồi mà, giờ thì hỏng rồi, đi xa như thế này rồi mà lại phải quay lại.”

“Không! Không phải ngõ cụt, trên tảng đá này có một khe nứt, còn rộng hơn cả khe đất, người có thể lọt qua, nhưng phải bò vào trong, từ từ nhích qua.”

“Ngất mất thôi! Hóa ra lại còn có cả đường kiểu này nữa.”

Đợi Đường Phong, Lương Viện, Makarov đến trước khe nứt, Hàn Giang đã bò vào trong đó, khó nhọc nhích người qua bên trong. Mấy người đều nhìn lác cả mắt, sự việc đã thế này rồi, cũng chẳng còn cách nào khác, Đường Phong, Lương Viện và Makarov cũng đành phải chui vào trong khe nứt, lấy cánh tay chống vào đá nham thạch, nhích người vào trong đó.

Bốn người nhích được vài chục mét thì đã thở hổn hển từ lúc nào, mồ hôi đầm đìa, Hàn Giang vẫn đang ở phía trước cổ vũ mọi người: “Kiên trì, ở đây có không khí lưu thông, cho thấy phía trước nhất định có đường.”

Sau khi mọi người lại tiếp tục nhích thêm hơn hai mươi mét, Đường Phong cảm thấy đá nham thạch dưới chân hình như đang dốc nghiêng xuống. Anh đã không còn nhìn thấy bóng dáng của Hàn Giang, nhưng từ sợi dây trên lưng anh thì có thể biết được, Hàn Giang phía trước đó nhất định cũng đang dừng lại. Không ai nói gì cả, mọi người đều nhoài người lên đá nham thạch, thở hổn hển, đột nhiên, một cơn gió mát thổi tới, Đường Phong nghe thấy tiếng nước chảy.

6

Bốn người đều nghe thấy tiếng nước chảy rào rào, sợi dây trên eo Đường Phong khẽ đung đưa. Đường Phong lập tức tỉnh táo lại, anh biết Hàn Giang lại bắt đầu cẩn thận rón rén dịch chuyển lên phía trước. Đá nham thạch càng lúc càng dốc xuống, khe đất không chật hẹp giống như ban nãy nữa, Đường Phong dùng đèn pin buộc trên cánh tay soi về phía trước nhưng không nhìn thấy bóng dáng của Hàn Giang, anh lo lắng lớn tiếng nhắc nhở Hàn Giang: “Hàn Giang! Anh phải cẩn thận, phía trước mặt là gì vậy? Tôi nghe thấy tiếng nước chảy?”

Hàn Giang không đáp lại, trong khe đá chật hẹp, chỉ có giọng Đường Phong vang vọng, đột nhiên, Đường Phong cảm thấy sợi dây trên eo mình bị giật mạnh xuống một cái, cơ thể mình bị một sức mạnh to lớn lôi đi, trượt về phía trước. Không ổn! Đường Phong âm thầm kêu khổ, Hàn Giang ở phía trước nhất định gặp phải sự cố gì đó rồi. Đường Phong giơ hai tay ra, quờ quạng chới với lên đá nham thạch phía dưới, hy vọng có thể tóm được cọng cỏ cứu mạng, nhưng sức mạnh đó lớn quá, cơ thể Đường Phong vẫn bị lôi về phía trước. Đường Phong hiểu rằng, nếu như mình mà tiếp tục bị kéo thế này, với sức của Lương Viện và Makarov phía sau, thì sẽ không thể giữ mình và Hàn Giang lại được. Chỉ có bản thân mình nếu gắng gượng được, cộng thêm cả sức lực của Lương Viện và Lão Mã thì mới có thể lôi Hàn Giang lại. Nhưng, hiện tại bản thân cũng bị mất trọng tâm, đang bị một sức mạnh vô hình kéo xuống vực sâu chưa biết là đâu…

Đúng giây phút Đường Phong sắp trượt xuống vực sâu thì tay của anh chạm vào một khe nứt của đá nham thạch. Đúng là cọng cỏ cứu mạng, hai tay Đường Phong dồn sức tóm chặt lấy khe nứt đó, anh quay đầu lại hét lên với Lương Viện và Makarov phía sau: “Hàn Giang xảy ra chuyện rồi, ở đây có một khe nứt, mọi người bám chặt lấy khe nứt này, nhất định phải tóm chặt đấy!”

Lương Viện và Makarov bám thật chặt vào khe nứt, phía trước, sức mạnh to lớn đó vẫn đang kéo ba người đi, ngón tay Đường Phong lấm tấm máu, hai tay anh bắt đầu tê cứng, Lương Viện và Makarov nhìn thấy vậy mà lòng dạ như lửa đốt, nhưng hai người họ cũng chẳng biết làm cách nào, họ chỉ biết dốc hết sức mình để kéo dài thời gian bị trượt về phía trước.

Đường Phong hiểu rằng, bản thân đã không thể gắng gượng thêm được nữa, vì không chỉ hai cánh tay anh bị tê cứng mà thần trí cũng bắt đầu choáng váng. Anh nhắm mắt lại, lặng lẽ chờ đợi giây phút mà thần chết giáng xuống. Trước mắt anh, lại hiện lên cảnh tượng Tề Ninh rơi từ trên đỉnh tòa nhà xuống, tiếp theo đó là vết thương sâu hoắm trên người Lương Vân Kiệt, còn cả động sâu vô đáy của Khương Trại, thi thể của Chu Nam Nam trên đài thiên táng. Không! Tôi vẫn chưa thể chết. Đường Phong nghĩ tới đây bỗng mở trừng mắt, đôi mắt chằng chịt những tia máu, nhìn chằm chằm vào vách đá trước mặt, những thứ này rút cuộc là thế nào? Là ai? Là ai đã cuốn mình vào trong xoáy ốc đáng sợ này? Đường Phong giãy giụa, gắng gượng, anh muốn kêu gọi Hàn Giang lần nữa, nhưng anh đã hét không thành tiếng, khắp cơ thể đã hoàn toàn tê cứng, đang dần dần mất đi tri giác, anh lại lần nữa nhắm mắt lại…

Đột nhiên, bên tai Đường Phong vang lên một giọng nói: “Tôi vẫn còn sống, dưới này có một thác nước to!” Là giọng của Hàn Giang. “Tôi giẫm lên một tảng đá nham thạch, bây giờ thì an toàn rồi, mọi người có thể từ từ di chuyển xuống đây.”

Vẫn là giọng nói của Hàn Giang vọng lại. Nghe thấy câu nói này của Hàn Giang, Lương Viện và Makarov mới thở phào nhẹ nhõm, tim vốn treo ngược lên giờ mới trở về đúng vị trí cũ, còn Đường Phong, đôi tay đang ở trong khe đá đã hoàn toàn mất đi cảm giác lúc này rút cuộc cũng được thả lỏng.

7

Gió nhẹ hiu hiu thổi khiến Đường Phong sắp ngất đi cũng tỉnh cả người. Anh, Lương Viện và Makarov cẩn thận rón rén lách ra mép khe đất. Đây không phải ngõ cụt, rút cuộc thì cũng có thể hít thở không khí tươi mới mà lâu lắm rồi không được hít thở. Ba người nhoài lên vách đá, tham lam hít thở không khí tươi rói ở đây.

Sau khi hồi sức lại, ba người từ từ bò ra ngoài, giẫm lên đá nham thạch, tiếng nước chảy bên tai ầm ầm rung cả màng nhĩ. Hàn Giang đã leo lên chỗ bằng phẳng dưới khe đất. Đường Phong, Lương Viện và Makarov cũng đi theo vết chân của Hàn Giang, leo lên chỗ bằng phẳng. Họ đang ở sau một thác nước khổng lồ, nước chảy từ trên cao xuống, đổ vào một chiếc đầm sâu trước mặt, bọt nước tung tóe, bắn cả vào mặt mọi người, nhưng không ai tránh né cả mà đều tận hưởng giây phút tươi mới hiếm có này.

“Thật là thần kỳ quá, trong huyệt động mà lại có thác nước hùng vĩ thế này!” Lương Viện thốt lên kinh ngạc.

Đường Phong cũng gật gù, ca ngợi: “Quả thật quá thần kỳ, đặc biệt là nước ở đây, nước từ đâu đến nhỉ? Hiện giờ đang là mùa khô mà lượng nước lại lớn thế này, nếu là mùa hè thì tôi không dám tưởng tượng cảnh tượng ở đây sẽ thế nào!”

“Tôi không quan tâm những thứ đó, tôi chỉ quan tâm phía trước màn nước sẽ là cảnh tượng thế nào.” Hàn Giang nói xong, bất giác tiến lên phía trước hai bước, những giọt nước lại bắn lên người anh nhiều hơn, nhưng màn nước trước mặt anh kín đặc, không có lấy một khe hở để anh có thể nhòm thấy thế giới bên ngoài màn nước.

“Thác nước này khiến tôi nhớ đến Thủy Liêm Động ở Hoa Quả Sơn trong ‘Tây Du Ký’, một trong tứ đại kiệt tác của Trung Quốc.” Mọi người đều cùng lúc nhìn hướng về Makarov, thật không ngờ ông lão người Nga này đã từng đọc cả tứ đại kiệt tác của Trung Quốc.

Đường Phong cười nói: “Tôi thấy thác nước này còn thần kỳ hơn Thủy Liêm Động ở Hoa Quả Sơn trong ‘Tây Du Ký’ rất nhiều, Thủy Liêm Động là phía sau thác nước có một cái động, còn thác nước này lại nằm gọn trong động đá vôi.”

“Đúng là rất thần kỳ, nhưng hiện giờ chúng ta nên nhanh chóng đi tới phía trước màn nước, thế giới ở đó chắc chắn còn sống động hơn.” Nói xong, Hàn Giang đi tới đầu bên kia chỗ bằng phẳng, không thể trực tiếp đi xuyên qua màn nước, đành phải thử từ bên cạnh xem sao, thử xem có đường đi hay không.

Hàn Giang dẫn mọi người từ vách đá dựng đứng bên phía khoảnh bằng phẳng đi vòng qua đầm sâu, đi hơn nửa vòng, cuối cùng thì cũng tới chính diện thác nước. Mấy chiếc đèn pin cùng lúc rọi lên phía trên thác nước, gần kề với vách đá phía trên đỉnh đại sảnh là một miệng hang khổng lồ, đang có từng làn nước trong vắt ào ào đổ xuống. “Hóa ra nước chảy ra từ miệng hang đó.” Đường Phong lẩm bẩm.

“Vậy thì nước trong miệng hang đó bắt nguồn từ đâu nhỉ? Lẽ nào là…” Hàn Giang nói đến đây liền im bặt, đến ngay bản thân anh cũng không dám tin vào phán đoán của mình.

“Là hồ nước ngầm mà chúng ta từng bơi qua, nước ở đó bất luận chảy thế nào trong huyệt động phức tạp, cuối cùng thì cũng đều lao thẳng xuống đây, đổ vào trong đầm này. Đây có lẽ cũng là thác nước hùng vĩ nhất trong toàn bộ huyệt động.” Đường Phong nói ra phán đoán của mình. Anh biết đây cũng chính là phán đoán của Hàn Giang.

Hàn Giang hoàn toàn đồng ý với suy đoán của Đường Phong, rồi cũng đoán đại khái rằng, từ miệng hang tới đầm sâu, độ rơi của thác nước trong động này vào khoảng bốn năm mươi mét, đây là một con số đáng kinh ngạc! Nhưng Hàn Giang và Đường Phong vẫn chưa kịp tính toán cụ thể thì Lương Viện đang đứng bên cạnh đầm sâu đột nhiên lại hét lên thất thanh khiến mọi người phát hoảng. Đường Phong bước đến, châm chọc: “Đại tiểu thư của tôi lại sao thế? Đừng có bé xé ra to như thế.”

“Anh nhìn kìa, có người… người!” Lương Viện chỉ lên mặt nước trong đầm sâu sát ngay bên cạnh, hoảng hốt hét lên.

8

Đường Phong ngồi xổm cạnh đầm quan sát, quả thực là có một người, một người chết, xác chết đó lưng phơi lên, mặt úp xuống nước. Từ quần áo trên người hắn, Đường Phong có thể đoán định, đây chính là một trong hai tên áo đen mà họ xử lý ở hồ nước ngầm.

“Xem ra suy đoán của chúng ta đã hoàn toàn chính xác, đây là một trong hai tên rơi xuống thác nước trong hồ nước ngầm.” Phía sau vang lên giọng nói của Hàn Giang.

“Đúng vậy! Giờ thì có thể chứng minh rằng các huyệt động này hoàn toàn thông với nhau, chỉ có điều chúng ta không biết là gã này từ hồ nước ngầm trôi tới đây thì cả quãng đường đó bao xa?”

Đường Phong và Hàn Giang cùng nhau lật cái xác lên, lột mặt nạ trên bộ quần áo lặn của tên này ra, óc trắng lẫn máu và nước chảy ra khiến Lương Viện đứng bên cạnh nôn oẹ. Đường Phong và Hàn Giang cẩn thận xem xét, đây là một người nước ngoài tóc vàng mắt xanh, cơ thể cao to, lục khắp người hắn, chẳng có bất cứ thứ gì có thể chứng minh thân phận người này. Đúng lúc Hàn Giang chuẩn bị buông xuôi thì Đường Phong đột nhiên chỉ lên cổ hắn, ngạc nhiên nói: “Anh xem, ở đây có một hình xăm!”

Hàn Giang nhìn theo hướng ngón tay Đường Phong chỉ, thì thấy trên cổ người này, ngay sát sau dái tai phải, có một hình xăm màu đen, rất nhỏ, khuất lấp. Đó là hình một con sói đang ngoác miệng ra hú, trên người sói còn có một con chim ưng đứng thẳng.

Hàn Giang không hiểu, hỏi Đường Phong: “Hình xăm không nổi bật như thế này thì đặc biệt ở chỗ nào nhỉ?”

Đường Phong nói nhỏ, kề bên tai Hàn Giang: “Anh có còn nhớ tên sát thủ đã đâm chết Lương Vân Kiệt không? Về sau, chúng ta vớt được thi thể của hắn từ sông Châu Giang lên cũng phát hiện được một hình xăm như thế này…”

Không đợi Đường Phong nói hết, Hàn Giang lập tức nhớ ngay ra: “Cũng là con sói thế này, còn cả một con chim ưng?”

“Đúng vậy, đến giờ tôi vẫn nhớ rất rõ, con sói đúng như thế này, ngửa đầu lên hú, còn con chim ưng lại đứng thẳng trên lưng sói, dáng vẻ ngang tàng bất khuất!”

“Xem ra tất cả những chuyện này đều dính dáng đến nhau, hung thủ giết hại Lương Vân Kiệt và bọn áo đen truy sát chúng ta đều là một.” Hàn Giang khẽ gật đầu, hiểu ra vấn đề. Không biết từ lúc nào, Makarov đã im hơi lặng tiếng đứng ngay sau hai người và nhìn hình xăm trên cổ người này. Vừa nhìn thấy một cái, Makarov đã đột nhiên trợn trừng mắt, ngạc nhiên nói: “Sao lại xuất hiện cái này?”

Đường Phong và Hàn Giang quay đầu lại nhìn. Mặt hoảng hốt, căng thẳng Makarov lùi lại vài bước. Hai người họ kể từ khi quen biết Makarov cho tới nay, bất luận gặp phải tình huống nguy hiểm gì đi chăng nữa, cũng chưa từng nhìn thấy Makarov hoảng sợ đến như vậy. Đường Phong nghĩ trong lòng: “Bên trong nhất định có chuyện!” Bởi vậy anh hỏi dồn: “Lão Mã, ông đã từng nhìn thấy hình xăm này sao? Nó tượng trưng cho điều gì vậy?”

“Không! Không! Tôi chưa từng nhìn thấy kí hiệu này.” Tuy Makarov ra sức giữ bình tĩnh nhưng Đường Phong và Hàn Giang đều nhận ra là, nhất định ông ấy biết chút gì đó, nhưng mặc cho Đường Phong và Hàn Giang hỏi thế nào đi chăng nữa, Makarov vẫn kiên quyết nói rằng mình chưa bao giờ nhìn thấy kí hiệu này.

Đường Phong không tiện tiếp tục truy hỏi, anh đứng dậy đi về phía trước một đoạn, vòng qua một cột đá khổng lồ đổ nát. Đường Phong dùng đèn pin rọi vào đại sảnh trước mặt, mọi người lúc này mới phát hiện ra, hóa ra đây mới chính là chủ thể của toàn bộ đại sảnh - một đại sảnh rộng bằng năm sân bóng đá.

Không giống với những đại sảnh động đá vôi mà họ đã từng đi qua, trong đại sảnh này chẳng có mấy kỳ quan địa chất đẹp bắt mắt, thậm chí đến cả nhũ đá cũng rất ít. Bốn vách hang đều là đá nham thạch bằng phẳng vuông vức, nhưng những thứ này cũng không ảnh hưởng tới giá trị của đại sảnh, bởi từ giây phút này, trước mặt mọi người bỗng hiện lên từng hàng cột đá hình vuông ngay ngắn, thẳng từ trên xuống dưới, giống như trụ cột chống trời, chống đỡ cho cả đại sảnh. “Quả là một tòa đại sảnh trụ cột hùng vĩ!” Đường Phong lẩm bẩm.

9

Bốn người đi loanh quanh trong sảnh có hàng trụ cột huy hoàng, Makarov nói: “Ở đây khiến tôi nhớ tới đền Luxor nằm cạnh bờ sông Nile ở Ai Cập, đó cũng là một chiếc cột đá, chống đỡ cả ngôi đền to lớn!”

Lời của Makarov khiến Đường Phong tin tưởng vào phán đoán của mình, anh chỉ vào một chiếc cột đá nói với mọi người: “Hiện giờ tôi có thể khẳng định một trăm phần trăm là những cột đá này đều do con người tạc nên, phía trên vẫn còn lưu lại dấu vết chạm khắc của những người thợ năm nào; hơn nữa tôi còn có thể đoán định, niên đại của nó ít nhất cũng hàng trăm năm trở lên.”

“Ý cậu nói là toàn bộ đại sảnh đều do cổ nhân tạo nên?” Hàn Giang nói.

“Không! Không phải là toàn bộ đại sảnh, mà là cổ nhân lợi dụng hang động đá vôi vốn có, rồi mở mang tu sửa mà thành. Người xưa thường giỏi về việc xác định nền tảng, mọi người chú ý quan sát mà xem đại sảnh này vốn không phải rất cao, nhưng diện tích lại rất lớn, cho thấy cổ nhân đã mở rộng diện tích vốn có của đại sảnh theo nhu cầu của mình.”

“Sao cổ nhân lại phải dựng lên chiếc trụ cột khổng lồ như vậy nhỉ?” Lương Viện tò mò hỏi.

Đường Phong lắc lắc đầu: “Hiện giờ tôi vẫn chưa biết, có khi giống như Lão Mã nói, đây là một tòa miếu thần!”

“Cậu thôi đi được rồi đấy, kiến trúc của miếu thần Ai Cập cổ sao lại có thể chạy vào trong đại hang động của Trung Quốc được.” Hàn Giang không buồn để ý.

“Hiện giờ, điều mà tôi hứng thú chính là công dụng của đại sảnh này và tác giả của kiệt tác kiến trúc này!” Đường Phong nói.

“Đúng vậy! Tôi cũng đang nghĩ tới vấn đề này. Thời cổ đại công cụ lạc hậu, xây dựng một kiến trúc to lớn trong hang núi như thế này, nhất định là một công trình vĩ đại, cần rất nhiều nhân lực và vật lực, nhưng tôi chưa từng nghe thấy những ghi chép về phương diện này trong lịch sử.” Hàn Giang thắc mắc.

“Chẳng cần nói mọi người, tôi tốt xấu gì cũng đọc no sách vở, nhưng cũng chưa từng nghe nói tới công trình này.” Đường Phong ngập ngừng một chút, đột nhiên mắt sáng lên, thì thầm nói với Hàn Giang: “Đây có khi nào là Hắc Đầu Thạch Thất mà chúng ta đang tìm kiếm không?”

Hàn Giang kéo Đường Phong sang một bên: “Tôi hiện giờ càng lúc càng nghiêng về suy đoán của cậu. Ở đây quả thực rất giống, niên đại xây dựng, vị trí địa lý, ghi chép lịch sử, càng ngày càng giống với Hắc Đầu Thạch Thất mà chúng ta muốn tìm kiếm. Nhưng, trước khi nhìn thấy chứng cứ chuẩn xác, tôi vẫn không thể kết luận bừa được.”

“Chứng cứ? Chứng cứ chẳng mấy chốc sẽ có thôi!”

“Ở đây chỉ có những chiếc cột này, phía trên cũng không phát hiện thấy văn tự gì cả, chứng cứ ở đâu ra? Tôi cần là cần chứng cứ có tính thuyết phục, chứng cứ trực tiếp nhất!”

“Chứng cứ có tính thuyết phục, chứng cứ trực tiếp nhất! Anh yên tâm, tôi sẽ tìm ra cho anh.” Đường Phong rọi đèn pin vào vài chiếc cột đá trong góc quặt của đại sảnh: “Anh xem! Chứng cứ anh cần ở đây này.” Giọng nói của Đường Phong khó mà giấu được sự phấn khởi.

Hàn Giang theo Đường Phong đến góc quặt trong đại sảnh, bất giác rùng mình một cái, bởi ở đây có hàng trăm vại gốm sứ phủ đầy bụi được xếp ngay ngắn, kín mít. “Đây chính là chứng cứ mà cậu nói?” Hàn Giang chỉ vào đống vại gốm sứ hỏi Đường Phong.

Đường Phong cười nói: “Đây chính là chuyên ngành của tôi rồi. Tôi đứng từ xa nhìn thấy đống vại gốm này, trong lòng đã một chín một mười có thể chứng thực phán đoán của mình rồi.”

“Đừng nói phét nữa! Cậu thần thánh vậy sao?”

“Khà khà, không phải tôi bốc phét đâu, tôi nhìn cái là có thể đoán định, những vại gốm sứ này đều là phỏng theo gốm đen trắng điển hình của lò gốm Từ Châu Tây Hạ. Lò gốm Từ Châu là một hệ thống lò gốm lớn của khu vực miền bắc thời kỳ Tống - Nguyên, gốm đen trắng là sản phẩm đặc trưng của lò gốm Từ Châu. Nói ra cũng thấy kỳ lạ, thời đó, lò gốm ở trung nguyên rất nhiều, ví dụ như gốm xanh của lò gốm Diệu Châu, gốm trắng của lò gốm Định Châu, gốm bóng xanh của lò gốm thị trấn Cảnh Đức; vậy mà người Đảng Hạng Tây Hạ lại chỉ thích gốm đen trắng của lò gốm Từ Châu; có lẽ là do loại gốm đen trắng này có thể toát lên bản chất hào phóng, chất phác nhất của người Đảng Hạng Tây Hạ. Vậy là, người Đảng Hạng đã bắt đầu nung một lượng lớn gốm sứ phỏng theo gốm đen trắng của lò gốm Từ Châu. Rồi từ đó trở đi, loại gốm đen trắng này đã trở thành một loại gốm sứ nổi tiếng nhất, được sử dụng rộng rãi nhất ở Tây Hạ. Từ quan lại cao quý cho tới thường dân bách tính, trên khắp đất nước Tây Hạ từ trên xuống dưới đều thích sử dụng loại gốm sứ này.”

“Ồ! Nghe cậu nói vậy thì cũng đúng như thế thật! Vậy cậu nói, những chiếc vò gốm sứ này dùng để làm gì?”

“Dùng để làm gì? Khà khà, nếu như tôi nói không sai, thì những vò gốm này đều là vò đựng tro cốt!”

“Cái gì? Vò đựng tro cốt!” Hàn Giang trợn tròn mắt, nhìn vài trăm vò tro cốt trước mặt, giống như nhìn thấy vài trăm linh hồn đã bị bụi phủ mờ vậy.

10

“Cậu nói thật hay là đùa tôi đấy?” Hàn Giang vẫn không tin lời Đường Phong.

“Thời cổ, người Hán thịnh hành việc chôn cất, nhưng những dân tộc thiểu số khác vẫn bảo tồn tục lệ ma chay của họ. Ví dụ như tục lệ thiên táng mà chúng ta nhìn thấy hôm trước trên đài thiên táng, ngoài ra còn có cả hỏa táng rất phổ biến trong những dân tộc du mục ở phương bắc. Căn cứ theo sử sách ghi chép và chứng minh khảo cổ cho thấy, trong xã hội Tây Hạ, đại đa số quý tộc đều kiến tạo lăng mộ hào hoa, tiến hành chôn cất, còn những thường dân Đảng Hạng lại chọn cách hỏa táng. Tro cốt sau khi hỏa táng thường cất giữ trong vò gốm sứ như thế này để tiện cho việc mang theo bên mình.”

“Đem tro cốt theo để di chuyển?”

“Đúng vậy, đây cũng là tập tục của rất nhiều dân tộc du mục.”

“Quả thật thần kỳ, nhưng nếu như những vò gốm sứ này đúng là của người Đảng Hạng thì sao lại cất giữ ở đây?”

“Khà khà, đây không phải là đã chứng minh cho suy đoán của tôi rồi sao? Tôi hiện giờ đã bảy tám phần chắc chắn rồi, những linh hồn trong những vò gốm sứ này chính là một chi của người Đảng Hạng, sau khi vương triều Tây Hạ bị diệt vong, họ đã trở lại nơi khởi nguồn của dân tộc Đảng Hạng. Ở đây rất có khả năng chính là Hắc Đầu Thạch Thất mà chúng ta khổ sở tìm kiếm, họ cất giấu kệ tranh ngọc đó ở đây, rồi gửi gắm lại linh hồn ở chốn này… Anh nhìn này, trên mặt những vò gốm này còn có cả văn tự.”

“Văn tự?” Hàn Giang nhìn về chỗ Đường Phong soi đèn pin lên thì chỉ thấy một dòng hình như giống chữ Hán, nhưng cũng giống văn tự kỳ dị nào đấy: “Ý cậu nói đến mấy chữ kỳ quái này?”

“Không phải là chữ kỳ quái! Đây chính là văn tự Tây Hạ.” Đường Phong lúc này tỏ rõ vẻ đắc ý.

Hàn Giang bừng tỉnh: “Ồ, phía trên bề mặt tấm bia tàn mà chúng ta nhìn thấy trong địa đạo Khương Trại chính là loại văn tự này, còn trên cả kệ tranh ngọc nữa. Mấy chữ trên này nghĩa là gì vậy?”

“Một… Tạng… Đức… Phúc!” Đường Phong phiên dịch từng chữ từng chữ trên vò gốm. Anh lại soi đèn pin hướng về một vò gốm sứ khác: “Một… Tạng… Vũ… Lâm!”

“Nghĩa là gì vậy?” Hàn Giang chờ đợi đã có phần sốt ruột.

“Đều là họ tên của người ta, Một Tạng là họ Đảng Hạng, là một trong tám đại gia tộc Đảng Hạng, cuối cùng là tên của chủ nhân vò gốm sứ, từ những họ tên này có thể nhận ra, tên của người Đảng Hạng sau này đã từng bước được Hán hóa, nhưng vẫn giữ lại họ của người Đảng Hạng, cũng được coi là họ tên Phiên Hán hợp lại.”

“Cái ‘Một Tạng’ này, hình như thời gian trước đây tôi cũng có chút ấn tượng khi đọc sử thi Tây Hạ, nhưng hiện giờ nghĩ không ra…” Hàn Giang cố gắng hồi tưởng lại.

“Khà khà, cái ‘Một Tạng’ này đương nhiên nổi tiếng rồi. Hoàng hậu của hoàng đế Ngôi Danh Nguyên Hạo - khai quốc Tây Hạ, chính là con gái của gia tộc Một Tạng, con trai bà sau này kế tục ngôi vị hoàng đế. Anh trai Một Tạng Ngoa Bàng của bà nắm giữ triều chính hơn hai mươi năm, gia tộc Một Tạng nhất loạt dốc hết quyền lực vào Tây Hạ.” Đường Phong giới thiệu.

“Đúng! Đúng! Chính là gia tộc Một Tạng này, lẽ nào những vò gốm này đều là hậu duệ của gia tộc Một Tạng? Lẽ nào họ chính là nhánh người Đảng Hạng trở lại nơi khởi nguồn của dân tộc Đảng Hạng?” Hàn Giang cảm thấy bất ngờ trước phát hiện này.

Lúc này, phía bên kia đại sảnh trụ cột vang lên tiếng gọi của Makarov: “Ở đây sao lại có nhiều vò gốm thế này nhỉ?”

Hàn Giang và Đường Phong vội vàng chạy tới, trong một góc phía bên kia đại sảnh trụ cột, cũng có hàng trăm chiếc vò gốm đen trắng, những vò gốm này giống hệt với những vò gốm họ phát hiện ban nãy. Sau đó, mọi người lại phát hiện thêm những vò gốm giống thế ở những chỗ khác trong đại sảnh trụ cột. Đường Phong tính toán qua, toàn bộ vò gốm trong này cộng lại cũng phải lên tới hơn 3000 cái. Hơn 3000 vò gốm, cũng chính là hơn 3000 linh hồn đã bay đi. Bốn người nhìn dãy trụ cột và vò gốm thần bí trong đại sảnh hùng vĩ, bất giác chìm trong suy tư, rút cuộc là người nào đã xây dựng nên đại sảnh có nhiều trụ cột hùng vĩ này, và những linh hồn trong những vò gốm này sao lại ngủ yên mãi nơi đây? Đó thực sự có phải là nhánh người Đảng Hạng biến mất mà sử thi đã ghi chép lại không?

11

Thế giới âm u dưới lòng đất, mấy nghìn linh hồn bay đi, bốn người đang ở trong đó, vừa hiếu kỳ, vừa hoảng sợ. Cơ thể Lương Viện đã không còn đủ sức để kiên trì chống chọi với sự ẩm ướt lạnh giá trong thế giới ngầm dưới lòng đất, cô tựa vào một cột đá run rẩy lẩy bẩy. Đường Phong thương xót đỡ lấy Lương Viện, quan tâm hỏi: “Lương Viện, cô có thể gắng gượng được nữa không?”

Lương Viện yếu ớt tới nỗi không nói nên lời, nhưng cô vẫn cố chấp gật gật đầu, còn Hàn Giang lại lắc đầu nói: “Tôi thấy cô ấy không gắng gượng được bao lâu nữa đâu, tạm thời không khám phá bí mật ở đây nữa, đợi khi nào chúng ta ra ngoài sẽ mời chuyên gia và các nhà học giả đến nghiên cứu, còn hiện giờ nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là ra khỏi đây.”

Nhưng điều khiến mọi người ngạc nhiên là dù, họ đã đi một vòng men theo đại sảnh trụ cột, nhưng lại không phát hiện thấy bất cứ lối ra nào. Đường Phong dường như đã hiểu ra, anh nói: “Thảo nào những người Đảng Hạng này có thể ngủ yên ở đây lâu như vậy, vì ở đây ngoài khe đất đó ra, và thủy động trên thác nước thì không có bất cứ lối ra nào khác, như vậy thì sẽ không có người vào được trong này quấy rối linh hồn họ!”

“Vớ vẩn! Nói như cậu thì đương nhiên là hay rồi, nhưng cậu cũng không nghĩ xem, không có lối ra thì những người Đảng Hạng đó vào đây bằng cách nào? Không phải là họ cũng đều chui vào từ cái khe đất đó sao?” Hàn Giang phản bác lại Đường Phong.

Đường Phong lập tức cứng họng, Makarov cũng mụ mị cả đầu óc. Lúc này, Lương Viện nằm trong lòng Đường Phong đột nhiên ấp a ấp úng nói: “Nước… nước… nước…”

Đường Phong nhìn đôi môi trắng bệch của Lương Viện, an ủi cô: “Lương Viện, cô cố gắng thêm chút nữa, đợi chúng ta ra ngoài thì sẽ có nước uống.”

Nhưng Lương Viện vẫn run rẩy đưa cánh tay phải ra, chỉ vào con sông ngầm dưới thác nước: “Nước… sông… sông…”

Đường Phong quay đầu lại nhìn Hàn Giang: “Nước này uống được không? Hay là để tôi thử trước?”

Hàn Giang nhìn sông ngầm trước mặt, rồi lại nhìn Lương Viện, đột nhiên vỗ trán, nói: “Tôi hiểu ra rồi, Lương Viện vốn không phải đòi uống nước, ý cô ấy là tiền nhân khai mở ra đại sảnh trụ cột này đã thông qua con sông ngầm tiến vào đây. Đúng! Nhất định là như vậy, dòng sông ngầm này chắc chắn thông ra ngoài động, mọi người xem, không khí ở đây lưu thông tốt hơn nhiều, tiểu cô nương này quả là thông minh đấy.”

Lương Viện nghe xong lời Hàn Giang nói, đã ra sức gật gật đầu. Hàn Giang lập tức xuống nước, thăm dò độ sâu. Nước hai bên bờ không sâu, chỉ đến mắt cá chân của Hàn Giang. Vậy là, Hàn Giang dặn dò: “Đường Phong, Lão Mã, ba chúng ta buộc dây lên eo để tránh sau khi xuống nước đi lạc. Lần này chúng ta vẫn giống như mấy lần trước, tôi vẫn đi đầu, Lão Mã đi cuối cùng. Đường Phong, vất vả cho cậu rồi, cậu cõng Lương Viện đi giữa, mọi người nhất định phải trợ giúp lẫn nhau, không được để ai rời khỏi đội hình.”

Dặn dò xong, Hàn Giang một mình đeo hai chiếc ba lô to xuống nước trước tiên, Đường Phong cõng Lương Viện đi sau, Makarov mò xuống nước cuối cùng.

12

Chẳng mấy chốc, bốn người đã tiến vào sông ngầm trong huyệt động, đại sảnh trụ cột và thác nước dần dần biến mất phía sau lưng, xung quanh lại là một vùng tối đen, chỉ có ánh sáng đèn pin soi về phía trước. Hàn Giang đi đầu, dường như mọi việc đều thuận lợi, anh dần dần hồi phục lại sự tự tin đã mấy lần mất đi trong hang động tối đen. Anh nói: “Giờ thì tôi càng lúc càng chắc chắn, con sông ngầm này thông ra ngoài động, mọi người xem, dưới sông không có cột đá mà chúng ta nhìn thấy dưới hồ nước ngầm, đều chỉ là những tảng đá rất bình thường, hơn nữa nước cũng không sâu, có khi chẳng mấy chốc chúng ta sẽ ra khỏi đây…”

Hàn Giang vừa nói đến đây, đột nhiên lảo đảo, xém chút nữa đã ngã nhào xuống nước. Đường Phong ở phía sau hỏi: “Anh sao thế?”

Hàn Giang đứng vững lại, nhìn xuống dưới chân, trả lời: “Không có gì, mọi người đến đây phải cẩn thận, nước ở đây khá sâu, nước ngập tới đầu gối của tôi rồi.”

Mọi người tiếp tục đi về phía trước. Hàn Giang hốt hoảng phát hiện ra, từ chỗ ban nãy đi tiếp lên, dòng sông ngầm càng lúc càng sâu, bản thân anh bước thêm mỗi bước lên phía trước thì mực nước lại cao thêm một bậc: đầu gối - đùi - thắt lưng... Hàn Giang vừa hồi phục sự tự tin, lúc này đã lại bắt đầu chán nản, nhưng anh vẫn tỏ ra can đảm, dò dẫm tiến lên phía trước, mãi cho đến khi nước sông gần tới ngực, thì rút cuộc Hàn Giang mới dừng lại. Ở đằng sau, Đường Phong lớn tiếng gọi: “Thế này là thế nào? Sao nước mỗi lúc mỗi sâu vậy, dòng sông ngầm này rút cuộc thông tới đâu?”

Hàn Giang không biết nên trả lời thế nào. Anh sững sờ nhìn bóng tối đặc quánh trước mặt. Nước sông róc rách chảy qua ngực anh, chốc chốc lại có vài con cá trắng bệch bơi quanh anh. Dòng sông ngầm này rút cuộc thông tới đâu đây? Hiện giờ, mình nên làm thế nào?... Đột nhiên, một cơn gió mát thổi tới, Hàn Giang rùng mình một cái, anh quyết định, đi tới chỗ kề sát vách động, nước sông ở đây nông hơn một chút. Hàn Giang gỡ ba lô xuống, tháo sợi dây buộc trên lưng ra, sau đó buộc hai chiếc ba lô to lên sợi dây, quay lại hét về phía Đường Phong và Makarov: “Mọi người đứng nguyên ở vị trí cũ đừng di chuyển! Tôi tiến lên phía trước thăm dò đường.”

Đường Phong và Makarov cũng chẳng còn cách nào khác, chỉ biết chăm chú nhìn Hàn Giang bơi đi rồi dần dần mất hút khỏi tầm mắt họ…

Năm phút trôi qua, Đường Phong vẫn không thấy bóng dáng Hàn Giang đâu. Trong huyệt động tối đen tĩnh lặng, chỉ trừ tiếng nước chảy, thì chỉ có tiếng tim đập và tiếng thở của mấy người. Lương Viện nằm trên lưng Đường Phong, đã ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, đột nhiên khẽ kêu lên một tiếng, hình như là mới tỉnh lại, miệng lẩm bẩm ấp úng hỏi Đường Phong: “Chúng ta đang ở đâu rồi?”

Đường Phong vội vàng an ủi Lương Viện: “Chúng ta sắp ra ngoài rồi, cố gắng thêm chút nhé.”

Nghe thấy Đường Phong nói vậy, Lương Viện lại thiếp đi. “Sắp ra ngoài rồi?” Đường Phong ngẫm nghĩ câu mình vừa nói, bất giác bật cười. Dòng sông ngầm này càng đi nước càng sâu, vẫn còn chưa biết sẽ thông đến đâu, muốn ra bên ngoài, quả một suy nghĩ viển vông không chút hiện thực!

“Đường Phong, Lão Mã, tôi nhìn thấy ánh sáng rồi, dòng sông này thông ra bên ngoài, phán đoán của chúng ta không sai.” Phía trước đột nhiên vọng lại tiếng gọi phấn khởi của Hàn Giang, Đường Phong và Makarov ngạc nhiên vui mừng, ngay lúc đó lại nghe thấy giọng của Hàn Giang: “Mọi người đi bám vào vách động, ở đó nước không sâu, đừng có quên hai cái ba lô đấy.”

Đường Phong và Makarov dò dẫm men theo vách động tiến lên phía trước. Makarov cầm ba lô của Hàn Giang và Đường Phong. Đường Phong cõng Lương Viện, họ đi theo dòng sông ngầm, rẽ qua một ngã rẽ, sau mười phút dài đằng đẵng, rút cuộc đã nhìn thấy ánh sáng mà bao lâu nay chưa được nhìn thấy…
 

hoahongden12

Active Member

1

Mặt trời mới mọc, ánh nắng ấm áp vương trên một vùng hồ tĩnh lặng, mặt hồ dưới ánh nắng hiện lên đủ màu, ngũ sắc lấp loáng. Xung quanh hồ là những dãy núi trùng trùng điệp điệp và rừng nguyên thủy rậm rạp. Phóng tầm mắt, không thấy bến bờ, phía xa xa, một ngọn tuyết sơn nguy nga, trên tuyết sơn, mây khói lượn quanh, đỉnh núi ẩn mình trong đó, không rõ hình thù. Phàm là ai nhìn thấy cảnh đẹp này, cũng đều có một cảm giác bất ngờ như tiên cảnh.

Vào lúc này, Đường Phong, Hàn Giang, Makarov và đương nhiên có cả Lương Viện đang mê man bất tỉnh nằm trên lưng Đường Phong, họ đang đứng giữa tiên cảnh này. Từ sông ngầm lạnh thấu xương dưới lòng đất, được lên tới mặt hồ ấm áp, nước vẫn là nước đó, nhưng lại là hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Ba người ngâm mình trong nước hồ ấm áp, quên đi sự ẩm ướt lạnh giá của huyệt động trong lòng đất, quên rằng họ đã từng bị truy sát, bởi họ hoàn toàn đã bị cảnh đẹp trước mắt chinh phục.

“Ở đây quả thực quá đẹp!” Hàn Giang khẽ trầm trồ.

“Đúng vậy! Ở đây khiến tôi nhớ tới truyền thuyết đào nguyên ngoại thế của Trung Quốc cổ đại.” Makarov tiếp lời.

“Không! Đây không chỉ là đào nguyên ngoại thế, mà còn là tiên cảnh nhân gian!” Hàn Giang lại nói.

Lúc này, Lương Viện vốn đang mê man bỗng bật tiếng rên đau đớn, ba người lập tức ý thức được vấn đề nan giải của họ không thể nhờ cảnh đẹp mà giải quyết được, Lương Viện cần phải được kịp thời chữa trị, nhưng ở đây lại là một thế giới hoàn toàn xa lạ, đây là đâu? Đã an toàn hay chưa? Có lẽ, nguy hiểm có thể giáng xuống bất cứ lúc nào!

Đường Phong quay lại nhìn huyệt động tối đen phía sau lưng, nước từ trong sông ngầm từ từ chảy ra, đổ vào hồ dưới chân. Tạm biệt nhé, hang động đá vôi diễm lệ mà đáng sợ! Đường Phong chỉ lên vách đá trên huyệt động, nói với Hàn Giang và Makarov: “Không phải phí lời, mặc nó là đào nguyên ngoại thế hay tiên cảnh nhân gian, chúng ta cũng phải nhanh chóng ra khỏi đây. Đi men theo vách động tiến về phía trước, tôi nghĩ chẳng mấy chốc sẽ lên được bờ.” Hàn Giang và Makarov gật gật đầu, đi theo Đường Phong, lội qua một đoạn nước, vòng qua một eo nước, chẳng mấy chốc, họ đã lên bờ.

Đây là một khu rừng thông. Đường Phong nhẹ nhàng đặt Lương Viện xuống, dựa vào một thân cây thông vươn cao tới trời, bản thân anh cũng đổ người tựa vào Lương Viện, thở hổn hển nói: “Giờ thì chúng ta cũng được coi là ra ngoài rồi nhỉ?”

“Tôi nghĩ chắc là vậy, chỉ có điều vẫn chưa biết đây là chỗ nào.” Hàn Giang phóng tầm mắt ra xa, hy vọng có thể thấy bóng người, nhưng xung quanh chỉ có những rặng núi tĩnh lặng.

“Chúng ta đã đi trong động bao lâu nhỉ?” Đường Phong lại hỏi.

“Bây giờ là sáng sớm, nói như vậy, chúng ta đã ở trong động một ngày một đêm rồi!” Makarov nhìn bầu trời nói.

Hàn Giang lại nói: “Không biết chừng là hai ngày hai đêm, cũng có khả năng là ba ngày ba đêm!”

“Anh điên rồi, sao lại như thế được?” Đường Phong và Makarov chỉ coi như Hàn Giang đang trêu chọc.

“Tạm thời không quan tâm chúng ta đi được mấy ngày mấy đêm, tuy hiện tại chúng ta đã ra được khỏi động đá vôi, nhưng vẫn chưa đến được nơi an toàn.” Nói xong, Hàn Giang nhìn Lương Viện, rồi lại lo lắng ưu tư nói: “Lương Viện bắt buộc phải được chữa trị ngay, nếu không thì…”

Đường Phong cũng nói: “Đúng vậy! Tôi sợ Lương Viện sẽ không gắng gượng được bao lâu nữa, nhưng xung quanh đây lại là rừng rậm nguyên sơ không biên giới, chúng ta nên đi về đâu đây?”

“Phải tìm một con đường cái đã, nếu không thì chúng ta bị lạc đường trong núi mất.” Hàn Giang gật đầu nói.

“Tốt nhất là có thể tìm được mấy người dân địa phương ở đây để hỏi xem sao.” Makarov đề xuất.

“Nhưng ở đây đến một bóng người cũng không thấy…” nói tới đây, Hàn Giang ban nãy vừa mới nói oang oang bỗng im bặt, đột nhiên chỉ lên vách núi trước mặt, hét lên với Đường Phong và Makarov: “Mọi người xem, trên đó có người!”

Đường Phong và Makarov cùng nhìn về phía vách núi trước mặt, cũng chính là trên vách đá cheo leo trên hang động tối đen, đang có hai người đứng trên đó…

2

Do khoảng cách quá xa, hội Đường Phong nhìn không rõ hình dáng của hai người đó. Hàn Giang và Makarov vội vàng lục ống nhòm trong ba lô ra. Makarov nói: “Có khi nào là hai gã mà chúng ta nhìn thấy trên núi Khương Trại không nhỉ?”

Hàn Giang nhìn ngay ra chiếc ống nhòm quân dụng của mình, nấp sau một thân cây to, nhìn hướng về vách núi trước mặt, nhưng anh thất vọng phát hiện ra ống nhòm quân dụng của mình đã bị nước ngấm vào trong làm mặt kính mù mờ không nhìn rõ được gì, chỉ có thể loáng thoáng nhìn thấy có hai người trên vách núi đối diện.

“Nhìn quần áo thì thấy không giống với hai người mà chúng ta gặp tại Khương Trại.” Lúc này, Makarov cầm chiếc ống nhòm hình bình rượu của ông nói.

Hàn Giang nhìn nhìn chiếc ống nhòm trong tay Makarov, chửi rủa: “Mẹ kiếp, vẫn là đồ của Tây tốt hơn!”

“Là một nam một nữ, mặc kiểu quần áo quái dị, giống như áo choàng mà người dân tộc Tạng hay mặc, nhưng lại có điểm rất khác.” Makarov vừa nhìn vừa giới thiệu.

Đường Phong nghe mà thấy sốt ruột, nói một câu: “Cho tôi mượn một chút!” rồi giật ngay lấy chiếc ống nhòm hình bình rượu trong tay Makarov, hướng về phía vách núi trước mặt, Makarov chỉ biết bó tay lắc đầu.

Quả nhiên đúng như Makarov nói, trên một vách đá cheo leo trên vách núi trước mặt đang có hai người, một nam một nữ đứng đó. Từ trang phục của hai người cho thấy, quả thực có chút kì dị, nhìn lướt qua thì thấy rất giống áo choàng của người Tạng, nhưng quan sát kỹ thì lại phát hiện ra trang phục mà họ mặc vừa không giống áo choàng của người Tạng, cũng không giống trang phục truyền thống của dân tộc Khương. Đôi nam nữ này tay trong tay, hướng về phía hồ… Họ dường như không phát hiện ra bốn người bên cây thông trước mặt. Đường Phong đoán định, đôi nam nữ này chắc chắn không phải là hai người gặp ở Khương Trại. Chỉ có điều, anh không biết, hai người đó đứng trên vách núi để làm gì.

Đột nhiên, Đường Phong nghe thấy một tiếng thét xé rách tâm can, tiếng thét này từ trên vách núi đó vọng lại, nhưng không phải tiếng thét của đôi nam nữ đó, qua ống nhòm, Đường Phong nhìn thấy trên vách núi, đôi nam nữ nghe thấy tiếng kêu thất thanh liền quay đầu lại nhìn. Đường Phong vội vàng di chuyển ống nhòm sang bên trái vách núi thì chỉ thấy bên trái vách núi, giữa những vách đá cheo leo có một con đường nhỏ quanh co, một thiếu nữ đang khóc thét lên, chạy thục mạng về phía đôi nam nữ, thiếu nữ đó ăn vận gần giống với cô gái trên vách núi. Đường Phong không nghe rõ thiếu nữ đó đang hét cái gì. Mấy người này là ai? Họ đang định làm gì?

Trong lúc Đường Phong đang hoài nghi, thì bên cạnh đột nhiên vang lên tiếng kêu thất thanh của Hàn Giang và Makarov. Đường Phong giật bắn mình, đợi đến khi anh nhắm thẳng ống nhòm về phía vách núi thì đôi nam nữ trên vách núi đó đã vĩnh viễn mất hút trong ống nhòm rồi, rồi sau đó, mặt hồ dưới vách núi bắn tung lên hai làn nước - đôi nam nữ đó đã nhảy xuống vực rồi!

Tất cả những điều này đều xảy ra trong giây lát, khiến Đường Phong, Hàn Giang và Makarov vô cùng kinh ngạc. Ba người há hốc miệng, mặt hốt hoảng. Không ai ngờ rằng, họ vừa mới thoát ra khỏi hang động đá vôi khủng khiếp, đến được nơi tươi đẹp thế này, trong một buổi sáng ngập tràn nắng vàng mà lại gặp phải sự việc đáng sợ như vậy!

Trước mắt Đường Phong hiện lên cảnh tượng khủng khiếp khi Tề Ninh rơi từ trên lầu xuống mấy tháng trước, chỉ có điều, lần này còn lạnh gáy hơn, khiến anh nổi da gà hơn...

3

Trên vách núi đối diện, chỉ còn lại thiếu nữ một mình gào khóc. Đường Phong đặt ống nhòm xuống, nói với Hàn Giang và Makarov: “Tôi muốn đến đó xem sao, tốt nhất là tìm được cô gái đó hỏi thăm xem rốt cuộc là chuyện gì?”

Nói xong, Đường Phong lại cầm ống nhòm hướng về phái vách núi, muốn xác định thêm lần nữa phương hướng, nhưng lúc này, thiếu nữ vừa mới khóc lóc trên vách núi đã lại mất tích khỏi tầm ngắm ống nhòm! Lần này lại chỉ trong giây lát, mọi thứ đều trở lại bình thường, giống như chưa hề xảy ra chuyện gì cả, mặt hồ lại yên bình dưới ánh nắng, màu sắc tươi đẹp luôn biến đổi, những rặng núi xa xăm vẫn tĩnh mịch yên ắng. Rõ ràng Đường Phong không dám tin vào mắt mình, anh ra sức chớp chớp mắt, lẽ nào tất cả những chuyện này đều là ảo giác của bản thân? Lẽ nào tất cả những chuyện này đều chưa từng xảy ra?

Không! Hàn Giang và Makarov cũng đều nhìn thấy mà. “Cô gái đó không thấy đâu nữa rồi, cậu có định đến đó nữa không?” giọng Makarov vang lên sau lưng.

“Thật quá kỳ lạ, ban nãy cô gái đó vẫn còn trên vách núi, sao bây giờ đã lại không thấy đâu nữa nhỉ?” Đường Phong nghi ngờ nói.

“Tôi đang nghĩ, mấy người đó là ai nhỉ?” Hàn Giang hỏi.

“Khu vực gần Lang Mộc Tự đều là người dân tộc Tạng, nhưng vấn đề là, hiện nay chính chúng ta cũng không biết mình đang ở đâu?” Đường Phong nói.

Hàn Giang lắc đầu: “Rất kỳ lạ, xung quanh Lang Mộc Tự toàn là thảo nguyên, nhưng địa hình ở đây hoàn toàn không giống với địa hình xung quanh Lang Mộc Tự, vùng núi tĩnh mịch, hồ nước diễm lệ, rất giống với… giống với Cửu Trại Câu mà tôi từng đến.”

“Không thể như vậy được, Cửu Trại Câu cách Lang Mộc Tự mấy trăm ki lô mét.” Đường Phong nói.

“Tôi biết đây không phải là Cửu Trại Câu, chỉ có điều ở đây kì lạ quá.” Hàn Giang lẩm bẩm.

“Hay là kiểm tra qua một chút trang thiết bị, không biết chừng ở đây có thể nhận được tín hiệu GPS.” Makarov nhắc nhở Đường Phong.

Đúng vậy! Nếu như có thể nhận được tín hiệu GPS thì không phải sẽ biết được vị trí chính xác ở đây sao? Đường Phong tìm thấy máy nhận tín hiệu GPS trong ba lô, máy nhận tín hiệu bị nước vào, nên màn hình có chút mờ ảo, nhưng anh vẫn kinh ngạc vui mừng phát hiện ra ở đây có thể nhận được tín hiệu GPS, tuy chỉ thấy trên màn hình GPS mờ ảo hiện lên các đường kinh độ, vĩ độ. Hàn Giang lập tức tìm bản đồ quân dụng chống thấm nước ra để so sánh, nhưng khi anh căn cứ kinh vĩ độ hiển thị trên máy nhận tín hiệu GPS để tìm thấy vị trí tương ứng trên bản đồ, thì anh và Đường Phong lập tức ngạc nhiên đến ngớ cả người, bởi vì căn cứ theo kinh vĩ độ hiển thị trên GPS rồi đối chiếu với bản đồ thì cho thấy vị trí hiện nay của họ, hóa ra là ở khu vực thượng lưu sông Bạch Hà, cách phương hướng tây nam của Lang Mộc Tự hơn vài trăm ki lô mét.

“Sao chúng ta có thể đi xa như vậy nhỉ?” Hàn Giang không thể tin nổi.

“Lẽ nào chúng ta quả thật không chỉ đi một ngày một đêm trong sông ngầm?” Makarov chìm đắm trong suy tư.

Đường Phong tỉ mỉ quan sát bản đồ, hy vọng trên bản đồ có kí hiệu đánh dấu, chỉ ra một con đường, nhưng dù anh có nhìn đi nhìn lại cẩn thận đến đâu thì căn cứ theo kinh vĩ độ hiển thị trên GPS, khu vực này trên bản đồ quân dụng hóa ra lại là một vùng trống trơn, không có bất kì kí hiệu nào có giá trị. “Lẽ nào ở đây chưa từng có người tới?” Đường Phong lẩm bẩm.

“Không thể, chắc chắn là máy nhận GPS bị ngâm nước hỏng rồi.” Hàn Giang nói.

“Tôi cũng nghĩ như vậy, kinh vĩ độ hiển thị trên máy nhận tín hiệu GPS chắc chắn có vấn đề.” Makarov đồng ý với ý kiến của Hàn Giang.

Đường Phong gật gật đầu: “Ừm! Chỉ có cách giải thích như vậy, tôi muốn lập tức đến vách núi trước mặt xem sao, không biết chừng còn có thể gặp lại cô gái ban nãy, hai người ai đi theo tôi.”

“Dĩ nhiên là tôi rồi!” Hàn Giang lần sờ khẩu súng giắt ở thắt lưng.

“Nhưng Lương Viện cần có người chăm sóc.”

Nói xong, Đường Phong đưa mắt nhìn Hàn Giang rồi lại chuyển sang nhìn Makarov. Hàn Giang cũng quay đầu lại nhìn Makarov, Makarov đan tay vào nhau, nói: “Các cậu cứ yên tâm đi đi, tiểu cô nương này giao cho tôi!”

Đường Phong lại nhìn nhìn Hàn Giang, anh vẫn nghi ngờ ông lão người Nga Makarov này, anh muốn có được sự khẳng định từ Hàn Giang, Hàn Giang khẽ gật đầu, Đường Phong lúc này mới nói với Makarov: “Vậy thì trông cậy vào bác rồi.”

Ba người thương lượng quyết định, Đường Phong và Hàn Giang mang theo súng rồi đi tìm vách núi phía trước mặt.

4

Đường Phong và Hàn Giang đi trên con đường nhỏ khúc khuỷu trên vách núi, con đường mòn ẩn hiện trong lùm cỏ, nếu không tìm kĩ thì chắc chắn sẽ không phát hiện thấy sự tồn tại của nó. Phía dưới con đường chính là vực thẳm cheo leo. Đường Phong và Hàn Giang cẩn thận rón rén đi sát mép vực thẳm. Cả hai không ai nói chuyện, cũng không có tâm trạng nào dừng lại để thưởng thức cảnh sắc xung quanh, chỉ chăm chăm cắm cúi bước đi.

Con đường mòn bên vách núi uốn lượn quanh co, thay đổi theo địa hình núi, mỗi khi đến ngã rẽ, Đường Phong đi đầu lại bất giác lại trở nên lo lắng, sợ rằng mỗi lần rẽ như vậy sẽ đột nhiên xuất hiện một ai đó chặn đứng đường đi. Núi trước mặt mỗi lần thay đổi địa hình, hay con đường mòn lại đến một ngã rẽ là tim Đường Phong lại giật thót lên, rồi lại lo lắng ở đó có một người đột nhiên xuất hiện, nhưng khi anh đột ngột rẽ vào một khúc quanh thì trên con đường tĩnh lặng vẫn không một bóng người, chỉ có tiếng gió thổi qua những lùm cây văng vẳng bên tai.

Đường Phong và Hàn Giang đã có thể nhìn thấy nơi mà đôi nam nữ lúc nãy nhảy xuống vực, ở đó có một tảng đá to nhô ra mặt hồ, bề mặt tảng đá đó nhẵn nhụi trơn bóng, tỏa ra ánh sáng kì dị dưới ánh nắng. Đường Phong và Hàn Giang đứng trên tảng đá to đó, đây chính là nơi mà ban nãy đôi nam nữ nhảy xuống vực, hai người nhìn xung quanh nhưng không hề phát hiện ra điều gì khác thường, dùng ống nhòm soi Makarov và Lương Viện bên cây thông, mọi thứ đều bình thường, tiếp tục dùng ống nhòm soi ra xa, trong ống nhòm, chỉ có những dãy núi trùng trùng điệp điệp, không thấy lấy một bóng người.

Đột nhiên, Đường Phong cảm thấy có điều gì đó không bình thường. Anh buông ống nhòm xuống, kinh ngạc phát hiện ra, trên bầu trời đang trong xanh nắng vàng, đột nhiên có một đám mây đen bay tới, che lấp ánh nắng, cả bầu trời bỗng tối sầm lại. Trong rừng cây, gió gào thét, gió thổi mạnh tới mức Đường Phong và Hàn Giang không mở nổi mắt. Cuồng phong từ từ qua đi, Đường Phong lúc này mới than vãn: “Thời tiết thật kì dị!”

Anh và Hàn Giang thu hết can đảm, từng bước từng bước dịch về phía mép tảng đá, thò đầu ra ngoài nhìn. Đường Phong chỉ cảm thấy chóng mặt, xém chút nữa là ngã lộn nhào, nên anh vội vàng lui lại, quay đầu lại nhìn Hàn Giang. Không biết từ lúc nào, Hàn Giang đã ngồi xổm xuống tảng đá, ôm lấy ngực, mặt trắng bệch, vẻ mặt vô cùng khổ sở. Đường Phong chưa bao giờ nhìn thấy bộ dạng Hàn Giang như thế này, anh vội vàng quan tâm hỏi: “Anh sao thế?”

Hàn Giang đợi sắc mặt ổn hơn chút, mới đáp lại: “Không sao cả, chỉ có chút khó chịu thôi. Tôi cũng không hiểu tại sao, nhìn từ dưới lên ở đây không hề cao, lúc lên thì mới phát hiện trên này cách mặt nước cao như vậy!”

“Ừm!” Đường Phong lại thử thò đầu ra, nhìn xuống mặt nước, đột nhiên, anh trợn trừng mắt, bởi anh đã nhìn thấy trên mặt hồ đang có hai cái xác một nam một nữ nổi lên. Điều càng khiến anh không thể tin nổi là, mặt hồ ban nãy dưới ánh nắng ngũ sắc lấp loáng, trong giây phút này lại biến thành một vùng nước đen sì mà ai nhìn xuống cũng sẽ thấy khiếp sợ, hình như sâu không thấy đáy. Đường Phong lại cảm thấy choáng váng.

Hàn Giang cũng nhìn thấy tất cả, hai người lùi lại, đều rệu rã ngồi bệt trên tảng đá. Đường Phong không hiểu bèn hỏi: “Nghe thì có vẻ như chúng ta đã trải qua rất nhiều khảo nghiệm rồi, xác chết cũng nhìn thấy vô số, vách núi cũng leo trèo không ít, mà sao đứng ở đây phản ứng lại mãnh liệt như vậy nhỉ?”

Hàn Giang thở hổn hển, lắc đầu nói: “Tôi không biết, cả đoạn đường này, từ khi máy bay hạ cánh, đến Khương Trại, Lang Mộc Tự, rồi lại đến đại khe sâu Nạp Ma, đại hang động đá vôi, rồi đến đây, tôi đã trải qua rất nhiều chuyện không thể tưởng tượng nổi, kinh nghiệm tôi tích lũy hơn chục năm nay mà hiện giờ dường như cũng không còn nhanh nhạy nữa.”

Đường Phong đứng dậy, nhìn ra xung quanh, con đường mòn lúc đến tới đây là kết thúc rồi, xem ra con đường mòn này dẫn lên trên tảng đá lớn, ngoài ra, ở đây không có con đường nào khác. Đường Phong càng thêm nghi hoặc: “Ở đây chỉ có con đường mòn lúc đến, cô gái ban nãy khóc lóc ở đây đi đâu mất rồi nhỉ?”

“Lẽ nào cô gái ấy cũng nhảy xuống rồi?” Hàn Giang nói.

Lời nói của Hàn Giang khiến Đường Phong toàn thân run rẩy, anh cảm thấy sởn hết cả da gà.

5

Đường Phong nghi ngờ đứng thẳng dậy, lại lần nữa tiến ra sát mép tảng đá, nhìn xuống dưới, trêm mặt nước quả thực chỉ có hai thi thể một nam một nữ, không có thi thể thứ ba. Anh và Hàn Giang tìm kiếm kĩ trong những lùm cây quanh tảng đá, toàn là rừng rậm nguyên sơ rậm rạp, không có dấu vết chứng tỏ có người đi qua. Hai người quay trở lại bên tảng đá. Hàn Giang đột nhiên chỉ xuống một hòn đá nham thạch phía dưới mép tảng đá nói: “Ở đó có đường không nhỉ?”

Đường Phong tiến lại gần quan sát một lượt, quả quyết nói: “Không thể, trên vách đá làm sao có đường được chứ? Cứ coi như là có đường đi chăng nữa thì cũng cực kỳ vất vả vì cheo leo hiểm trở, nên chỉ có khỉ mới đi được trên đấy.”

Hai người không biết làm gì trên tảng đá, đành phải men theo đường cũ quay về, rồi cả hai người họ cùng cảm thấy kì lạ ở chỗ, sau khi từ trên vách núi đi xuống, đám mây đen bao trùm mặt hồ trên bầu trời đã tản mất, ánh nắng lại chiếu sáng mặt hồ, mặt nước lại lấp lánh đủ màu sắc diễm lệ.

Trong rừng thông, mọi việc đều bình thường. Lương Viện vẫn hôn mê, Đường Phong lấy tay sờ lên tráng Lương Viện, hình như không còn nóng như trước nữa, lúc này Lương Viện càng giống như là đang ngủ say. Makarov hỏi: “Các cậu đã phát hiện được gì vậy. Tìm thấy cô gái đó chưa?”

Hàn Giang lắc lắc đầu: “Chúng tôi chỉ nhìn thấy thi thể của đôi nam nữ nhảy vách đá, nhưng không nhìn thấy cô gái đó.”

“Mọi thứ quả thật quá kì lạ, cô gái đó chạy đi đâu mất nhỉ? Ở đây yên tĩnh quá, hình như trừ chúng ta ra, thì chẳng có ai khác, nhưng rõ ràng chúng ta đã nhìn thấy những người kì lạ đó.” Đường Phong nói. “Nhưng chuyến đi này không phải là không có chút thu hoạch nào, trên vách đá chúng tôi đã nhìn thấy vùng mặt hồ mênh mông, vị trí của chúng ta hiện nay là đang ở hạ lưu của hồ, thượng lưu không nhìn thấy bờ, vẫn chưa biết được cái hồ này rốt cuộc rộng thế nào.”

Hàn Giang lại nói: “Thượng lưu không nhìn thấy bờ, hạ lưu cũng không nhìn ra, nước hồ rút cục chảy về đâu, hình như nước ở hạ lưu đều biến mất rồi!”

“Lẽ nào đây chỉ là một hồ nước khép kín? Lại là một hồ nước kì lạ!” Makarov than thở.

Ba người nhìn nhau, trầm ngâm hồi lâu, đột nhiên, một chuỗi âm thanh vang lên phía mặt hồ. “Có người!” Ba người vội vàng nấp sau một tảng đá to ven hồ, nhìn về phía mặt hồ. Âm thanh trên mặt hồ càng lúc càng vang to, hình như có người đang đánh trống. Chẳng bao lâu sau, ba người phát hiện ra, trên mặt nước không biết từ đâu bỗng mọc ra mấy chiếc thuyền, trên thuyền quả thực có người đang đánh trống, còn có người lớn tiếng hô hào, dồn sức chèo thuyền. Mấy chiếc thuyền chèo nhanh đến vách núi thì đậu lại, Đường Phong dùng ống nhòm nhìn về phía đó, “Thật là một đám người kì lạ, họ ăn mặc gần giống như đôi nam nữ vừa nhảy xuống vực.”

“Khả năng đây là trang phục của người dân địa phương!” Hàn Giang suy đoán.

“Họ đang làm gì vậy?” Makarov bị Đường Phong giành lấy ống nhòm vội vã hỏi.

“Vớt xác trên mặt nước, nhưng sao lại đánh trống ầm ầm vậy?” Đường Phong nhìn thấy cảnh tượng kì dị qua ống nhòm.

“Thế là thế nào? Có người chết không đau buồn mà còn đánh trống ầm ầm như vậy nhỉ?” Hàn Giang thấy vô cùng khó hiểu.

“Tôi nói rồi, tất cả mọi chuyện đều rất kỳ lạ… họ vớt hai cái xác lên, bắt đầu quay về, vẫn đang đánh trống ầm ầm, không thấy bất cứ vẻ đau buồn nào.” Đường Phong tiếp tục giải thích.

Đường Phong cầm ống nhòm, im lặng hồi lâu, khiến Hàn Giang và Makarov vô vùng sốt ruột. Hàn Giang không đợi được nữa, liền hỏi: “Cậu nói gì đi chứ? Đám người đó đi đâu rồi?” Hàn Giang thúc giục.

“Nếu như tôi không nhìn nhầm thì chắc là họ đã chèo tới một vịnh nhỏ cách chỗ chúng ta không xa lắm, ở đó khả năng có thôn xóm của người địa phương, cũng khả năng là... Tôi nghĩ chúng ta nên đến đó xem sao, có lẽ sẽ sáng tỏ ra đôi chút vấn đề.” Đường Phong ngập ngừng một lúc, rồi quay lại nói với Hàn Giang: “Thấy được không? Hai chúng ta đi một chuyến.” Nói xong, Đường Phong rút súng ra, kiểm tra một lượt băng đạn.

Hàn Giang gật gật đầu, cũng rút khẩu súng ngắn 92 của mình ra, hai người một trước một sau, xuyên nhanh qua rừng thông, chẳng mấy chốc họ đã biến mất trong rừng thông sâu hun hút.

6

Đường Phong và Hàn Giang đi nhanh, thẳng tiến về rừng thông phía trước khoảng nửa tiếng đồng hồ, bên bờ hồ, một bia đá khổng lồ bỗng xuất hiện trước mặt họ. Đường Phong đi lên trước, lần lượt đọc bốn chữ to khắc trên tấm bia đá: THẤT SẮC CẨM HẢI.

“Thất Sắc Cẩm Hải? Xem ra đây chính là tên của vùng hồ này.” Hàn Giang nói.

“Cái tên này được đặt thật xác đáng, Thất Sắc Cẩm Hải, anh xem, mặt hồ dưới ánh nắng quả thật tỏa ra bảy màu sắc.”

Dưới sự chỉ dẫn của Đường Phong, Hàn Giang nhìn thấy, từ góc độ này nhìn ra, hồ nước lúc thì hiện lên màu xanh lá cây nhạt, lúc thì lại là một vùng xanh ngọc bích, chốc chốc lại xanh đen như màu lông chim phỉ thuý, lúc lại là một vùng vàng óng đẹp mê hồn, lúc lại lấp lánh sắc tím thần kỳ, lúc lại đỏ rực như lửa, đương nhiên, cũng không thể thiếu màu đen khiến người ta khiếp sợ!

“Quả nhiên là đào nguyên ngoại thế, thật thần kỳ!” Hàn Giang bất giác khen ngợi.

Hai người lại men theo ven hồ, đi một đoạn về phía thượng lưu, họ phát hiện ra có một thôn xóm tọa lạc trong một vịnh hẹp, những ngôi nhà trong thôn đều được xây cất từ những tảng đá đã được mài giũa, rất giống với nơi ở của người dân tộc Khương. Nhìn tiếp về phía sân bên ngoài thôn xóm, có hàng trăm người đang tụ tập, nam nam nữ nữ đều đang vây quanh một tòa cao đài bằng gỗ, người nói người cười, họ ca hát nhảy múa, vô cùng náo nhiệt.

“Cuối cùng thì cũng nhìn thấy người rồi!” Hàn Giang đã cảm thấy thoải mái hơn.

“Họ đang làm gì vậy?” Đường Phong tò mò hỏi.

“Giống như đang mừng một ngày lễ gì đó.” Hàn Giang suy đoán.

“Nhưng ở đây vừa có người chết, lẽ nào ở đây lại có phong tục như vậy?”

Hàn Giang lườm Đường Phong một cái, nói: “Vớ vẩn! Cậu có thấy ở Trung Quốc có chỗ nào có người chết mà còn reo mừng không? Muốn biết nguyên nhân thì phải đến xem sao.” Nói xong, Hàn Giang thu súng lại, tiến về phía đám người đó.

Đường Phong vội vàng bám theo, bên cạnh. Hai người đứng phía sau đám người này, nhìn vào giữa đám đông, chỉ thấy trong đám người có một giá gỗ cao tới một trượng, dưới giá gỗ chất đầy một đống củi, trên giá gỗ có hai người đang nằm trên đó, toàn thân họ được cuốn lụa ngũ sắc, bên ngoài lụa ngũ sắc còn cuốn cả chăn dạ màu trắng. Đường Phong quan sát kĩ thì mới phát hiện ra, hai người nằm trên giá gỗ chính là đôi nam nữ nhảy xuống vực tự sát. Anh bất giác giật thót mình, những người này đặt xác chết lên giá gỗ, họ muốn làm gì đây? Càng kỳ lạ hơn ở chỗ, những người này không ai có biểu hiện đau buồn trên nét mặt, mà toàn là ca hát nhảy múa, đánh trống uống rượu?

Trong lúc Hàn Giang đang kinh ngạc thì trong đám người, một vị có vẻ như là một thủ lĩnh cao tuổi vạm vỡ, cầm một bó đuốc đã châm lửa đi tới phía cái giá, đưa cánh tay lên vẫy một cái, tất cả mọi người đều yên lặng trở lại. Vị thủ lĩnh đó nói với mọi người: “Đại Lạt ma đang cầu nguyện cho linh hồn người con gái trên giá gỗ này!”

Đường Phong thấy vị thủ lĩnh nói tiếng Hán, nhưng tiếng Hán từ miệng người này phát ra lại biến thành một thứ ngôn ngữ kì quái khiến Đường Phong cảm thấy thật kì lạ. Anh không nghe ra đây là phương ngữ của vùng nào, cũng không hiểu rõ lắm lời của ông ta. Anh quay đầu lại nhìn Hàn Giang, Hàn Giang cũng mụ mị cả đầu óc, cũng không hiểu vị thủ lĩnh này nói gì.

“Xem ra ông ta là người đứng đầu đám người này.” Đường Phong nghĩ tới đây rồi lại nhìn vị thủ lĩnh, chỉ thấy ông ta cầm bó đuốc lên, châm vào giá gỗ cao cao, đồng thời miệng lớn tiếng hét lên: “Bay… lên… trời!”

Giá gỗ bị lửa thiêu cháy, trong ánh lửa bập bùng, mọi người bên giá gỗ giống như trúng tà vậy, hai tay giơ cao, hét lên từng hồi cùng với vị thủ lĩnh đó: “Bay lên trời! Bay lên trời!…”

“Bay lên trời? Nghĩa là gì vậy?” Đường Phong và Hàn Giang nhìn chằm chằm vào ánh lửa ngùn ngụt trước mắt, nghi ngờ không hiểu. Đột nhiên, hai người gần như cùng lúc bừng tỉnh, đây là họ đang đốt thi thể của đôi nam nữ! Chết người, những người này không báo cảnh sát mà lại hỏa thiêu thi thể qua loa như thế sao! Không biết chừng, cái chết của đôi nam nữ này không đơn giản là tự sát vậy đâu!

Đường Phong và Hàn Giang lập tức lao tới, đám đông lúc đó nhốn nháo, Đường Phong đứng dưới giá gỗ, hét lên với mọi người: “Các người làm gì vậy? Chết người không báo cảnh sát mà lại tự mình hỏa thiêu thi thể thế này!” nói xong Đường Phong và Hàn Giang nhặt cành cây lên, lao vào dập lửa, ý định dập tắt đống lửa ngùn ngụt đó.

7

Những người xung quanh giá gỗ đều tận mắt chứng kiến hành động của Đường Phong và Hàn Giang, tất cả đều sững sờ, họ ngớ người nhìn Đường Phong và Hàn Giang giống như nhìn quái vật. Vẫn là vị thủ lĩnh tráng kiện lớn tuổi phản ứng nhanh nhất, người này vô cùng phẫn nộ trước hành động của Đường Phong và Hàn Giang. Ông ta vẫy vẫy tay một cái, từ trong đám đông đã xuất hiện vài thanh niên dáng vẻ hung hãn, mấy thanh niên hung hãn này cùng xông tới một lúc, không đợi Đường Phong và Hàn Giang kịp phản ứng lại đã quật hai người xuống đất. Nếu như trước đây, mấy thanh niên này vốn không phải là đối thủ của Hàn Giang, nhưng hiện nay thì “hổ lạc xuống đồng bằng”, Hàn Giang vừa đói vừa mệt, cơ thể vô cùng yếu đuối, nên khi bị hai thanh niên đè lên người dĩ nhiên không thể động đậy được nữa.

“Các người là ai, dựa vào cái gì mà bắt tôi!... Mau dập tắt lửa đi!” Hàn Giang tuy tay chân đã bất động nhưng miệng vẫn không phục.

Đúng vậy! Cả anh và Đường Phong đều có lý do để không phục, cả hai người đều đã từng chiến đấu với kẻ thù đáng sợ, thật không ngờ lần này lại bị tóm trong tay mấy gã trai miền núi, đúng là lật thuyền trong cống cạn.

Mấy gã trai to khỏe lục được hai khẩu súng ngắn trên người Đường Phong và Hàn Giang, giao cho vị thủ lĩnh. Vị thủ lĩnh kiểm tra qua hai khẩu súng ngắn, cười nhạt, nói với Đường Phong và Hàn Giang một tràng. Đường Phong nghe không hiểu gì, anh cố gắng bình tĩnh lại, hỏi lại ông ta: “Các người rút cuộc là ai? Tại sao lại bắt chúng tôi?”

“Anh hỏi chúng tôi là ai? Ngược lại tôi muốn hỏi các anh là ai?” Vị thủ lĩnh đó đột nhiên đổi giọng, chuyển sang ngôn ngữ mà Đường Phong có thể nghe hiểu nhưng vẫn khiến Đường Phong cảm thấy gượng gạo.

“Chúng tôi là du khách bị lạc đừơng nên mới tới đây.” Đường Phong giải thích.

“Du khách? Hừm! Có du khách mang theo súng sao?” Vị thủ lĩnh vẫn thốt ra những câu bằng tiếng Hán lơ lớ.

“Súng? Nghề nghiệp của tôi là cảnh sát, mang súng theo chỉ là để phòng thân thôi.” Hàn Giang giải thích.

“Tôi không muốn tiếp tục phí lời với các anh nữa, bởi vì tôi cũng không hy vọng nghe được những lời nói thật từ miệng các anh,” giọng ông ta trở nên nghiêm túc, không dễ vặn vẹo để moi ra điều gì.

Đường Phong vẫn đang ra sức giải thích: “Không! Tôi không lừa ông, những gì tôi nói đều là thật, chúng tôi vào nhầm một hang động đá vôi, cũng không biết đã đi bao lâu, cuối cùng thì đi theo một con sông ngầm ra được bên ngoài rồi tới đây.”

Đường Phong không nói còn hơn, người đó vừa nghe thấy động đá vôi một cái, bất giác như nảy bật người lên: “Các anh đã vào động đá vôi?”

“Đúng vậy.” Hàn Giang gật gật đầu.

“Vậy thì các anh đã xâm nhập vào đại sảnh trụ cột thần thánh rồi?” Vị thủ lĩnh truy hỏi.

Đường Phong bật giác giật thót tim, lúc này không biết làm thế nào để trả lời câu hỏi của vị thủ lĩnh, nhưng ông ta đã không cần đến câu trả lời của anh.

Chỉ thấy vị thủ lĩnh lớn tiếng nói với mọi người: “Họ đã xâm nhập vào đại sảnh trụ cột thần thánh, rồi lại phá hoại tang lễ trang nghiêm, đúng là ma quỷ, ma quỷ vô cùng độc ác không thể dung tha!”

“Đúng! Ma quỷ! Ma quỷ độc ác không thể dung tha!” Tất cả mọi người cùng hét lên theo.

Thủ lĩnh lại ra sức vẫy tay, tất cả lại yên lặng, chỉ nghe thấy ông ta chậm rãi tuyên bố: “Vì bọn chúng là ma quỷ, nên chúng ta sẽ phải dùng biện pháp đối phó với ma quỷ để đối phó bọn chúng!”

Cả đám người hoan hô.

Đường Phong và Hàn Giang nhìn nhau, nét mặt chán nản và mông lung, họ không biết đám người này là ai, chờ đợi họ sẽ là hình phạt thảm khốc nào đây. Đúng lúc này, ngọn lửa trên giá gỗ đã dần dần lụi tàn, đôi nam nữ nằm trên đó đã hóa thành tro tự lúc nào, theo gió bay tỏa khắp mặt hồ Thất Sắc Cẩm Hải.

8

Vị thủ lĩnh và bốn thanh niên hung hãn đó nghênh ngang áp giải Đường Phong và Hàn Giang rời khỏi thôn, đi vào khu rừng bên cạnh. Đường Phong không hiểu đám người này muốn dẫn họ đi đâu. Dọc đường đi anh đều suy nghĩ lung tung, nhưng đi mãi, đi mãi, Đường Phong liền phát hiện ra đám người này đang áp giải anh và Hàn Giang đi trở lại theo con đường lúc tới. “Muốn áp giải chúng tôi đi đâu đây?” Đường Phong ngẫm nghĩ, chẳng mấy chốc, anh đã hiểu ra rồi, bởi vì anh đã nhìn thấy Lương Viện đang tựa vào gốc cây bất tỉnh, và cả Makarov đang ngủ gà ngủ gật.

Trước khi nhìn thấy Makarov, trong lòng Đường Phong còn có tia hy vọng, hy vọng Makarov có thể cứu anh và Hàn Giang, nhưng khi anh nhìn thấy Makarov đang tựa vào gốc cây ngủ say thì anh đã thất vọng hoàn toàn. Anh và Hàn Giang bị bịt chặt miệng, mắt mở trừng trừng nhìn hai gã thanh niên hung hãn, cầm dây thừng từng bước từng bước tiến lại gần Makarov đang ngủ say, sau đó nhào đến một cái, đợi tới khi Makarov giật mình bừng tỉnh thì đã muộn rồi, cho dù ông ra sức phản kháng nhưng ông cũng đã bị dây thừng buộc chặt vào gốc cây, Makarov vẫn ra sức giãy giụa, nhưng ông càng giãy mạnh, sợi dây thừng buộc trên người ông càng thắt chặt hơn, ông bất lực hét lên: “Các người là ai? Tại sao lại trói…”

Makarov vẫn chưa hét xong thì đã đột nhiên im bặt, bởi lúc này, ông cũng nhìn thấy Đường Phong và Hàn Giang. Vị thủ lĩnh ngông nghênh ngạo mạn bước tới trước mặt Makarov và Lương Viện, cười lạnh lùng: “Hừm! Ma quỷ, lại thêm hai con quỷ, còn có cả một con quỷ cái!”

Nói xong, ông ta cười phá lên, sau đó dặn dò bốn gã trai tráng hung tợn: “Ta thấy ở đây rất phù hợp, dứt điểm đây luôn đi!”

Bốn gã trai tráng bặm trợn gật gật đầu, cũng trói Đường Phong, Hàn Giang và Lương Viện vào gốc cây, sau đó lấy xẻng sắt cầm trong tay, bắt đầu đào đất. Theo nhịp xẻng sắt đào đất thoăn thoắt, trước mặt cả nhóm Đường Phong, chẳng mấy chốc đã xuất hiện bốn hố đất vừa to vừa sâu. Đường Phong, Hàn Giang và Makarov tất cả đều kinh ngạc sững sờ, họ không hẹn và cùng lúc nghĩ tới hình phạt mà họ sắp phải đối diện - chôn sống!

Nhịp tim ba người đập thình thịch theo nhịp điệu nhảy múa của chiếc xẻng sắt. Đường Phong không thể chịu đựng được nữa, anh hét về phía đám người đó: “Các người là ai? Tại sao lại bắt chúng tôi? Muốn chúng tôi chết cũng phải để chúng tôi chết cho minh bạch chứ!”

Đám người đó nhìn nhìn Đường Phong rồi mặc kệ anh, vẫn tiếp tục đào đất như những cỗ máy. Mười lăm phút sau, bốn cái hố đã được đào xong, bốn gã tráng kiện hung tợn từ từ lui ra phía xa, chỉ còn lại vị thủ lĩnh và bốn người bị trói vào gốc cây, vị thủ lĩnh liền đến đứng cạnh miệng hố đầu tiên, miệng lẩm bẩm rì rầm…

“Ông ta đang làm gì vậy?” Hàn Giang hỏi Đường Phong đang bị trói trước mặt mình.

“Không biết!” Đường Phong lắc lắc đầu.

“Đến giờ mà vẫn không hiểu, là cầu nguyện cho chúng ta trước lúc chết đấy!” Makarov nói.

Hàn Giang cười đau khổ: “Ông cho rằng cái này giống như của các ông, trước khi chết, còn phải tìm mục sư đọc kinh thánh sao? Hiện đang ở Trung Quốc đấy.”

“Suỵt!” Đường Phong đột nhiên ra hiệu cho Hàn Giang và Makarov im lặng. Hàn Giang và Makarov không hiểu là ý gì, nhưng vẫn ngậm miệng lại, cùng nhìn Đường Phong, xem xem anh có cao kiến gì, nhưng chỉ thấy Đường Phong chau mày, chăm chú nghe tiếng niệm lầm rầm đó, dần dần, lông mày Đường Phong giãn nở ra.

Vị thủ lĩnh đứng cạnh cái hố đầu tiên lầm rầm niệm một lượt, rồi lần lượt đến ba cái hố còn lại cũng niệm một lượt. Sau khi niệm xong, ông ta nhìn nhìn bốn người bọn Đường Phong, không nói năng gì. Hàn Giang chịu không nổi, gào lên: “Ông định làm gì chúng tôi? Làm nhanh lên, đừng có chần chừ kéo dài!”

Vị thủ lĩnh cười nói: “Tôi không làm gì các người cả. Đêm nay các người ở lại đây nhé, bầy sói và thú hoang trong núi, còn cả chim ưng trên trời sẽ quyết định số phận các người.”

Nói xong, ông ta không còn để ý đến Hàn Giang nữa mà dẫn mấy gã tráng kiện hung tợn rời khỏi rừng thông. Trong rừng thông hoang vắng chỉ còn lại bốn người hội Đường Phong, dĩ nhiên, bốn người lúc này đều đã bị buộc chặt vào thân cây, không thể động đậy.

9

Đợi mấy người đó đi xa, màn đêm đã buông xuống, Makarov than thở: “Thật là kỳ lạ, bọn họ đào xong mấy cái hố, sao lại không chôn sống chúng ta nhỉ?”

Không ai đáp lại.

Sau một lúc trầm ngâm, Makarov lại hỏi Đường Phong: “Ban nãy cậu đi về phía thượng lưu phát hiện được gì vậy? Sao lại để đám người đó bắt được?”

Đường Phong kể lại cho Makarov nghe những gì mình và Hàn Giang gặp phải trên đường đi. Makarov nghe xong, chau mày, miệng lẩm bẩm: “Thật là một đám người kỳ lạ. Đúng rồi, Đường Phong, ban nãy lão đó miệng lẩm bẩm tụng kinh gì đấy, cậu có nghe được ông ta nói gì không?”

Hàn Giang cũng truy hỏi: “Đúng đấy! Rốt cuộc cậu có nghe rõ không?”

Đường Phong trầm ngâm hồi lâu mới đáp lại: “Ban nãy lão thủ lĩnh đó đứng bên cạnh hố giống như đọc lời nguyền nào đó vậy, cụ thể là gì tôi cũng không nghe rõ lắm, tóm lại, nơi thần bí này còn có cả một đám người kì dị.”

“Phí lời, tôi cũng biết đây là đám dị nhân, chết người rồi mà vẫn còn hát hò nhảy múa reo mừng, mất nửa ngày đào hố, tôi tưởng là muốn chôn sống chúng ta, cuối cùng… cũng không hiểu nổi chúng muốn làm trò gì…” Hàn Giang làu bàu.

“Được rồi! Chúng ta tranh thủ nghỉ ngơi đi, phục hồi thể lực, đợi sáng sớm ngày mai tính tiếp!” Đường Phong ngắt lời Hàn Giang.

Lúc này, phía xa xa dãy núi bỗng vọng lại chuỗi âm thanh khủng khiếp, Đường Phong toàn thân run rẩy, kinh ngạc hỏi: “Tiếng gì vậy?”

“Là tiếng sói hú! Mà không chỉ có một con, mà là cả một đàn sói!” Makarov vẫn giữ được bình tĩnh.

“Ông chắc chắn đây là một bầy sói?” Hàn Giang hỏi Makarov.

“Đương nhiên, bởi vì tôi đã từng nghe không chỉ một lần.” Makarov tự tin nói.

“Áaa! Ở đây có sói thật sao! Vậy thì chúng ta bị buộc vào đây, nếu như bị bọn sói phát hiện ra, thì có khác gì bó tay ngồi chờ chết?” Đường Phong hoảng hốt nói.

“Xem ý trời thôi!” Hàn Giang buột miệng thốt ra một câu, sau đó tựa vào thân cây, nhắm mắt lại.

Màn đêm buông xuống, nhiệt độ trong rừng thông tức tốc hạ xuống, Hàn Giang và Makarov đều đã ngủ say, Đường Phong bị lạnh tới nỗi run lập cập, không thể ngủ nổi, anh lại lo lắng bầy sói không biết lúc nào sẽ tới, không thể không mở mắt, sợ hãi nhìn xung quanh. Bầy sói không hề xuất hiện, xung quanh chỉ có rừng thông vắng lặng tối đen. Đường Phong quả thực quá mệt mỏi rồi, cơ thể lạnh giá và sự sợ hãi trong lòng cuối cùng cũng không thể ngăn cản được đôi mắt của anh khép lại.

Rạng sớm tinh mơ, trên dãy núi phía xa xa, lại vang vọng tiếng sói hú bi thương, Đường Phong giật bắn mình, tỉnh táo trở lại, anh cảnh giác nhìn xung quanh, rừng thông hoang vắng, một vùng tối đen. Bỗng nhiên, anh phát hiện ra trong rừng sâu tăm tối, có những đốm sáng màu xanh nhấp nháy, đó là gì vậy? Trong đầu Đường Phong lập tức lóe lên vài suy nghĩ, sói? Hay là dã thú nào khác? Đường Phong theo phản xạ đứng phắt dậy, nhưng anh vừa mới cử động, sợi dây thừng buộc trên người anh càng thắt chặt khiến anh thêm đau đớn. Đường Phong bất lực tựa vào thân cây, nhìn chằm chằm đốm sáng màu xanh phía trước, đấu mắt với đốm sáng xanh đó hồi lâu, nhưng Đường Phong không thể biết được, nếu như đốm sáng xanh đó thực tiến sát lại mình thì bản thân mình sẽ thế nào đây? Lẽ nào bó tay ngồi chờ chết thế này sao?

Đường Phong không dám nghĩ tiếp nữa, và cứ như vậy sững sờ đấu mắt với đốm sáng xanh đó. Cũng không biết được bao lâu sau, trên không trung tĩnh mịch, đột nhiên có một bóng đen lớn bay qua đỉnh đầu Makarov. Đường Phong ngẩng đầu lên nhìn, nó giống như một con chim ưng, Đường Phong chưa bao giờ nhìn thấy con chim ưng nào to nhường vậy. Trong lúc Đường Phong đang vô cùng kinh ngạc thì bóng đen khổng lồ đó đã lập tức biến mất trên không trung. Đường Phong giật mình nhìn về phía chân trời xa xăm, đến khi anh định thần lại, nhìn về phía rừng rậm thì thấy đốm sáng xanh ban nãy còn nhấp nháy giờ đã không thấy đâu nữa rồi.

Đường Phong thở phào nhẹ nhõm, rồi lại tựa vào thân cây, lại nhắm mắt lại…
 

hoahongden12

Active Member

1

Mặt trời hửng sáng phía đông, ánh nắng ấm áp vương trên mặt hồ, cũng vương trên mặt Đường Phong, Hàn Giang, Makarov và Lương Viện, bốn người đều đã trải qua một đêm khó nhọc. Đường Phong tỉnh dậy, phát hiện Lương Viện bên cạnh mình vẫn hôn mê chưa tỉnh, anh bất giác thấy trong lòng đầy ắp bi quan. Lương Viện vốn đang ốm đau, lại trải qua bao nhiêu dày vò như vậy, xem ra lành ít dữ nhiều. Đường Phong thấy Hàn Giang và Makarov cũng đã tỉnh lại, anh liền hét về phía họ: “Hai người có cách nào tháo dây thừng ra không?”

Không cần Đường Phong hỏi, Hàn Giang và Makarov đều đã ở đó dốc hết sức, định thoát khỏi sợi dây thừng trên người, nhưng hai người họ càng giãy giụa, sợi dây trên người càng thắt chặt, chặt tới nỗi hai cánh tay đều cảm thấy đau đớn.

“Đừng phí công nữa, kể cả các người có khỏe mạnh đến nhường nào cũng không thoát nổi sợi dây thừng này đâu.” Phía xa xa bỗng vang lên giọng nói dường như đã từng quen thuộc, mọi người nhìn lại thì người đang đi tới hóa ra là vị thủ lĩnh hôm qua đã trói họ lại, và cả mấy gã trai vạm vỡ hung hãn nữa.

Vị thủ lĩnh tiếp tục nói: “Dây thừng này được kết thành từ một loại vỏ cây thần trên vùng núi gần đây, kỹ thuật chế tạo vô cùng phức tạp, hoàn toàn được làm thủ công. Trước tiên phải cắt lớp vỏ cây thần xuống, rửa sạch, loại bỏ tạp chất, sau đó phơi khô, cắt thành đoạn nhỏ, rồi lại ngâm trong nước hồ Thất Sắc Cẩm Hải, vớt lên, đan lại, phơi dưới nắng to bảy bảy bốn mươi chín ngày. Sau khi hoàn thành, còn phải phun thuốc lên, loại dây thừng này cực kỳ chắc chắn, kể cả dùng dao sắc đến mấy cắt nó cũng không chắc một nhát là đứt ngay, bởi vậy, bất luận các người dốc sức thế nào cũng đều uổng công mà thôi.”

“Cây thần?... Thả chúng tôi ra!” Ánh mắt Hàn Giang đầy căm thù.

“Các người không phải vội, ta sẽ thả các người, nhưng các người vẫn phải chịu đựng thêm một lúc nữa.”

“Ông thả cho chúng tôi đi sao?” Đường Phong hình như nhìn thấy tia hy vọng.

Vị thủ lĩnh không trả lời câu hỏi của Đường Phong, ông ta lại đi tới trước bốn chiếc hố hôm qua vừa đào, miệng lầm rầm niệm chú, Đường Phong mở to đôi mắt vằn tia máu chứng kiến cảnh tượng này, giờ lại muốn làm trò gì đây? Hôm qua niệm chú xong, hôm nay lại chạy đến đây niệm lần nữa! Anh đột nhiên nhớ lại câu nói ban nãy của vị thủ lĩnh, ông ta sẽ thả họ ra? Vẫn phải chịu đựng thêm một lúc nữa. Thế... thế là ý gì? Đầu óc Đường Phong trống rỗng, tai ù ù, anh cảm giác mình sắp nổ tung đến nơi, anh trợn trừng mắt, đồng tử không ngừng giãn ra... bởi vì anh nghĩ đến nó: Thả chúng tôi? Chịu đựng thêm một lúc nữa? Nghĩa... nghĩa là sắp lập tức chôn sống chúng tôi! Xem ra đêm qua không bị sói ăn thịt, hôm nay cũng không thể thiếu nhát dao này! Đường Phong nhìn chằm chằm vào miệng vị thủ lĩnh, cái miệng đó vẫn đang lầm rầm lẩm bẩm, không ngừng nghỉ. Anh cảm giác những gì từ cái miệng đó niệm ra đều chính là thần chú thắt chặt vòng kim cô của Đường Tăng. Anh không thể chịu đựng thêm được nữa... Nhưng Đường Phong vẫn lắng nghe, lắng nghe, dần dần nghe ra một số điều gì đó; anh nhắm mắt lại, lắng nghe thật kĩ lời nguyền của vị thủ lĩnh, đột nhiên, hình như anh hiểu ra điều gì đó...

Lúc này, Hàn Giang đã không sao chịu đựng được nữa liền gầm gào lên với ông ta: “Muốn chôn sống bọn tao thì nhanh lên, đừng có mà tụng nữa!”

Vị thủ lĩnh không buồn để ý Hàn Giang, vẫn thản nhiên tụng niệm. Đường Phong nghe thấy tiếng gầm gào của Hàn Giang, anh bỗng mở mắt, nói với Hàn Giang: “Không! Ông ta không chôn sống chúng ta đâu.”

“Vậy thì lão ta đang làm gì vậy?”

“Đang đuổi ma quỷ, nếu như tôi không nghe lầm, ông ta đang niệm những thứ trong mấy bộ lời nguyền Tây Hạ ‘Kiến thuận quỷ’, ‘Ma đoạn yếu ngữ’ và ‘Bách tự chú dũng thuận yếu ngữ’. Họ coi chúng ta là ma quỷ, theo như tập tục Tây Hạ cổ xưa, lúc đuổi ma quỷ thì trên đất phải đào hố, đứng bên cạnh họ đọc lời nguyền thì ma quỷ sẽ được đưa xuống hố, như vậy là có thể tiêu diệt...”

Đường Phong nói tới đây thì cũng vừa lúc vị thủ lĩnh đang đọc lời nguyền bên miệng hố bỗng đột nhiên dừng lại quay người bước nhanh vài bước, xông tới trước mặt Đường Phong, túm lấy ngực Đường Phong, nhìn anh chất vấn: “Các người rút cuộc là ai?”

“Tôi còn muốn hỏi ông ý chứ, các người là ai?” Đường Phong không tỏ ra yếu thế, cũng trợn mắt nhìn ông ta.

Vị thủ lĩnh từ từ buông Đường Phong ra, nghiêm giọng hỏi: “Sao ngươi lại biết như thế?”

“Xem ra những gì tôi nói đều là đúng!” Đường Phong ngẩng cao đầu, không khỏi có chút đắc ý.

“Không sai! Ngươi nói đều đúng, kể từ hôm qua các người xâm nhập vào Thất Sắc Cẩm Hải, bọn ta đều coi các người là quỷ, bởi vậy mới đào hố ở đây, đọc lời nguyền để xua đuổi quỷ! Ngươi còn biết được bao nhiêu nữa?”

“Tôi còn biết... Nếu như tôi đoán không lầm thì đôi nam nữ nhảy xuống vực hôm qua đã tự tử vì tình, nhưng các người không hề đau buồn, ngược lại còn nhảy múa uống rượu, đó cũng là tục lệ Tây Hạ cổ xưa.”

“Ta không biết Tây Hạ, Đảng Hạng gì cả, nhưng ngươi nói đúng, bọn ta ở đây từ cổ xưa đến nay đều như vậy, nam nữ vui hoan, không cần phải bi ai, chỉ là họ bay lên thiên quốc, có gì mà phải khóc! Chàng trai trẻ, hãy nói hết ra những gì cậu biết đi, ta muốn biết cậu hiểu biết được bao nhiêu về bọn ta?”

“Tôi biết không nhiều, tuy hôm qua các ông đã bắt chúng tôi, mặc dù vốn không muốn lấy mạng của chúng tôi, nhưng các ông đào mấy cái hố ở đây chỉ là để dọa chúng tôi mà thôi, mau cởi trói cho chúng tôi đi, chúng tôi ở đây còn có một người ốm.” Đường Phong nói.

Vị thủ lĩnh nhìn nhìn Lương Viện đang hôn mê, rồi lại lạnh lùng cười với Đường Phong, đáp: “Chàng thanh niên, cậu biết cũng đủ nhiều rồi đấy, nhưng có một chuyện cậu đã nói sai rồi, bọn ta đào hố ở đây là để đuổi quỷ, quả thật không phải để chôn sống các cậu, nhưng điều này không có nghĩa là ta không muốn lấy mạng các người!”

2

“Cái gì? Ông vẫn muốn giết chúng tôi?” Đường Phong toàn thân run rẩy.

“Không! Không! Không! Cậu nói sai rồi, không phải ta giết các cậu, ta cũng không thể giết các cậu, đêm qua ta trói các cậu ở nơi này là muốn bầy sói ở đây, và cả chim ưng trên trời nữa sẽ nếm thử mùi vị của các cậu. Nếu như bốn người các cậu trở thành bữa ăn của bầy sói và chim ưng thì mấy cái hố này của ta cũng không phải là uổng công đào.”

“Ý ông là, sẽ chôn đống xương tàn của chúng tôi bị bầy sói và đám chim ưng ăn thừa xuống mấy cái hố này?” Nghĩ tới đây, Đường Phong liền cảm thấy nổi da gà.

“Đúng vậy, ta vốn nghĩ rằng sáng nay đến đây sẽ nhìn thấy đống xương tàn của các người mà sói ăn thừa.”

“Vậy thì chúng tôi làm ông thất vọng rồi?”

“Các người đã làm ta thất vọng, các người vẫn sống sờ sờ, quả thật là ma quỷ mà ưng sói cũng không ăn! Đến cả sói ác và chim ưng mà cũng không dám lại gần các người. Bởi vậy ban nãy ta lại vừa đọc thêm một lượt lời nguyền.”

“Lời nguyền đuổi quỷ thì có tác dụng gì! Các người rút cuộc muốn chúng tôi thế nào đây?” Đường Phong hỏi vị thủ lĩnh.

“Các người là ma quỷ mà đến cả sói và chim ưng cũng không dám lại gần, ta đã không còn quyền quyết định số phận của các người nữa. Ta sẽ đưa các người đi gặp một người, số phận của các người sẽ do người này quyết định!”

“Ai vậy?” Đường Phong và Hàn Giang đồng thanh kinh ngạc hỏi.

“Đại Lạt ma! Đại đức trí giả mà ở đây không ai có thể cao hơn ngài.” Nói xong, vị thủ lĩnh dặn dò mấy gã trai vạm vỡ hung tợn gỡ bốn người ra khỏi gốc cây rồi áp giải họ đi về phía thượng lưu Thất Sắc Cẩm Hải.

Mọi người đi men theo Thất Sắc Cẩm Hải, hướng về phía thượng lưu. Họ đi qua thôn xóm cạnh vịnh nước, những người dân trong thôn nhìn hội Đường Phong như nhìn quái vật vậy.

Đường Phong vốn tưởng rằng chỗ ở của Đại Lạt ma chắc là cách thôn xóm không xa lắm, nhưng ra khỏi thôn, anh liền phát hiện ra, tiếp tục đi men theo hồ nước hướng về phía thượng lưu lại toàn là đường núi khúc khuỷu. Anh và Hàn Giang thay nhau cõng Lương Viện. Thẳng tiến trên vách núi cheo leo khoảng nửa tiếng, mọi người đã thở hổn hển, vị thủ lĩnh đó cũng mệt rã rời, vậy là mọi người dừng lại nghỉ ngơi. Đường Phong đứng trên vách núi, nhìn xuống Thất Sắc Cẩm Hải phía dưới, nó vẫn tĩnh lặng diễm lệ nhường vậy, còn rặng núi phía xa xa lại càng hùng vĩ tuyệt đẹp.

Đường Phong thở hổn hển quay đầu lại nhìn vị thủ lĩnh: “Chúng ta còn phải đi bao xa nữa?”

“Đừng có hỏi nhiều, đi theo chúng tôi là được rồi.”

Nghỉ ngơi chốc lát, mọi người lại lên đường. Đường dưới chân, từ từ rời xa vách núi cheo leo bên hồ nước, Đường Phong cảm giác họ đang đi vào trong núi. Quả nhiên, sau khi họ vượt qua hai ngọn núi, thì đã hoàn toàn không nhìn thấy Thất Sắc Cẩm Hải diễm lệ, xung quanh đều là rừng rậm tối đen trùng trùng điệp điệp, không thấy giới hạn. Vị thủ lĩnh nhắc nhở họ: “Các người phải bám sát theo sau đấy, đừng có để lạc đội hình, cũng đừng có ý định bỏ trốn ở đây. Mấy trăm năm nay, những người vào nhầm khu rừng rậm này gần như đều lạc mất trong này, không bao giờ trở lại được nữa.”

Đường Phong chốc chốc lại nhìn xung quanh, khu rừng rậm nguyên sơ âm u này khiến anh bất giác run lẩy bẩy, bỏ trốn? Anh vốn không nghĩ tới! Vị thủ lĩnh đi đầu, dẫn mọi người rẽ vào một chỗ ngoặt, đường đi xuất hiện một con đường đá dăm, và họ lại đi ra khỏi rừng, lại nhìn thấy hồ nước, con đường đá dăm này thông thẳng tới ven Thất Sắc Cẩm Hải. Trên vách núi bên cạnh Thất Sắc Cẩm Hải, một ngôi nhà gỗ tinh xảo xuất hiện trước mắt mọi người.

“Một ngôi nhà nhỏ thật yên tĩnh, Đại Lạt ma tu hành ở đây sao?” Đường Phong hỏi vị thủ lĩnh.

Ông ta không trả lời, nhưng Hàn Giang vẫn tiếp lời: “Một người tu hành bên hồ tuyệt làm sao, tu hành ở nơi tĩnh mịch đẹp đẽ thế này ắt hẳn là cao nhân, tôi rất muốn gặp vị cao nhân ngoại thế này đấy.”

“Ừm! Quả thật rất thần kỳ, mọi người có phát hiện ra không? Hồ nước đến đây hình như có vòng qua một quãng, đứng ở đây đã không nhìn thấy hạ lưu hồ nước nữa rồi.” Makarov nhắc nhở khiến Đường Phong và Hàn Giang cũng đi tới bên vách núi quan sát. Quả nhiên, vị trí mà họ đang đứng là một khúc quặt của hồ nước, đứng ở đây không còn nhìn thấy hạ lưu của hồ nước, nhìn lên thượng lưu, cũng không nhìn thấy thượng lưu của hồ bắt nguồn từ đâu.

Họ tới trước ngôi nhà gỗ. Ngôi nhà gỗ xem ra rất rộng rãi, xây trên vách núi cạnh hồ. Vách núi vốn không quá cheo leo, cách mặt nước cũng khoảng hơn ba chục mét, phía sau căn nhà gỗ chính là những dãy núi trùng điệp. Đứng trước mái hiên của căn nhà phóng tầm mắt ra xa, tầm mắt ngút ngàn, chỉ thấy um tùm tươi tốt.

“Đẹp quá!...” Đường Phong cảm giác bản thân mình đã hoàn toàn chìm đắm trong tranh thủy mặc, núi, nước trong giây phút này bỗng gần gũi mình đến vậy, mọi cảnh vật đều tuyệt đẹp và đều có thể chạm tay tới.

“Suỵt!” Vị thủ lĩnh lấy tay ra hiệu im lặng, cắt ngang cảm xúc của Đường Phong, sau đó khẽ cảnh cáo họ: “Các người nhìn thấy Đại Lạt ma nhất định phải cung kính, phải hoàn toàn phục tùng, tôn trọng ý kiến của Lạt ma. Ta nói lại lần nữa, số phận của các người nằm trong tay Lạt ma đấy.”

3

Trong gian Phật đường của ngôi nhà gỗ, ánh nắng đong đầy, một vị Lạt ma mặc áo thầy tu, quay lưng lại phía mọi người, ngồi khoanh chân trước gian thờ, một thiếu nữ đứng bên cạnh phục dịch. Đường Phong vừa nhìn thấy thiếu nữ này, lập tức sững sờ, thiếu... thiếu nữ này chẳng phải chính là cô gái bí ẩn mất tích trên vách núi sáng hôm qua sao?

Đường Phong chăm chú quan sát thiếu nữ bí ẩn này: cô gái mặc một chiếc áo choàng màu trắng, trước ngực có đeo viên đá quý lam ngọc và san hô đỏ, mái tóc dài đen láy tết thành hình thù kỳ dị trên đầu, phần còn lại buông xõa tự nhiên sau lưng. Thiếu nữ chú ý thấy Đường Phong đang nhìn cô, nhưng lại không chút ngượng ngùng, cô ta cũng chớp chớp mắt, không rời mắt khỏi Đường Phong.

Đường Phong luôn cho rằng đôi mắt của mình có thể nhìn thấu thế giới nội tâm của người khác, nhưng giây phút này, anh lại bị thiếu nữ trước mặt nhìn tới nỗi trở nên lúng túng, đành phải lảng tránh ánh mắt của cô ấy.

Lạt ma quay người lại. Đường Phong lại giật bắn mình, một Đại Lạt ma mới đẹp làm sao! Chỉ thấy Lạt ma nét mặc trầm tư như dòng nước chảy, râu tóc bạc phơ, ngồi ngay ngắn trên chõng, hai mắt khép hờ, trên tay nắm một chuỗi tràng hạt xương người đáng sợ, ắt hẳn là một trí giả đại đức đã tu hành nhiều năm. Vị thủ lĩnh áp giải Đường Phong và mấy gã vạm vỡ hung hãn vừa nhìn thấy Lạt ma đều quỳ hai gối, cúi rạp xuống đất. Lạt ma không hề mở mắt, cũng không nói gì, chỉ khẽ nhấc nhấc tay phải đang cầm tràng hạt xương người, những người đó liền đứng lên. Vị thủ lĩnh cung kính nói vài câu với Lạt ma bằng thứ ngôn ngữ mà Đường Phong nghe không hiểu. Dứt lời, ông ta đem tất cả những đồ đạc của hội Đường Phong, bao gồm cả ba khẩu súng đặt hết lên trước mặt Đại Lạt ma, sau đó lại kề sát vào tai Lạt ma, nói nhỏ vài câu. Đại Lạt ma nghe xong, vẫn khép hờ đôi mắt, không nói gì, cũng không kiểm tra đồ đạc của mọi người, chỉ khẽ gật gật đầu, sau đó hất hất tay, vị thủ lĩnh liền dẫn mấy gã trai vạm vỡ hung hãn lui ra.

Phật đường chìm trong sự im lặng đáng sợ. Đường Phong nhìn vị Lạt ma trước mặt, rồi lại quay đầu nhìn về cửa chính của Phật đường, anh không biết những người kia có còn ở bên ngoài hay không? Nếu như ở đây chỉ có mỗi Đại Lạt ma, và cả thiếu nữ kia, có lẽ... Đúng lúc Đường Phong đang suy nghĩ rối bời thì Đại Lạt ma đột nhiên mở mắt, nhìn bốn vị khách không mời mà đến, ánh mắt đó không có sự uy hiếp nhưng lại lẫm liệt không thể xâm phạm khiến trong lòng Đường Phong âm thầm kinh ngạc, không ngờ lão Lạt ma xem ra đã già nua thế này mà đôi mắt lại có thần đến vậy. Đại Lạt ma chăm chú nhìn hồi lâu, rồi lại cụp mắt xuống, chậm rãi hỏi: “Cô nương đó sao lại hôn mê bất tỉnh vậy?”

Tiếng phổ thông của Đại Lạt ma rất chuẩn, hơi mang khẩu âm Tây Bắc, điều này cũng khiến Đường Phong và Hàn Giang đều cảm thấy kinh ngạc. Đường Phong vội vàng đáp lại: “Cô ấy ốm rất nặng, cần phải được chữa trị ngay lập tức, xin Đại Lạt ma thả chúng tôi ra, chỉ cho chúng tôi một con đường thoát…”

Đường Phong vẫn chưa nói hết, thì đã bị Đại Lạt ma nhấc tay lên cắt ngang: “Dìu cô ấy đến chỗ ta.”

Lời của Đại Lạt ma ngắn gọn, rõ ràng, không có gì để hoài nghi. Đường Phong đành phải dìu Lương Viện tới trước mặt Đại Lạt ma. Ông nhìn sắc mặt Lương Viện một lượt, rồi lại lật mí mắt của Lương Viện lên, dặn dò thiếu nữ đứng phục dịch bên cạnh: “Hắc Vân, đem thảo dược mà lần trước ta hái từ trên núi về đến đây.”

Đợi một lúc, thiếu nữ Hắc Vân đó bưng lên một bát thuốc màu xanh đen, Phật đường lúc đó bỗng ngào ngạt một mùi thơm đặc biệt. Đường Phong nhìn bát thuốc màu xanh đen, có chút nghi ngờ hỏi: “Thuốc này có ổn không ạ?”

Đại Lạt ma không trả lời câu hỏi của Đường Phong, mà lại bảo anh: “Mở miệng cô ta ra!” Đường Phong vội vàng nâng hai má Lương Viện lên, định mở miệng cô ra, nhưng Lương Viện cắn chặt răng, nên cho dù Đường Phong dùng sức thế nào cũng không thể mở được miệng cô ấy. Đại Lạt ma nhìn thấy vậy, khẽ thở dài một tiếng, hất hất tay, ý bảo Đường Phong tránh ra, còn Đại Lạt ma thì buông tràng hạt xương người xuống, một tay cầm bát, một tay khẽ đưa ra, đặt lên hai má Lương Viện, miệng lẩm nhẩm đọc, giống như đang tụng kinh, lại giống như đang nói chuyện với ai đó. Hai phút sau, điều thần kỳ xuất hiện, không một ai thấy Đại Lạt ma dùng sức, nhưng miệng Lương Viện vẫn tự động mở ra. Đại Lạt ma rất nhẹ nhàng bón bát thuốc lá cho Lương Viện uống.

4

Bón thuốc cho Lương Viện xong, Đại Lạt ma lại dặn dò Hắc Vân: “Dìu cô ấy vào trong phòng con, cô ấy cần được tĩnh dưỡng cẩn thận.” Sau khi sắp xếp cho Lương Viện xong xuôi, Đại Lạt ma nhìn lướt qua Đường Phong, Hàn Giang và Makarov thêm một lượt, nói: “Các người cũng đều lại đây, ta xem xét vết thương cho.”

Makarov bước tới trước tiên, Đại Lạt ma kiểm tra vết thương trên vai Makarov, rồi đưa cho ông ta một viên thuốc tễ màu đen, tiếp đến là Đường Phong. Đường Phong cũng không hiểu sức mạnh nào đã đẩy mình mà anh lại mất tự chủ đi tới đó. Đường Phong vốn không bị thương nặng, chỉ cảm thấy tứ chi rệu rã, trên người có nhiều vết xây xước, chắc là do bị trói cả đêm nên cánh tay có vài chỗ bị tụ máu và hơi đau âm ỉ. Đại Lạt ma di lên cánh tay anh vài cái, anh cảm thấy có chút tê tê, lại cúi đầu nhìn xuống, vết tụ máu bỗng nhiên lập tức biến mất. Đường Phong kinh ngạc trợn mắt nhìn, đúng lúc anh ngây người ra thì Đại Lạt ma cũng đưa cho anh một viên thuốc tễ màu đen. Sau khi anh nửa tin nửa ngờ nuốt viên thuốc vào, thì ngay tức khắc, anh cảm thấy tinh thần mình sảng khoái, tinh lực dồi dào.

Cuối cùng chỉ còn lại Hàn Giang đứng nguyên chỗ cũ, nhất định không động đậy. Đại Lạt ma hỏi: “Chàng thanh niên, cậu không cần ta xem thế nào sao?”

“Không! Tôi không cần.”

“Vậy cậu cần gì?”

“Tôi cần ăn, đã mấy ngày mấy đêm tôi không được ăn gì rồi.” Hàn Giang trả lời rất chân thành khiến Đại Lạt ma bật cười: “Được! Được! Hắc Vân, đem đồ ăn đến cho họ.”

Chẳng mấy chốc, một bàn thức ăn thịnh soạn đã được bày lên, từng miếng thịt bò to, sườn dê, thịt muối, bánh khoai tây, bánh bột ngô, cơm rang ngũ sắc, rượu lúa mạch. Hàn Giang cũng không biết mình rút cuộc đã bao nhiêu ngày chưa ăn, phải chăng anh đã đói đến đỉnh điểm. Anh, Đường Phong, và cả Makarov, ba người ngồi xuống bàn, ăn như lũ cuốn, trong vòng mười phút đã tiêu diệt hết cả một bàn thức ăn thịnh soạn. Cuối cùng, Hắc Vân lại bưng lên cho họ một bát canh màu trắng đậm đặc, mùi vị vô cùng tươi ngon - Đường Phong tò mò hỏi: “Đây là canh nấu bằng gì mà mùi vị ngon vậy?”

Hắc Vân mỉm cười nói: “Loại cá mà chỉ Thất Sắc Cẩm Hải mới có, mùi vị của loại cá này rất đặc biệt, là đặc sản ở đây, canh này được nấu bằng loại cá đó.”

Đường Phong gật gật đầu, rồi lại hỏi thiếu nữ: “Cô tên là Hắc Vân?”

“Ừm! Mọi người đều gọi tôi là Hắc Vân.” Hắc Vân gật đầu.

“Sáng hôm qua chúng tôi nhìn thấy cô.” Hàn Giang đột nhiên nói xen vào.

“Sáng hôm qua?” Mặt Hắc Vân đang rạng rỡ bỗng nhiên tối sầm lại.

“Đúng vậy, trốn vách núi dưới hạ lưu.” Hàn Giang tiếp tục nói.

“Đúng!... Đó là tôi!” Hắc Vân cúi đầu.

“Vậy thì đôi nam nữ nhảy vực chắc chắn là người thân của cô phải không?”

“Sao anh biết?”

“Nếu như không phải là người thân của cô thì cô sẽ không gào thét rách cả tâm can và bất chấp tất cả lao như bay trên vách núi như vậy.”

“Ừm, cô gái nhảy xuống vực đó là em gái tôi.” Giọng Hắc Vân càng lúc càng hạ xuống.

“Em gái cô! Thật là đáng thương, trẻ tuổi vậy mà đã... cô ấy và chàng trai đó tự tử vì tình phải không?” Đường Phong hỏi Hắc Vân.

Hắc Vân gật đầu: “Đúng vậy, cha mẹ của hai gia đình đều không đồng ý cho họ yêu nhau, thế nên...”

“Bây giờ là thời đại nào rồi mà lại có những chuyện như vậy!” Hàn Giang phẫn nộ nói.

Sự phẫn nộ của Hàn Giang khiến Đại Lạt ma ho khan một tràng, mọi người quay nhìn Đại Lạt ma rồi đều ngậm miệng lại, không khí trong Phật đường bất giác trở nên im lìm.

“Sự sống quả thật mong manh!” Tiếng xuýt xoa của Đường Phong phá vỡ bầu không khí gượng gạo.

Hàn Giang đột nhiên nhớ ra điều gì đó, lại hỏi Hắc Vân: “Sau này chúng tôi lên đó tìm cô, nhưng không thấy cô đâu, cô trốn đi đâu vậy?”

“Tôi...” Hắc Vân ấp úng, vẫn chưa trả lời thì đã nghe thấy giọng nói sang sảng của Đại Lạt ma: “Các anh đã ăn uống no say rồi, cơ thể cũng không bệnh tật gì nữa, bây giờ, ta phải làm quen với các anh chút đã.”

5

“Đến lúc giới thiệu một chút rồi.” Đường Phong vẫn mang tâm lý phòng bị, không đợi Đại Lạt ma nói xong, anh đã cướp lời: “Đây là đâu? Các người là ai? Các người có quyền gì mà trói chúng tôi?”

Trước một loạt câu hỏi chất vấn của Đường Phong, Đại Lạt ma không hề tức giận, ông nhẫn nại nghe hết, sau đó hỏi lại: “Chúng tôi là ai cũng không quan trọng, là các anh đột nhập vào đây, phá vỡ cuộc sống yên tĩnh của chúng tôi, bởi vậy tôi có quyền biết về tình hình của các anh.”

Đường Phong nói: “Chúng tôi chỉ là du khách thông thường, lạc vào một hang động đá vôi, sau đó thì đi đến đây.”

“Du khách thông thường mà lại mang theo súng? Hơn nữa, tôi thấy mấy khẩu súng này cũng rất ổn!”

“Tôi là cảnh sát...” Hàn Giang vội vàng giật lại súng rồi trả lời.

Hàn Giang vẫn còn muốn tranh luận giải thích nhưng Đại Lạt ma đã nghiêm giọng cắt ngang anh: “Hãy nói thật đi, tôi không có nhiều thời gian, thời gian của các anh cũng không còn nhiều đâu.”

Đường Phong và Hàn Giang đưa mắt nhìn nhau, hạ quyết tâm, quyết định bộc bạch hết: “Được rồi! Tôi nói thật, chúng tôi đang bị người ta truy sát!”

“Ồ! Truy sát...?” Đại Lạt ma trầm ngâm hồi lâu, im lặng không nói gì, trong phòng yên tĩnh lạ thường nhưng trong lòng Đường Phong, Hàn Giang và Makarov lại bồn chồn bất an, không biết sau đây sẽ gặp phải điều gì.

Đại Lạt ma trầm tư rất lâu, rút cuộc đã mở miệng: “Được rồi! Ta quyết định thả các người đi, đợi sau khi cô gái đó khỏe lại ta sẽ sai người đưa các người rời khỏi đây. Nhưng trước đó, các người hãy ở chỗ ta, nhớ là không được tùy tiện đi lại lung tung, chỉ được đi lại gần ngôi nhà gỗ. Còn nữa, sau khi rời khỏi đây, nhất định không được kể lại những gì các người nhìn thấy ở đây cho những người bên ngoài nghe, nhất định phải ghi nhớ, nếu không thì bất luận là các người hay là chúng ta cũng đều sẽ bị đại họa giáng xuống đầu!”

Nghe xong những lời Đại Lạt ma nói, Đường Phong, Hàn Giang và Makarov thần kinh đang căng như dây đàn rút cuộc cũng được thả lỏng. Xem ra Đại Lạt ma không hề có ý hại họ, nhưng những lời của Đại Lạt ma khiến ba người có chút thất vọng. Đường Phong không kiềm chế được lớn tiếng hỏi: “Tại sao ông không hỏi nữa, sao không hỏi xem tại sao chúng tôi bị truy sát? Và bị ai truy sát?”

Đại Lạt ma nhắm mắt lại, lắc đầu nói: “Những người tu hành từ lâu đã nhìn thấu hồng trần sự tục, tại sao các ngươi bị truy sát, bị ai truy sát thì liên quan gì đến ta!”

“Không phải ban nãy ông rất hứng thú với chúng tôi sao?” Hàn Giang hỏi lại.

“Ta chỉ cần các ngươi thành thật, các ngươi đã nói thật như vậy rồi thì ta cũng không cần phải hỏi nữa.” Đại Lạt ma bình tĩnh giải thích.

“Được rồi, ông không hỏi chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi vẫn muốn hỏi ông, các ông là ai?” Hàn Giang tiếp tục hỏi.

“Không phải là việc các ngươi cần biết thì một chữ ta cũng sẽ không nói. Những gì các ngươi cần biết ban nãy ta cũng đã nói rồi.” Đại Lạt ma nói xong, bắt đầu tụng kinh văn thật to, không buồn để ý ba người.

Ba người Đường Phong đứng trân trân trong Phật đường, không biết nên làm thế nào. Lúc này, Hắc Vân đi tới, nói với ba người: “Các anh đi theo tôi, tôi sẽ sắp xếp phòng cho các anh.”

Ba người nhìn nhìn Hắc Vân, rồi lại nhìn nhìn Đại Lạt ma, đành phải chán nản lui ra khỏi Phật đường, nhưng đúng lúc ra đến cửa thì Đại Lạt ma lại gọi họ đứng lại.

6

“Đợi một chút, ta vẫn có việc muốn hỏi các anh.” Tiếng gọi của Đại Lạt ma khiến ba người Đường Phong giật thót tim. Đại Lạt ma lại nhớ ra gì đây? Ba người trở lại Phật đường, lo lắng chờ đợi câu hỏi của Đại Lạt ma.

Đại Lạt ma vẫn cụp mắt xuống, chậm rãi hỏi: “Các người ở trong hang động đá vôi đã xâm nhập vào đại sảnh trụ cột?”

Ba người cùng nhìn nhau, không biết Đại Lạt ma hỏi ý gì, và nên trả lời thế nào? Ai cũng không biết nếu như trả lời sai thì sẽ bị hình phạt gì giáng xuống đầu. Hàn Giang đẩy Đường Phong tới trước mặt Đại Lạt ma. Đường Phong đứng không vững, xém chút nữa trượt ngã khiến Hắc Vân đứng sau bịt miệng cười trộm. Đường Phong bó tay, đành phải thu hết dũng khí, đáp lại: “Đúng vậy, chúng tôi đã nhìn thấy đại sảnh trụ cột đó.”

“Những linh hồn trong đó vẫn ổn chứ?”

“Ý ông nói những vò gốm sứ?”

“Không! Đó không phải là những vò gốm sứ thông thường, đó là tráp hồn cất giữ những linh hồn của tiền nhân!”

“Đúng, tráp hồn, những tráp hồn đó đều được bảo tồn rất tốt. Những người đó là... của các ông?”

Đường Phong vẫn muốn hỏi gì đó nhưng bị Đại Lạt ma ngắt lời: “Vậy thì tốt! Các người có thể ra ngoài rồi, đồ đạc của các người có thể mang đi, còn mấy khẩu súng đó thì hãy để ta giúp các người bảo quản vài ngày.”

Ba người lắc đầu, cầm ba lô của mình lui khỏi Phật đường. Hắc Vân dẫn ba người tham quan toàn bộ căn nhà gỗ, không ngờ ngôi nhà gỗ trông bình thường như vậy mà bên trong lại rộng lớn bất ngờ. Toàn bộ ngôi nhà gỗ, ngoài Phật đường ra còn có bảy tám gian phòng, nhà bếp, nhà vệ sinh đầy đủ, trước cửa chính, còn có một khoảnh sân bằng phẳng có thể nhìn bao quát Thất Sắc Cẩm Hải. Đường Phong đứng trên khoảnh sân, tắm mình trong ánh nắng ấm áp, bất giác trầm trồ: “Đây chính là một biệt thự nghỉ ngơi an dưỡng, có một khoảnh sân ngắm cảnh rộng thế này. Điều đáng tiếc duy nhất ở đây là không có trang thiết bị hiện đại, mà mọi thứ đều nguyên sơ, tự nhiên.”

Câu nói của Đường Phong lại lần nữa khiến Hắc Vân cười khùng khục. “Cô có gì mà buồn cười vậy?” Đường Phong không hiểu hỏi lại Hắc Vân.

“Tôi cười điệu bộ của anh ban nãy!” Hắc Vân nhìn Đường Phong nói.

“Hắc Vân, tôi muốn hỏi cô một chuyện, cô tên là Hắc Vân, vậy cô họ gì?” Hàn Giang đột nhiên hỏi.

Hắc Vân mơ hồ lắc lắc đầu, “Tôi cũng không biết tôi họ gì, nghe nói tôi họ Hạ Lai, là Đại Lạt ma đặt tên Hắc Vân này cho tôi, kể từ khi tôi hiểu chuyện thì mọi người đều gọi tôi là Hắc Vân, từ trước đến nay chưa từng có ai gọi họ của tôi cả.”

“Cái gì? Hóa ra cô không có họ? Thế cha mẹ cô đâu?” Đường Phong kinh ngạc hỏi.

“Tôi không có cha mẹ, là Đại Lạt ma nuôi tôi khôn lớn.”

“Thế em gái cô tên là gì?”

“Bạch Vân.”

“Hắc Vân? Bạch Vân? Tên gọi thật là có ý nghĩa văn thơ, nhưng lại rất kỳ quái!” Đường Phong cảm thán.

Đường Phong nhìn Hắc Vân đứng trước mặt, đôi mắt trong veo thật ngây thơ, nhưng anh lại không sao có được câu trả lời mà anh muốn nghe từ trong đôi mắt trong veo ngây thơ đó. “Hắc Vân, có thể nói cho chúng tôi biết về các cô không? Các cô là ai? Tại sao lại sống trong vùng núi rộng lớn cách biệt với thế giới bên ngoài này?”

Hắc Vân lại lắc đầu: “Không! Tôi không nói được, ban nãy tôi nói cũng đủ nhiều rồi, Đại Lạt ma không cho phép tôi kể chuyện về chúng tôi cho người ngoài nghe.” Hắc Vân cúi đầu, trầm ngâm hồi lâu, rồi lại nói: “Kể cả tôi muốn kể cho các anh, nhưng tôi cũng không biết được bao nhiêu. Đại Lạt ma… trong ông ấy hình như có vô số những bí mật, tôi cũng có rất nhiều chuyện muốn biết, ví dụ như cha mẹ tôi là ai, nhưng... Đại Lạt ma lại chưa bao giờ chịu nói với tôi, tôi cũng không hiểu tại sao ông lại phản đối chuyện hôn nhân của em gái tôi.”

“Ý cô nói là em gái cô tự tử vì tình là do Đại Lạt ma phản đối không cho cô ấy kết hôn với chàng trai đó?” Hàn Giang kinh ngạc hỏi.

“Ừm, không chỉ Đại Lạt ma phản đối, mà gia đình chàng trai cũng phản đối chuyện hôn nhân này.” Hắc Vân lặng lẽ chảy hai hàng nước mắt.

“Cũng có nghĩa là, thực ra em gái cô là bị Đại Lạt ma bức tử?” Đường Phong rút ra kết luận như vậy.

“Không! Không! Anh không thể nói như vậy. Đại Lạt ma nuôi chúng tôi từ tấm bé, ông nhất định muốn tốt cho chúng tôi, ông không đồng ý chuyện hôn nhân của em gái tôi nhất định là có lí do của ông.” Hắc Vân hoàn toàn không thể chấp nhận kết luận của Đường Phong.

“Tôi thấy cô đã bị Đại Lạt ma tẩy não rồi đấy, vẫn còn bảo vệ ông ấy như vậy!” Đường Phong nhìn cánh cửa Phật đường đóng im ỉm, trong lòng bắt đầu có phán đoán mới: Đại Lạt ma này rút cuộc là quái nhân kiểu gì nhỉ?

7

Hắc Vân trở vào phòng, chuẩn bị phòng ốc cho ba người, trên khoảnh sân chỉ còn lại Hàn Giang, Đường Phong và Makarov. Đường Phong nhìn xung quanh, phát hiện đám người áp giải họ không thấy đâu nữa: “Xem ra đám người đó quay về rồi?”

Hàn Giang càng cẩn thận nhìn lướt một lượt, đám người đó quả thực không ở đây nữa, anh kéo Đường Phong sang một bên, nói nhỏ: “Bây giờ ở đây ngoài chúng ta ra, chỉ có Đại Lạt ma và Hắc Vân, nếu không phải là Đại Lạt ma đồng ý cho chúng ta đi, thì bây giờ tôi muốn...”

“Anh muốn bỏ chạy?” Đường Phong ngạc nhiên nói.

“Hiện tại lúc này không muốn nữa rồi, tạm thời ở đây đã, xem tình hình rồi tính tiếp!”

“Anh cho rằng chúng ta có thể ra ngoài?”

“Ở đây chắc chắn có đường thông ra ngoài, tôi không tin những người này có thể không dựa vào bên ngoài, sống cuộc sống thường nhật ‘không biết Tần Hán, bất luận Ngụy Tần’. Trong đào nguyên ngoại thế này, cậu lẽ nào không chú ý tới đồ dùng mà họ sử dụng sao?”

“Đồ dùng?”

“Ví dụ như bát sứ mà chúng ta ăn cơm, còn cả những đồ đạc bày biện trong ngôi nhà gỗ, những thứ đó đều không thể sản xuất ở đây được. Điều đó cho thấy, ở đây không phải là đào nguyên ngoại thế cách biệt với thế giới bên ngoài, chắc chắn có đường thông ra bên ngoài.”

“Nói có lý, nhưng, có lẽ con đường đó rất khó đi thì sao?”

“Đường có khó đi chăng nữa, nhưng họ đã đi được thì chúng ta cũng có thể đi được!” Hàn Giang nói rất kiên định.

“Tôi thấy, hiện giờ chúng ta vẫn không nên manh động, thử xem Đại Lạt ma sắp xếp cho chúng ta ra ngoài thế nào. Nếu như ông ta nuốt lời thì chúng ta sẽ tính toán sau.”

“Ừm! Ý tôi cũng vậy!... Cậu thấy mọi thứ ở đây thế nào? Đặc biệt là những người đó?” Hàn Giang quay lại hỏi ý kiến của Đường Phong.

Đường Phong ngẫm nghĩ một hồi rồi nói ra suy nghĩ của mình: “Tôi cũng không biết nói thế nào, ban đầu khi nghe thấy vị thủ lĩnh đó niệm chú đuổi ma bên miệng hố thì đoán rằng đây là tập tục cũ của Tây Hạ, cộng thêm một số chứng cứ khác, ví dụ như phát hiện ra đại sảnh trụ cột, vậy là tôi bắt đầu tin rằng những người này chính là nhánh người Đảng Hạng trở lại nơi khởi nguồn của dân tộc Đảng Hạng sau khi Tây Hạ bị diệt vong, nhưng vị thủ lĩnh đó lại nói ông ta không biết Tây Hạ, Đảng Hạng nào cả. Khi tôi đi qua thôn xóm của họ cũng quan sát kĩ thôn trại, nhưng không phát hiện ra có gì khác thường, tuy thôn dân ăn mặc có chút kỳ dị nhưng cũng rất giống với cách ăn mặc của dân tộc Tạng khu vực phía tây Tứ Xuyên.”

“Ý của anh là gì? Những người đó có khả năng là một nhánh của dân tộc Tạng?”

“Hoàn toàn có khả năng đó, nhưng cũng có khả năng là một nhánh của dân tộc Khương, bởi vì tôi quan sát kiến trúc của họ rất giống Khương Trại mà chúng ta từng nhìn thấy, cũng là ngôi nhà được xây bằng từng viên đá.”

“Ồ, còn phức tạp vậy sao?”

“Đúng vậy, quả thực khó mà đoán định. Cứ cho rằng nhánh người Đảng Hạng năm đó đã từng đến đây, nhưng mấy trăm năm qua đi rồi, họ có thể đã di chuyển đến nơi khác, ví dụ như vùng Mộc Nhã nằm trên rặng núi tây nam Tứ Xuyên. Rất nhiều học giả đều cho rằng, người Mộc Nhã ở đó mới chính là người Đảng Hạng di chuyển trở về cố hương, cũng có khả năng họ đã hoàn toàn bị đồng hóa vào những dân tộc Hán, Tạng, Khương và nhiều dân tộc khác lân cận.”

“Cũng có nghĩa là khả năng người Đảng Hạng đã hoàn toàn biến mất rồi?”

“Ừm, giới học thuật từ lâu đã nhận định người Đảng Hạng biến mất rồi, cứ cho rằng người ở đây có huyết thống của người Đảng Hạng, thì khả năng cũng có thể bảo lưu ít nhiều phong tục của người Đảng Hạng.”

Hàn Giang suy tư hồi lâu, nói với Đường Phong: “Xem ra có thể giúp chúng ta giải mã được bí ẩn, thì chỉ có một người.”

“Ý anh là... Đại Lạt ma?” Đường Phong nghĩ ngay tới điều này.

“Đúng, Đại Lạt ma! Kể từ giây phút đầu tiên tôi nhìn thấy Đại Lạt ma, tôi đã cảm thấy chúng ta có thể có được thứ chúng ta muốn từ bản thân Đại Lạt ma!” Hàn Giang đáp.

“Đúng vậy! Tôi cũng có cảm giác đó.”

Đường Phong và Hàn Giang nói chuyện xong, nhìn thấy Makarov vẫn im lặng từ đầu đến giờ, họ đi tới đó, hỏi ông: “Lão Mã, bác đang nghĩ gì vậy?”

“Tôi chẳng nghĩ gì cả.”

“Không nghĩ gì cả? Ở một nơi bí ẩn như thế này, gặp phải bao nhiêu chuyện như vậy, bác lại chẳng nghĩ gì cả là sao, đây không giống với tính cách một lão binh!”

“Khà khà, cái này thì cậu không biết rồi, kẻ địch muốn chiến thắng cậu thì cần tới đầu óc thông minh, nhưng trong thời gian tôi phục vụ trong quân đội đã hình thành một thói quen: khi cậu không sáng suốt đối diện với vấn đề khó khăn, thì thà rằng đừng suy nghĩ gì; không cần nghĩ gì cả, chỉ cần đi theo trình tự, làm tốt những việc trước mắt là được, đây cũng là một con đường sinh tồn của tôi.”

“Đây ngược lại cũng là một quan điểm sinh tồn rất thực dụng.”

“Đúng như những gì cậu nói, cả quãng đường mà chúng ta đến đây, trừ gặp phải chuyện bị truy sát, thì còn gặp hết điều bí ẩn này đến điều bí ẩn khác. Hiện nay, các loại dấu hỏi đều đang kín mít đầu óc tôi, nó đã vượt quá sức chịu đựng của tôi, tôi già rồi, không còn được như hồi trẻ nữa, bởi vậy, hiện giờ tôi không suy nghĩ điều gì cả.”

“Nhưng vẫn phải nghĩ xem bước tiếp theo nên làm thế nào?”

“Không cần phải nghĩ, vị Đại Lạt ma đó đã chỉ rõ đường đi cho chúng ta rồi, yên tâm ở lại đây đi, ăn uống, nghỉ ngơi tử tế, đợi Lương Viện hồi phục rồi ông ấy sẽ tiễn chúng ta ra khỏi đây, như vậy không phải rất tốt sao? Chúng ta vừa hay có thể ở lại đây hưởng thụ một chút kỳ nghỉ không chủ định hiếm có này.”

“Bác đúng là nghĩ thoáng thật đấy!” Đường Phong bị Makarov nói cho đến mức không còn gì để nói, anh quay ra nhìn chăm chú về ngọn núi tuyết phía xa xa. Đại tuyết sơn vẫn nguy nga tĩnh mịch, giống hệt như sáng sớm hôm qua khi lần đầu tiên họ nhìn thấy nó. Đỉnh tuyết sơn ẩn nấp trong mây khói, không lộ diện, nhìn mãi nhìn mãi, Đường Phong đột nhiên có cảm giác bản thân đang chìm đắm trong sương khói.

Ba người tận hưởng ánh nắng hiếm có sau ban trưa trên khoảnh sân. Mặt trời lặn đằng tây, Hắc Vân lại chuẩn bị cho họ một bữa tối thịnh soạn. Lúc ăn cơm, họ không nhìn thấy Đại Lạt ma, Đường Phong hỏi Hắc Vân: “Đại Lạt ma không đến ăn cùng sao?”

“Đại Lạt ma đã ăn rồi.”

“Ăn rồi?” Trong lòng Đường Phong lại nghi ngờ. Ăn xong bữa tối, Hắc Vân dẫn ba người đến ba phòng khác nhau, sau đó nói với mọi người: “Cô nương đó ở trong phòng tôi, tôi sẽ chăm nom tử tế cho cô ấy.”

Cuối cùng, Hắc Vân cảnh cáo mọi người: “Trong căn nhà gỗ này, chỗ nào cũng có thể đi, chỉ có gian Phật đường đó là không được phép vào. Nhất định phải nhớ lời tôi nói, nhất định không được vào trong Phật đường.”

Ba người không hẹn mà gặp cùng liếc về phía Phật đường một cái, Phật đường bí ẩn, Lạt ma cũng bí ẩn như vậy!

Đường Phong trước khi ngủ lại tranh thủ qua phòng Hắc Vân thăm Lương Viện. Lương Viện tuy vẫn chưa tỉnh nhưng sắc mặt cô đã hồng hào trở lại. Đường Phong lúc này mới có phần yên tâm, trở về phòng mình. Trong căn nhà gỗ trên núi này, mọi thứ đều giống như trở về thời cổ đại, không có đèn điện, không có giải trí, thì có thể làm gì trong bóng đêm? Nằm ra giường ngủ, đầu óc lại bị vô số những điều bí ẩn quấy nhiễu, lật trái lật phải, trăn trở hồi lâu, Đường Phong mới có thể chìm dần vào giấc ngủ.
 

hoahongden12

Active Member

1

Trong màn đêm, căn nhà gỗ tọa lạc trên vách núi chìm trong tĩnh lặng, đột nhiên, một cánh cửa sổ phía sau căn nhà bật mở, một bóng đen nhảy ra ngoài. Bóng đen đứng dậy ẩn mình sau cánh cửa, phủi phủi bụi trên người, cầm lấy ba lô, hướng về con đường đá dăm phía trước căn nhà gỗ rảo bước.

Con đường đá dăm đâm thẳng vào rừng rậm tối đen, bóng đen bước trên con đường bỗng quay đầu lại nhìn căn nhà gỗ, rồi lại nhìn về phía khu rừng rậm đen kịt đáng sợ trước mặt, nhìn một hồi lâu, hình như có chút do dự. Khi bóng đen vẫn đang chần chừ vừa bước lên phía trước một bước thì trong rừng rậm bỗng vang lên những tiếng sói hú thê lương, khiến bóng đen lại dừng bước. Hắn đi đi lại lại trên con đường đá dăm, vài phút sau, bóng đen hình như đã ra quyết định, rời khỏi con đường này, chui vào một bụi rậm bên vách núi.

Bên cạnh là vách đá cheo leo, dưới chân là bụi rậm không có đường đi, bóng đen bước thấp bước cao trong màn đêm, di chuyển khó nhọc trong đám bụi rậm trên vách núi. Đi chưa được bao xa, bóng đen đã loạng choạng, xém chút nữa là bị đá dăm dưới chân đốn ngã. Bóng đen đứng thẳng người dậy, đột nhiên, hắn phát hiện ra bên vực thẳm trước mặt có một người đàn ông vạm vỡ đang đứng đó, đối diện với hắn. Bóng đen bất giấc lùi lại phía sau một bước, màn đêm đã che giấu sự hoảng loạn trong lòng hắn ta, hắn ta dụi dụi mắt, không dám tin vào cảnh tượng trước mắt, đây là ai? Người này muốn gì?

Bóng đen thu hết can đảm, bước lên phía trước nửa bước, vừa vặn một ánh trăng rót xuống gương mặt hắn, bóng đen bất ngờ tới nỗi trợn trừng mắt - A! Người đứng trước mặt hắn hóa ra là Hàn Giang!

Không sai, người cản đường bóng đen chính là Hàn Giang, dưới ánh trăng. Hàn Giang bật cười lạnh lùng: “Lão Mã, muộn thế này rồi, ông không ngủ mà chuẩn bị đi đâu vậy?”

Makarov toàn thân run rẩy, vội vàng lùi lại phía sau, ai ngờ, sau lưng lại có một bóng người vụt qua, chặn đứng đường rút lui của ông, Makarov nhận ra người phía sau lưng mình là Đường Phong. Đường Phong bật đèn pin lên, ánh sáng đèn pin soi thẳng lên mặt Makarov. Thấy đã không còn đường nào để đi nên Makarov đành phải nói với Đường Phong xin tha: “Đường! Coi như các anh đã biết, đồ đạc ở đây.”

“Tôi đã sớm dự liệu được là, ông có vấn đề! Nhưng... vẫn là Hàn Giang nói với tôi đêm nay ông sẽ hành động nên tôi mới nghi ngờ ông. Ban ngày tôi hỏi ông đang nghĩ gì, ông nói không nghĩ gì cả, thực ra ông đã sớm tính toán xong rồi!” Đường Phong cười lạnh lùng, đi tới bên cạnh Makarov, mở ba lô của ông ta ra, trong ba lô là chiếc hộp gỗ tử đàn quen thuộc, mở chiếc hộp ra, kệ tranh ngọc tinh xảo tỏa ra ánh sáng màu xanh lấp lánh dưới ánh trăng. Không sai! Chính là kệ tranh ngọc mà Lương Viện đem đến. Đường Phong đậy hộp, cho lại vào túi mình.

“Sao các cậu biết được đêm nay tôi sẽ lấy trộm kệ tranh ngọc đi?” Makarov không hiểu hỏi.

“Khà khà, thân phận, bản lĩnh và ánh mắt của ông và Yelena, đặc biệt là ánh mắt của hai cha con ông đã nói với chúng tôi điều đó. Tuy chúng tôi không biết các ông là ai nhưng ông và Yelena đã nhắm vào chiếc ba lô của chúng tôi từ lâu rồi. Kể từ khi máy bay hạ cánh khẩn cấp, các ông đã nhằm vào chiếc ba lô của chúng tôi. Hôm qua... sáng sớm hôm qua khi chúng ta đi men theo sông ngầm thoát ra khỏi hang động đá vôi, ba lô của chúng tôi đều giao phó cho ông, ông nhân cơ hội lúc chúng tôi không chú ý đã mở trộm ba lô của chúng tôi ra, tôi nói không sai chứ? Lão Mã?” Hàn Giang bước tới trước mặt Makarov nói.

“Không sai, vẫn không thể qua nổi mắt cậu. Khi tôi và Yelena gặp cô bé kia trên máy bay đã nghi ngờ trong ba lô của các cậu có thứ mà chúng tôi cần. Sáng hôm qua, rút cuộc cơ hội cũng đến, tôi đã phát hiện ra kệ tranh ngọc chính là thứ mà chúng tôi muốn tìm kiếm, nhưng cả ngày hôm qua đều không có cơ hội...”

“Sáng hôm nay thì cơ hội đến rồi, khà khà... bây giờ ông bỏ đi thì không sợ bị bầy sói ăn thịt sao? Không sợ nhỡ sảy chân bên bờ vực một cái thì sẽ rơi xuống vực sâu thăm thẳm vĩnh viễn không bao giờ lên lại được sao?” Đường Phong ngắt lời Makarov.

“Ha ha!” Makarov nghe thấy vậy liền bật cười, cười xong ông nói với Đường Phong: “Đường, cậu coi thường tôi quá đấy! Tôi đã đến được đây rồi thì đã không biết sợ hãi là gì, cho dù có thật sự gặp nguy hiểm thì tôi cũng sẽ chôn chặt sự hoảng sợ dưới đáy lòng. Trong cuộc đời sự nghiệp của mình, tôi đã từng gặp vô số nguy hiểm, tôi là người đã từng chết đi sống lại mấy lần, rất nhiều đồng nghiệp, chiến hữu của tôi đều đã sớm rời bỏ tôi từ lâu, tôi sống tới ngày hôm nay đã là vô cùng may mắn rồi!” Makarov dần dần đã trấn tĩnh trở lại.

Hàn Giang bước lên phía trước vài bước, kề sát Makarov, lạnh lùng nói: “Lão Mã, tôi cảm thấy chúng ta rất cần làm quen lại với nhau một chút.”

Makarov gật đầu với Hàn Giang và Đường Phong, nói: “Đúng vậy, sự việc đã đến ngày hôm nay, tôi cũng cảm thấy rất cần phải như vậy. Tôi không thể không thừa nhận, cho đến lúc này, chuyến đi đến Trung Quốc của tôi và Yelena đã hỏng bét rồi. Tôi cũng không cần thiết phải giấu giếm các cậu điều gì nữa.”

“Được! Vậy tôi hỏi ông, ông và Yelena rút cuộc là ai?” Hàn Giang truy hỏi.

Makarov nhìn Đường Phong và Hàn Giang, sau đó bình tĩnh trả lời: “Trước khi nghỉ hưu tôi đã từng làm việc tại KGB trong một thời gian dài. Sau khi Liên Xô giải thể, tôi về hưu với quân hàm thiếu tướng. Còn về Yelena, nó là nữ đặc công át chủ bài của Cục An ninh liên bang!”

“Ồ! KGB?” Đường Phong và Hàn Giang không hẹn mà gặp cùng lúc nghĩ tới bảy bức thư tuyệt mật của KGB mà họ đã giải mã được.

2

Đường Phong suy tư hồi lâu rồi lại hỏi lại Makarov:

“Không ngờ ông còn là một tướng quân, thiếu tướng Makarov, nói như vậy, Yelena cũng không phải là con gái của ông rồi?”

Makarov đã nhiều năm không nghe thấy ai gọi ông là tướng quân, ông khẽ cười lạnh lùng một tiếng, đáp: “Tướng quân, hừm! Tôi đã về hưu lâu rồi. Yelena, không sai, nó quả thực không phải là con gái ruột của tôi, nó từng là học sinh của tôi, nhưng hiện giờ tôi lại coi nó như con gái ruột của mình.”

“Mục đích hành động lần này của các ông là gì? Cũng là vì kệ tranh ngọc này?” Hàn Giang chất vấn hỏi.

“Không sai, đây chính là nhiệm vụ của tôi và Yelena.” Makarov trả lời.

“Ông nhắm tới chúng tôi bằng cách nào vậy?”

“Tôi và Yelena gặp các anh vừa là trùng hợp, vừa là số phận an bài, hơn ba tháng trước, cung điện Mùa Đông ở Saint Petersburg bị mất một tác phẩm nghệ thuật quý báu, đó chính là kệ tranh ngọc Tây Hạ. Tính chất của kệ tranh ngọc này rất trọng đại, vậy là, bộ chỉ huy liền ủy thác cho Yelena và tôi đến Trung Quốc, truy tìm tung tích của kệ tranh ngọc. Từ Bắc Kinh đến Hồng Kông, đều lưu lại dấu chân của chúng tôi. Hội chợ bán đấu giá tại Bắc Kinh chúng tôi đã đến chậm một bước, nếu không thì tôi đã ngăn chặn cuộc bán đấu giá này. Sau này, chúng tôi lại đến Hồng Kông, cũng lại chậm một bước như thế. Kết quả, chúng tôi đã chứng kiến cuộc tranh giành đẫm máu đó.” Makarov giải thích.

“Hồng Kông? Lần đó các ông cũng ở đó?” Đường Phong nhớ lại cơn ác mộng kinh hoàng tại Hồng Kông hơn một tháng trước.

Makarov gật gật đầu: “Không sai, chúng tôi vừa mới tới Hồng Kông thì đã tận mắt chứng kiến cuộc huyết chiến đó, tôi và Yelena cảm thấy giật mình, bởi vì chúng tôi không ngờ rằng hóa ra lại có nhiều người quan tâm tới kệ tranh ngọc này đến vậy. Sau đó, tin tức về kệ tranh ngọc gần như biến mất. Nhưng đúng lúc chúng tôi chẳng biết làm cách nào thì lại nhận được một tin tình báo quan trọng, nói rằng tại Trung Quốc, khả năng vẫn còn có một kệ tranh ngọc khác. Vậy là, chúng tôi phán đoán, người nào có được kệ tranh ngọc này nhất định sẽ đến đây để tìm kiếm kệ tranh ngọc khác, thế nên...”

“Thế nên các ông đã đến đây?”

“Nhưng tôi không thể ngờ rằng người có được kệ tranh ngọc lại chính là các cậu. Được rồi, những gì cần nói tôi đều nói rồi, muốn xử lý tôi thế nào, tùy các cậu, muốn đẩy thẳng tôi xuống vực sâu hay là cho tôi một nhát dao? Tôi thấy hay là các cậu cứ trực tiếp đẩy thẳng tôi xuống vực, như thế nhanh gọn dứt điểm, không để lại dấu vết, cũng tránh để bộ xương già như tôi chịu khổ.” Makarov khảng khái đề nghị, dáng vẻ rất chính nghĩa lẫm liệt.

“Cái gì? Ông coi chúng tôi là hạng người nào vậy?” Hàn Giang tức giận.

“Hạng người nào? Quả thật ban đầu tôi đã tin những lời ma quỷ của các cậu, cảnh sát Trung Quốc và giảng viên đại học đi du lịch, khà khà, bây giờ xem ra, các cậu chẳng qua cũng chỉ là một bọn muốn đoạt được kệ tranh ngọc bí ẩn đó, các cậu và đám cướp đó chẳng khác gì nhau cả!”

“Thối hoắc! Tôi nói thật với ông nhé, dù sao thì ông cũng đang ở trong tay tôi rồi, nên tôi cũng không sợ ông tiết lộ bí mật, chúng tôi đang tìm kiếm kệ tranh ngọc cho Tổ quốc của mình, rồi giải mã những bí mật phía sau kệ tranh ngọc cũng là vì những oan hồn đã vì nó mà chết. ‘Lão K’, ông đã từng nghe đến cái tên này chưa?... Bây giờ thì ông đã hiểu rồi chứ?”

Makarov nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Hàn Giang cũng bắt đầu hiểu ra, ông chau mày, hồi tưởng lại: “Lão K! Lúc tôi tới bộ chỉ huy ở Mátxcơva hình như đã từng nghe nói qua.”

“Được rồi, ông đã biết được thân phận thật sự của chúng tôi như vậy thì chắc là cũng biết cái gì chúng tôi nên làm, cái gì chúng tôi không thể làm. Ông có ý đồ lấy trộm kệ tranh ngọc, đã làm sai nhưng lại đi tố cáo người khác trước, lại nghi ngờ chúng tôi, phải là chúng tôi nghi ngờ ông mới đúng? Khương Trại, đài thiên táng, đại khe sâu Nạp Ma, thậm chí là cả sự cố máy bay, ông hãy giải thích rõ cho chúng tôi nghe về tất cả những rủi ro ly kỳ trên cả đường đi của chúng tôi!” Hàn Giang nghiến răng áp sát Makarov nói.

“Cậu nghi ngờ tôi? Dựa vào cái gì mà nghi ngờ tôi? Nhiệm vụ của tôi và Yelena là đem kệ tranh ngọc về, những việc khác đều không liên quan gì đến tôi cả.” Makarov tranh cãi.

“Đem về? Kệ tranh ngọc là của Trung Quốc.” Đường Phong nói chêm vào.

Makarov quay lại nói với Đường Phong: “Là tác phẩm nghệ thuật của Trung Quốc, nhưng nó đã tới Liên Xô từ rất lâu rồi. Hơn một trăm năm trước, kệ tranh ngọc này đã thuộc về cung điện Mùa Đông, chỉ cách đây không lâu mới bị lấy trộm khỏi đó mà thôi.”

“Không sai, chúng tôi cũng biết kệ tranh ngọc này trở về từ nước Nga, nhưng mấu chốt của vấn đề không nằm ở đây, tôi khuyên ông hãy nói thật đi! Toàn bộ sự việc, rút cuộc ông biết được bao nhiêu? Các ông rút cuộc đã biết được những gì về kệ tranh ngọc?” Hàn Giang tiếp tục chất vấn Makarov.

“Tôi không thể nói, đây là cơ mật của chúng tôi. Nhưng... tôi chỉ có thể nói với cậu, chúng tôi biết rằng kệ tranh ngọc không chỉ có một tấm, còn những thứ khác tôi biết rất ít. Cho dù biết đi chăng nữa thì cũng là cơ mật không thể nói.”

“Ông cái này không biết, cái kia cũng không biết, được rồi, tôi hỏi ông, Yelena đi đâu rồi? Cái này chắc ông phải biết chứ nhỉ?” Nói xong, Hàn Giang đưa cánh tay nổi gân xanh ra tóm lấy ngực Makarov.

3

Makarov nhìn Hàn Giang, gào lên: “Yelena đi đâu, không phải cậu cũng thấy rồi sao? Nó mất tích rồi, khả năng là bị bọn người áo đen đó tóm được.”

“Ông đừng giả vờ nữa, Yelena bị bọn người áo đen đó bắt đi sao? Cô ta là đặc công át chủ bài của các ông cơ mà. Mấy người chúng ta mà còn thoát được truy sát, bản lĩnh của cô ta giỏi như thế sao lại bị tóm được chứ? Thêm cả biểu hiện của ông nữa, Yelena mất tích rồi nhưng ông không hề tỏ ra lo lắng, tôi muốn lên trên tìm cô ta nhưng ông đã ngăn tôi lại, hừm, đây lẽ nào chưa nói rõ được vấn đề sao?”

“Hàn Giang, rút cuộc anh có ý gì?”

“Ý gì? Rất đơn giản, tôi nghi ngờ Yelena cố ý tách chúng ta ra, cô ta đi chỉ huy người của các ông rồi báo tin cho họ. Đám người nước ngoài áo đen trong đại khe sâu Nạp Ma chính là người của các ông! Tôi đúng là có mắt như mù, tự nhiên lại đi tin vào những lời ma quỷ của ông. Suy nghĩ kĩ lại là có thể hiểu ra, đám người áo đen lợi hại như thế, chuyên nghiệp như thế có giống một đám cướp thông thường không? Không! Tuyệt đối không, chúng là người của các ông, tất cả đều là đặc công có tố chất từng qua huấn luyện.”

Makarov vô cùng tức giận, ông cũng tóm ngay lấy ngực Hàn Giang, gầm lên: “Cậu đang bôi nhọ, vu oan vô liêm sỉ, tôi không biết bọn người áo đen đó là ai, nhưng tôi có thể thề rằng, lần này tới Trung Quốc chỉ có hai người là tôi và Yelena. Tôi cũng lo lắng cho Yelena. Yelena tuy không phải là con gái ruột của tôi, nhưng hiện giờ nó còn thân thiết hơn cả con đẻ của tôi, tôi không cho phép cậu bôi nhọ nó. Nếu như cậu cứ khăng khăng khẳng định như vậy, vậy thì mời cậu đưa chứng cứ ra đây, đưa chứng cứ ra đây!”

“Tôi cảm thấy những gì Lão Mã nói đều là thật. Suốt dọc đường đi, trải qua bao thử thách sinh tử như vậy, chúng ta đều cùng nhau vào sinh ra tử, tôi tin rằng Lão Mã không phải người như vậy.” Đường Phong bắt đầu bị dao động.

Hàn Giang không buồn để ý lời Đường Phong nói, anh và Makarov mắt đấu mắt, hai người trừng trừng nhìn nhau, tuy đã mềm lòng rồi nhưng không ai muốn nhượng bộ trước. Tiếng gió gào thét thổi bên tai họ, thời gian trôi qua từng giây từng phút, rút cuộc, Hàn Giang đã nhượng bộ trước: “Ông lão ngoan cố này, được, coi như tôi tin ông lần này.” Hàn Giang buông Makarov ra, Makarov cũng buông tay khỏi Hàn Giang, Hàn Giang xoa xoa ngực rồi nói: “Vẫn còn một câu hỏi.”

“Cậu còn bao nhiêu câu hỏi nữa thì cứ nói hết ra, chỉ cần tôi biết, có thể nói tôi sẽ nói hết cho cậu.”

“KGB của các ông chẳng nhẽ không còn ai để phái đi hay sao, mà lại phái hai người bọn ông, một cô gái và cả ông lão về hưu như ông nữa?”

Makarov nghe thấy Hàn Giang hỏi như vậy, sững sờ, ông nhìn chằm chằm vào Đường Phong và Hàn Giang trước mặt, dần dần, mắt Makarov có chút ươn ướt. Đường Phong và Hàn Giang đều cảm thấy kinh ngạc, vậy là sao? Chưa từng thấy Makarov rơi lệ bao giờ! Makarov nghẹn ngào nói: “Thế thì phải kể từ đầu, tôi đã nghỉ hưu từ lâu rồi, đáng nhẽ nên ở nhà nghỉ ngơi an dưỡng, nhưng không ngờ... con trai duy nhất của tôi lại… lại bị người ta sát hại vì kệ tranh ngọc này, đến giờ vẫn chưa bắt được hung thủ. Tôi không thể chịu đựng được khi danh tiếng của con trai tôi bị hủy hoại, thế nên, tôi thề rằng phải tìm lại được kệ tranh ngọc bị mất ở cung điện Mùa Đông, trả lại sự trong sạch cho con trai tôi, và còn phải tóm được hung thủ đã giết hại nó...” nói tới đây, trước mắt Makarov bỗng hiện lên một cánh cửa, mọi chuyện đều bắt đầu kể từ khi ông mở cánh cửa đó ra.

4

Makarov hấp tấp lục soát khắp người, run rẩy lấy một chùm chìa khóa từ trong túi ra. Ông muốn nhét thẳng vào lỗ khóa nhưng không sao nhét vào đó được, tay ông mỗi lúc một run rẩy. Ông cố gắng giữ bình tĩnh, ổn định lại tinh thần, lần nữa lấy hai tay nhắm thẳng vào lỗ khóa, chiếc chìa khóa rút cuộc đã chui vào trong ổ khóa, “lách cách” một tiếng, cánh cửa to trước mặt đã mở ra.

Makarov cẩn thận rón rén bước vào căn phòng tối đen phía sau cánh cửa, bóng tối bao trùm, ông thò tay ra mò mẫm công tắc đèn trên tường, nhưng đèn vẫn chưa sáng. Cảm giác trong lòng Makarov càng lúc càng bất an: “Lẽ nào ngắt điện rồi?” Makarov nghi ngờ, mò đèn pin trên người ra, một chùm ánh sáng chiếu lên tường, đây là đâu? Một dãy hành lang? Makarov đột nhiên có cảm giác như đang ở một thế giới khác. Ông dò dẫm, rồi lại tới trước một cánh cửa. Ông đẩy cánh cửa ra, bên trong lại là một căn phòng tối đen, ông nhìn thấy một bộ ghế sô pha đỏ rực trong phòng, màu sắc đó khiến Makarov cảm thấy buồn nôn, làm ông vội vàng lui ra khỏi căn phòng này. Hành lang, hành lang dài hun hút, lại có một cánh cửa phòng im ỉm. Makarov đưa tay ra, ra sức đẩy cánh cửa đó, cửa không khóa, nhẹ nhàng đẩy một cái là đã mở ra, ánh sáng đèn pin quét một lượt khắp các góc trong phòng, một chiếc giường, một tủ đầu giường, tủ quần áo... trên giường có chút hỗn loạn, tim Makarov bất giác giật thót một cái, ông chầm chậm, chầm chậm, từng bước từng bước lui ra khỏi căn phòng này. Vẫn là dãy hành lang đó, lại là một căn phòng tối đen, kế tiếp đó, vẫn là dãy hành lang sâu hun hút...

Rút cuộc, Makarov đã đi tới cuối hành lang, trước mặt là một cánh cửa khép hờ, cánh tay phải già cỗi vô cùng run rẩy, khi tay ông vừa chạm vào cánh cửa trước mặt. Cánh cửa tự động mở ra, Makarov lập tức ngửi thấy mùi máu tanh quen thuộc. Trong cả đời làm việc của mình, ông đã vô số lần ngửi thấy thứ mùi này. Ông run rẩy soi đèn pin, trước mặt là cảnh tượng mà cả đời ông không thể nào quên được: một thanh niên trần truồng nằm trong bồn tắm, nửa bồn nước đã hoàn toàn bị máu nhuộm đỏ, còn máu tươi trên yết hầu của người thanh niên đó đã hoàn toàn đông lại khiến người ta buồn nôn.

“Victor, Victor, con ơi...” Makarov miệng lẩm bẩm, một mình đau buồn tuyệt vọng ngồi bệt trên ghế sô pha tanh mùi máu đỏ, thế giới xung quanh dường như đã ngừng lại, cảnh sát ra ra vào vào, chụp ảnh, lấy chứng cứ, thậm chí khi di hài của con trai bị người ta khiêng đi ông cũng không buồn chú ý tới. Trước mắt ông lại hiện lên cảnh tượng 30 năm trước, cũng là vào mùa hè như lúc này, một mình ông ôm con trai, chèo thuyền nghịch nước vui vẻ trên sông Neva tươi đẹp. Con trai thích nhất là ăn kem dâu tây bán ở tiệm giải khát trên phố ven sông Neva.

“Ngài là Ivan Petrovich Makarov, cha của nạn nhân Ivan Victor Pavlovic Makarov?” Một giọng nói sang sảng ngắt quãng hồi ức của Makarov. Ông ngẩng đầu lên, thất thần nhìn người đàn ông vạm vỡ trước mặt, gật gật đầu.

“Vụ án này hiện giờ do tôi phụ trách, tôi là Valentin Pavlov Ivan Sergei Mikhailovich của trường thiếu sinh quân Cục An ninh Liên bang,” người này tự giới thiệu rồi đưa thẻ của mình ra cho Makarov xem.

Makarov vừa nghe thấy người đứng trước mặt mình là đặc công của Cục An ninh Liên bang, lập tức trở nên cảnh giác, tiền thân của Cục An ninh Liên bang chính là KGB danh nổi như cồn, cái chết của con trai sao lại khiến đặc công Cục An ninh Liên bang chú ý tới? Ông nhìn xung quanh, những cảnh sát ban nãy còn ở đây chụp ảnh, lấy chứng cứ giờ đã không thấy đâu cả, trong căn phòng trống trải này giờ chỉ còn lại ông và đặc công Pavlov Ivan trước mặt.

“Trường thiếu sinh quân, hóa ra lại kinh động đến cả các cậu! Lẽ nào đây không phải là một vụ án hình sự thông thường sao?” Makarov cố gắng giữ được bình tĩnh, ra dáng là bậc tiền bối.

Pavlov Ivan kéo một chiếc ghế lại, ngồi trước mặt Makarov, anh nhìn Makarov rất lâu, mặt nở nụ cười mỉm, anh nói: “Trước tiên, tôi rất tiếc về tai nạn của con trai ông…” Pavlov Ivan nói tới đây, lại ra vẻ như có điều muốn nói nhưng lại ngập ngừng, anh trầm ngâm, ậm ừ rồi nói tiếp: “Tôi nói thẳng nhé, chúng tôi điều tra vụ án này là vì chúng tôi cho rằng cái chết của con trai ông có liên quan đến một vụ án buôn lậu cổ vật trộm cắp quan trọng. Ông biết rồi đấy, Cục An ninh Liên bang của chúng tôi không chỉ làm tình báo, tất cả những vụ án quan trọng đều liên quan tới chúng tôi.”

“Vụ án buôn lậu cổ vật trộm cắp quan trọng? Con trai tôi chỉ là thương nhân mở công ty nội thất thì liên quan gì tới cổ vật?” Makarov biết tỏng truyền thống của KGB, thích ôm đồm tất cả mọi việc, đến mức vụ án nào cũng muốn nhúng tay vào.

“Đúng vậy, tình báo của chúng tôi không làm sai đâu, cung điện Mùa Đông bị mất một cổ vật vô cùng quan trọng, còn công ty của con trai ngài gần đây đã tham gia vào một hạng mục công trình cải tạo cung điện, bởi vậy, chúng tôi nghi ngờ...”

“Cung điện Mùa Đông?” Makarov nghĩ ngay ra, mấy tháng trước, con trai đã từng hào hứng kể với mình về sự việc này, cung điện Mùa Đông, hoàng cung ngày xưa của sa hoàng, cùng với viện bảo tàng Hermitage ngày nay, bảo tàng Anh ở Luân Đôn và bảo tàng Louvre ở Paris được xếp là ba bảo tàng lớn trên thế giới, là niềm tự hào của nước Nga. Cung điện Mùa Đông lưu giữ vô số những báu vật đặc biệt, cổ vật quý hiếm, lẽ nào Victor thật sự làm cái việc ngu ngốc đó. Nó đã nhân cơ hội cải tạo công trình cung điện Mùa Đông trộm cắp cổ vật trong này? “Không! Con trai tôi tuyệt đối không làm việc phạm pháp!” Tuy con trai đã chết, nhưng Makarov vẫn không cho phép bất cứ ai bôi nhọ danh dự của con mình.

Pavlov Ivan vẫn còn muốn nói thêm điều gì đó, nhưng Makarov đã không thể nghe lọt tai thêm nữa, ông đứng phắt dậy, gào lên với Pavlov Ivan: “Cấp trên của cậu là ai? Nếu như tôi đoán không lầm thì là Ilyushin đúng không! Đưa tôi đi gặp anh ta! Tên tiểu tử này năm nào còn là học sinh của tôi, bây giờ hóa ra lại leo lên đầu tôi, lại dám đối với tôi như vậy...” Makarov vô cùng tức giận, ông không buồn màng tới Pavlov Ivan, lao thẳng ra khỏi cửa phòng.

5

Makarov tức tối lao xuống dưới tòa chung cư, liếc qua mấy chiếc xe tắc xi đỗ ven đường, sau đó mặc kệ lời mời gọi của mấy bác tài đỗ xe phía trước, ông lao thẳng vào chiếc tắc xi Prada cũ kĩ đỗ sau cùng.

“Tới tòa nhà Cục An ninh Liên bang.” Makarov dặn dò tài xế. Bác tài không hề khởi động xe mà nghi ngờ quay đầu lại nhìn ông lão ngang ngạnh.

“Anh không nghe thấy sao? Đến tòa nhà Cục An ninh Liên bang.” Makarov thúc giục. Bác tài chán nản lắc lắc đầu, đành phải khởi động xe, lái về hướng tòa nhà Cục An ninh Liên bang Petersburg.

Chiếc Prada dừng lại dưới tòa nhà Cục An ninh Liên bang. Chưa kịp đợi xe dừng hẳn, Makarov đã nhảy xuống, đi vào tòa nhà. Bác tài thấy vậy cũng nhảy xuống xe, đuổi theo Makarov gọi to: “Thưa ông, ông vẫn chưa trả tiền xe mà!”

Makarov quay lại, rặn ra một nụ cười, nói với bác lái xe: “Xin lỗi, lúc tôi rời khỏi nhà vội quá quen mất mang theo ví tiền, nhưng tôi nghĩ anh quay về chỉ cần báo với Ilyushin đại danh của tôi thì anh ta sẽ thanh toán cho anh chút tiền xe này; ghi nhớ, tôi tên là Ivan Petrovich Makarov!”

Makarov chỉ lo xông thẳng vào tòa nhà An ninh Liên bang, làm phòng tuyến an ninh trong mấy tầng lầu lập tức trở nên căng thẳng. Hai cảnh vệ mặc quân phục xông tới: “Xin lỗi, thưa ông, đây là Cục An ninh Liên bang, ông muốn tìm ai? Xin hãy đăng kí trước đã.” Makarov căn bản không buồn để ý tới hai cảnh vệ đó, chỉ thấy ông nhẹ nhàng quay quay cánh tay, lấy tay trái vặn cánh tay người cảnh vệ ra sau lưng, rồi lại thò cánh tay phải đanh chắc như thanh thép, khẽ đẩy, tức khắc, người cảnh vệ đó lập tức đổ ra đất, vô cùng đau đớn. Người cảnh vệ còn lại thấy vậy, không dám xông lên nữa, đứng trân trân nhìn Makarov đi qua phòng tuyến đầu tiên.

Lên trên lầu, tòa nhà ban nãy còn sát khí đằng đằng, giờ bất giác yên tĩnh trở lại, không gì có thể ngăn cản Makarov lao vào văn phòng của Ilyushin. Rõ ràng Ilyushin đã chuẩn bị sẵn, nên vừa nhln thấy Makarov, Ilyushin đã tươi cười nghênh đón: “Thầy giáo kính mến, sao hôm nay thầy lại đến đây ạ?”

Makarov lờ đi chiêu này của Ilyushin, ông chăm chú quan sát Ilyushin một lượt, hơn 10 năm không gặp rồi, vẻ ngoài của Ilyushin vốn không có gì thay đổi, vẫn gày gò như trước đây, đầu rẽ ngôi, để hàng ria mép nhỏ, và cả đôi mắt sáng rực có thần toát lên vẻ tinh nhanh năng nổ.

Makarov chất vấn thẳng anh ta: “Cậu có chứng cứ gì mà nghi ngờ con trai tôi trộm cắp cổ vật của cung điện Mùa Đông? Tôi tuyệt đối không cho phép các người bôi nhọ danh dự con trai tôi.”

“Thầy giáo kính mến, xin thầy đừng kích động, chúng tôi tất nhiên có chứng cứ.” Khuôn mặt Ilyushin vẫn tươi cười.

“Chứng cứ gì?”

“Tôi nghĩ Pavlov Ivan vẫn chưa nói rõ với thầy, không phải là con trai thầy trộm cắp báu vật cung điện Mùa Đông, mà là con trai thầy đã phát hiện ra báu vật ở cung điện Mùa Đông.”

“Phát hiện ra báu vật?”

“Đúng vậy, con trai thầy trong lúc thi công nội thất cho cung điện Mùa Đông, đã phát hiện ra một báu vật vô cùng quan trọng trong một gian mật thất đã đóng cửa mấy chục năm nay, nhưng thật đáng tiếc, con trai thầy đã không giao nộp lại báu vật mà chiếm giữ làm của riêng, rồi âm thầm đem ra khỏi cung điện Mùa Đông. Tôi nghĩ chắc có lẽ là do anh ta giữ báu vật đó làm của riêng nên mới dẫn đến vụ giết người đó.”

Makarov nghe những lời Ilyushin nói bất giác sững sờ, Ilyushin giải thích hợp tình hợp lý, lẽ nào cái chết của con trai ông quả thật là như vậy? “Đó là báu vật gì vậy?” Makarov định thần lại, hỏi.

Ilyushin lấy từ trong ngăn kéo ra một tấm ảnh đen trắng đã ngả vàng, đưa cho Makarov: “Đây! Chính là thứ này. Tôi cũng không biết thứ này nên gọi là gì. Tôi đã thỉnh giáo chuyên gia của viện bảo tàng Hermitage, họ nói rằng đây là một vật báu đến từ Trung Quốc, đến nay đã có gần nghìn năm lịch sử, gọi... gọi là...”

“Tên của nó là kệ tranh ngọc cổ chạm châu báu Tây Hạ, là báu vật đến từ vương triều Tây Hạ Trung Quốc.” Vẫn chưa kịp để Ilyushin nói xong, Makarov đã chậm rãi nói ra tên của báu vật trong bức ảnh này; còn Makarov, ông đang chăm chú nhìn vào bức ảnh trên tay, toàn thân bất giác thẫn thờ, đôi mắt vốn dĩ có thần, bỗng nhiên trở nên đục ngầu và xa vắng.

6

Ilyushin nghe thấy Makarov nói ra tên của báu vật trong ảnh thì vô cùng kinh ngạc: “Thầy biết thứ này!” Lập tức, anh ta lại truy hỏi Makarov: “Xem ra nhất định thầy đã từng nhìn thấy báu vật này ở chỗ con trai mình, chúng tôi đã lục soát chung cư của con trai thầy nhưng không tìm thấy báu vật đó. Thầy có biết tung tích của nó không?”

“Không! Không ai biết tung tích của nó. Tất cả những người có mưu đồ chiếm đoạt báu vật này đều sẽ phải chịu đựng sự trừng phạt nghiêm khắc nhất, huyết chú... huyết chú đáng sợ!” Miệng Makarov lầm bầm mãi không thôi.

“Thầy đang nói gì vậy?” Ilyushin hình như đã nhìn thấy ánh bình minh phá án, ánh mắt vụt lóe tia nhìn ớn lạnh, tiến lại gần Makarov.

Makarov đã hơi định thần lại, thều thào nói: “Cậu đừng uổng công vô ích nữa, vụ án này không đơn giản như cậu tưởng tượng đâu. Tôi khuyên cậu nên tránh xa vụ án này ra, đứng trên danh nghĩa thầy trò giữa chúng ta, tôi chỉ muốn tốt cho cậu.”

“Nực cười! Vụ án này sắp phá được án tới nơi rồi, tại sao tôi phải từ bỏ! Tôi biết, thầy vì chuyện trước đây vẫn hận tôi, vụ án lần này lại liên quan tới con trai thầy, bởi vậy thầy không muốn nhìn thấy tôi phá án.” Ilyushin vẫn vô cùng tự tin về vụ án, nên nghe không lọt tai lời khuyến cáo chân thành của Makarov.

Makarov lắc lắc đầu, nói với Ilyushin: “Cậu không nghe lời tôi thì sẽ thiệt thòi đấy! Thế này đi, cậu nối máy cho tôi với Mátxcơva, tôi ắt sẽ cho cậu biết sự nghiêm trọng của tình hình.”

Ilyushin nghe thấy những lời này, sau một lúc ngớ người ra liền cười nói: “Thầy giáo kính mến của tôi ơi, thầy già cả lẫn lộn rồi phải không, thầy cho rằng thầy vẫn có thể trực tiếp gọi điện cho tổng bộ sao? Đến cả tôi cũng không thể tùy tiện gọi điện cho tổng bộ nữa là.”

“Tôi biết tôi không có tư cách gì gọi điện cho tổng bộ thế nên mới làm phiền cậu gọi cho tổng bộ hộ tôi. Tôi nói lại lần nữa, việc này rất quan trọng, nếu như vì cậu mà để lỡ việc thì cái ghế cục trưởng của cậu cũng sẽ lật nhào đấy!” Giọng điệu của Makarov kiên định, không có gì để nghi ngờ.

Ilyushin nghĩ thầm, ông lão này định làm gì vậy? Gọi điện đến tổng bộ kiện cáo mình? Có lẽ là do tình cảm với con trai, cái chết của con trai đã làm cho thần kinh ông ta không bình thường, già lẩm cẩm rồi? Ông ta già lẩm cẩm, mình không thể hồ đồ theo ông ấy được, nghĩ tới đây, Ilyushin tắt phụt nụ cười, nghiêm túc nói: “Đủ rồi! Thầy giáo, tôi đã nhịn thầy nhiều rồi. Việc thầy tự ý xông vào tòa nhà Cục An ninh Liên bang, đánh bảo vệ bị thương cũng đủ để đưa ra tòa rồi. Tôi khuyên thầy hãy phối hợp với điều tra của chúng tôi, đừng quấy nhiễu làm loạn, như thế không có lợi gì cho thầy đâu.”

Makarov lắc đầu, than thở: “Xem ra cậu vẫn mê muội không chịu tỉnh ngộ. Cậu hỏi tôi tại sao lại biết báu vật đó, tôi có thể kể cho cậu nghe một chút về quá khứ của kệ tranh ngọc đó. Nửa thế kỷ trước, hai nước Trung - Liên đã từng tổ chức một đội thám hiểm khảo sát khoa học, trên danh nghĩa là khảo sát, nhưng thực tế là để giải mã bí mật của kệ tranh ngọc đó.”

“Bí mật?” Ilyushin vô cùng tò mò.

“Đúng vậy. Nhưng đội khảo sát sau đó gặp nạn, gần như toàn quân mất tích, từ đó trở đi kệ tranh ngọc không biết đi đâu về đâu... Hôm nay, báu vật này sau nửa thế kỷ biến mất đã lại lộ diện, nên tuyệt đối không đơn giản như cậu nghĩ.”

Ilyushin nghe xong những lời Makarov nói, cũng bắt đầu dao động, ngộ nhỡ quả đúng như những gì ông lão nói, sự việc nghiêm trọng hơn mình dự đoán?... Vậy thì... anh ta nghĩ đi nghĩ lại, rút cuộc vẫn nghe theo ý kiến của Makarov, gọi vào đường dây nóng của tổng bộ Mátxcơva.

7

Tại sân bay quân dụng của vùng ngoại ô Petersburg, một chiếc máy bay vận tải quân dụng 11-76 bay từ Mátxcơva hạ cánh xuống đường băng, đang từ từ trượt trên nền sân bay.

Makarov, Ilyushin và Pavlov Ivan, ba người đứng trên đường băng chờ đợi hồi lâu, “Đây rút cuộc là vụ án gì mà phải phái cả một chiếc 11-76 to như thế này tới, hơn nữa hành động còn nhanh như vậy. Tôi chưa từng bao giờ thấy cục diện này.” Pavlov Ivan đứng phía sau lầm rầm nói nhỏ với Ilyushin.

Ilyushin cũng mụ mị hết cả đầu óc, anh ta suy đoán: trong khoang máy bay của chiếc 11-76 khổng lồ này chắc chắn có chứa một số vũ trang đặc biệt, còn có khả năng chở cả một đội quân đột kích đặc chủng trang bị hoàn mỹ. Lãnh đạo đội quân đột kích đặc chủng này sẽ là ai đây?

Chiếc 11-76 đỗ hẳn trên sân bay, từ từ hạ cửa khoang sau xuống. Tất cả mọi người đều mở to mắt nhìn chằm chằm vào cửa khoang sau máy bay, nhưng thời gian từng giây từng phút trôi qua, bên trong cửa khoang sau máy bay, không hề vận chuyển ra trang bị đặc chủng mà Ilyushin dự đoán, cũng không có trọn bộ vũ trang của bộ đội đặc chủng. Sau năm sáu phút mọi người sốt ruột chờ đợi, đột nhiên, một chiếc xe Jeep UAZ quân dụng, vô cùng dũng mãnh gần như nhảy vọt từ cửa khoang sau “bay” ra. “UAZ” cua gấp trên nền sân bay, tiếng phanh xe rít lên, đột ngột lao tới vị trí mà mấy người nhóm Ilyushin đứng.

“Hóa ra là... cô ta.” Tiếng kêu đầy kinh ngạc của Ilyushin vang lên phía sau lưng Makarov.

“Ai? Sếp, anh nói cô ta là ai vậy?” Pavlov Ivan hỏi.

“Yelena!” miệng Ilyushin vẫn chưa khép lại đã lại lẩm bẩm nói.

“Yelena! Cô ta tên là Yelena sao? Cô ta họ gì...”

“Không ai biết cô ta họ gì, càng không ai biết họ tên đầy đủ của cô ta, thậm chí Yelena có phải là tên thật của cô ta hay không cũng không ai biết.” Khi Ilyushin nói xong những câu này, rút cuộc cũng khép miệng lại.

UAZ càng lúc càng tới gần, nhưng không hề có ý muốn giảm tốc độ, gần như muốn đâm vào Ilyushin, khiến anh ta sợ đến nỗi chuẩn bị co càng chạy. Makarov cũng trợn tròn mắt, theo phản xạ lùi lại vài bước. Cùng với tiếng phanh xe chói tai ngân dài, thì chỉ thấy chiếc UAZ rẽ ngoặt trước mặt, khựng ngay lại.

Yelena nhảy xuống xe, đến trước mặt Makarov: “Chào thầy, thầy giáo kính mến! Thầy có còn nhớ em không ạ?”

“Cô là...” Makarov cố gắng hồi tưởng lại.

“Thầy có còn nhớ khóa học sinh cuối cùng của thầy không?... Yelena! Tuy thầy chỉ dạy em có một năm, nhưng em vẫn luôn kính trọng thầy.”

“Yelena, cô là Yelena!” Makarov rõ ràng không dám tin cô gái gày yếu năm nào giờ lại cao lớn đứng ngay trước mặt mình.

“Nghe nói con trai thầy không may gặp nạn, hơn nữa lại còn liên quan tới vụ án này... em cũng rất buồn.” Trong lúc thầy trò Yelena và Makarov hàn huyên thì Ilyushin và Pavlov Ivan cũng đứng phía sau quan sát Yelena. Thấy Yelena mặc một bộ quần áo phi công, tuy đã ngoài 30 tuổi nhưng thân hình vẫn rất hoàn mỹ, chiếc kính râm gác trên mái tóc ngắn màu nâu, mặt trang điểm nhẹ, che đậy những vết nhăn hiếm hoi của năm tháng. “Đúng là trời sinh.” Pavlov Ivan ngắm nhìn cô ta mà lòng dạ có chút xốn xang.

“Tốt nhất là cậu nên tỉnh táo chút đi. Theo như tôi biết thì đàn ông theo đuổi cô ta có thể xếp thành một hàng dài, nhưng cô ta không ưng ai cả, đến giờ vẫn cô đơn một mình. Đàn ông trên đời này cô ta để ý tới chả có mấy người.” Ilyushin khẽ nói với Pavlov Ivan.

“Sao máy bay to như vậy mà chỉ có mỗi cô ta xuống? Nghe anh nói vậy thì cô ta có còn là phụ nữ không nhỉ?”

“Mỗi mình cô ta tới cũng đủ cho cậu chịu đựng rồi! Cô ta vốn không phải là phụ nữ, mà là người biến thái. Ngoài ra, tôi còn phải nói với cậu, võ thuật của cô ta rất lợi hại, cậu nhất định đừng có mà gây sự với cô ta.” Ilyushin càng nói càng hăng.

Hai người đang rì rầm to nhỏ thì Yelena đã bước tới đứng trước mặt Ilyushin: “Chào thượng tá Ilyushin, lại nói xấu tôi rồi.”

“Tôi nào dám, cô mới là người nổi tiếng của tổng bộ, trong lòng tôi, cô chính là hóa thân của nữ thần hoàn mỹ. Nhìn cô ăn mặc thế này, ban nãy cô vừa tự lái máy bay sao?” Từ trước đến nay trước mặt phụ nữ đẹp Ilyushin chưa bao giờ keo kiệt thốt ra những mỹ từ của mình.

“Đúng vậy! Sự tình cấp bách, tôi đành phải tự lái máy bay tới.”

“Ôi! Yelena thân mến, cô cừ thật đấy, hiện giờ trong lòng tôi, cô không chỉ là nữ thần mà còn là thiên sứ, thiên sứ có đôi cánh.” Ilyushin càng nói nghe càng bốc, Makarov và Pavlov Ivan đứng nghe mà nổi cả da gà.

Nghe xong những lời nịnh nọt của Ilyushin, Yelena liền nở ra nụ cười hiếm có. Sau đó, Ilyushin giới thiệu Pavlov Ivan với Yelena. Nghe giới thiệu xong, Yelena thu lại nụ cười, nghiêm túc nói với mọi người: “Kể từ bây giờ, các anh phải nghe theo sự chỉ huy của tôi, bao gồm cả ngài, thượng tá Ilyushin.” Vừa nói, Yelena vừa đưa mắt nhìn Ilyushin.

“Tất nhiên là vậy rồi, đều nghe cô dặn dò, cô xem sau đây chúng ta sẽ đi đâu? Hay là nghỉ ngơi trước đã...” Chưa kịp đợi Ilyushin dứt lời, Yelena đã ngắt lời anh ta - ra lệnh cho mọi người: “Ba người lập tức theo tôi tới cung điện Mùa Đông.”

8

Petersburg, vào buổi chiều mùa hè cả không gian như đang nghênh đón những đêm trắng diễm lệ, những tia nắng còn sót lại lúc mặt trời lặn soi sáng chân trời. Sau thời khắc hoàng hôn ngắn ngủi, lại hừng lên ánh bình minh, đường chân trời ửng lên những tia sáng màu đỏ, màu xanh lá cây, màu vàng... đủ màu sắc kỳ dị xua đuổi bóng đêm. Trong những đêm trắng này, thanh niên tụ tập ở quảng trường trước cung điện Mùa Đông, âm nhạc rộn ràng, vui hoan thâu đêm. Petersburg biến thành một thành phố không có đêm đen.

Makarov và Yelena chẳng có tâm trạng đâu mà thong dong, họ xuyên qua quần thể tượng thần Adas khổng lồ nơi cổng cung điện Mùa Đông, tiến vào bên trong. Tại sảnh nghỉ chân trong cung điện Mùa Đông, họ gặp nhà nghiên cứu trẻ Julia Volodymyrivna của bảo tàng nghệ thuật Viễn Đông đến trước để tiếp đãi họ.

Julia Volodymyrivna dẫn mọi người tới một căn mật thất vừa được dọn dẹp sạch sẽ dưới cung điện Mùa Đông.

Đây là một căn mật thất không rộng lắm, ba mặt kín bưng, một mặt liền kề với nhà kho cổ vật, bên ngoài đang tu sửa, do tu sửa nên kho cổ vật đã hoàn toàn để trống.

Julia Volodymyrivna chỉ vào cánh cửa mật thất bị mở ra, giới thiệu: “Ở đây trước kia vốn được một bức tường gạch bịt kín, nhìn từ bên ngoài rất khó phát hiện ra căn phòng bí mật này. Bởi vậy trước đây chúng tôi hoàn toàn không biết ở đây vẫn còn có một mật thất, trong quá trình tu sửa lần này căn phòng bí mật mới được phát hiện.”

Yelena xem xét hiện trường rồi quay mặt lại chăm chú nhìn cô gái đeo kính trẻ tuổi cao gày này: “Các cô không biết về sự tồn tại của căn phòng bí mật này sao?”

Julia Volodymyrivna nhấc nhấc gọng kính, gật đầu đáp: “Đúng vậy, chúng tôi chưa từng biết ở đây vẫn còn có một gian mật thất. Sau này chúng tôi có hỏi một số đồng nghiệp cao tuổi đã về hưu, một vị đã ngoài 90 tuổi nhớ lại, thời chiến tranh vệ quốc, để chống lại sự tập kích bằng không quân của Đức và Pháp, lúc đó quả thật đã đào cái hầm này dùng để tránh máy bay địch. Nhưng sau này, gian mật thất này bị bịt vào lúc nào và tại sao lại bị bịt, bên trong cất giấu những thứ gì thì ông ấy không biết.” Julia Volodymyrivna kể tường tận lại tình hình cho Yelena nghe.

Makarov im lặng lắng nghe, còn đầu óc thì vận hành liên tục như một chiếc ra đa. Qua lời nói của Julia Volodymyrivna, ông đã nắm bắt được mọi tin tức có giá trị, đây là thói quen mà ông đã hình thành sau bao năm trong nghề. Julia Volodymyrivna nói xong, Makarov liền nói chen vào: “Sao các cô không biết về sự tồn tại của gian mật thất này mà lại biết được trong đó có cất giấu kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ?”

Julia Volodymyrivna giải thích: “Là thế này, tôi là nhân viên đầu tiên của bảo tàng phát hiện ra mật thất. Trước đây, căn mật thất này được nhân viên thi công mở ra, cụ thể lúc nào tôi cũng không rõ lắm, có thể là một tháng trước, có thể là hai tháng trước, cũng có thể còn sớm hơn. Công nhân thi công dùng vải bạt che lối vào mật thất, thế nên mãi sau chúng tôi vẫn chưa phát hiện ra mật thất này, cho tới tuần trước, sau khi tôi phát hiện ra mật thất, tôi đã lập tức bảo đội thi công dừng lại. Tôi vào trong mật thất kiểm tra thì phát hiện trong đó có một chiếc két bảo quản phủ đầy bụi bặm, nhưng khi tôi mở chiếc két bảo quản ra thì thấy bên trong trống trơn, kiểm tra kỹ thì thấy trên két rõ ràng có vết tích bị người ta cậy khóa. Tôi đoán chiếc két đó đã bị công nhân thi công mở ra. Sau đó, trong đống đá vụn bên cạnh chiếc két, tôi lại phát hiện ra một tấm ảnh đen trắng, trên ảnh chính là kệ tranh ngọc đó, phía sau bức ảnh có viết tên của báu vật này là: kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ, bằng tiếng Trung và tiếng Nga. Tôi nghĩ chắc là kẻ trộm trong lúc hấp tấp đã đánh rơi lại bên chiếc két.”

Makarov đi tới cạnh tường phía sau mật thất, cúi người xuống kiểm tra, chân tường phía sau quả nhiên rơi vãi một chút đá vụn và lớp bụi dày, bên cạnh đá vụn là chiếc két bảo quản đó. Cửa két đã mở ra, Makarov ngồi xổm trước két bảo quản, cẩn thận kiểm tra nó, quả nhiên là một chiếc két đã có nhiều năm tuổi, cửa két rõ ràng mới bị người ta cậy gần đây, nhưng Makarov vẫn không thể tin lời của Julia Volodymyrivna. Ông hỏi lại Julia Volodymyrivna: “Dựa vào một tấm ảnh, các cô đã có thể xác định vật báu đó là của viện bảo tàng?”

Julia Volodymyrivna lắc đầu nói: “Đương nhiên không chỉ bức ảnh này, sau này chúng tôi còn có phát hiện kinh ngạc hơn nữa.”

9

“Phát hiện kinh ngạc hơn nữa?”

“Đúng vậy, phát hiện kinh ngạc hơn nữa! Dựa vào kiến thức của mình, tôi phán đoán rằng kệ tranh ngọc đó vô cùng quý báu. Tuy đã làm việc nhiều năm trong viện bảo tàng nhưng tôi lại không có chút ấn tượng nào về kệ tranh ngọc này, vậy là tôi phát động các đồng nghiệp cùng tìm kiếm hồ sơ lưu trữ cũ của viện bảo tàng, nhưng không phát hiện ra kệ tranh ngọc. Thế nhưng trong mục lục có vật lưu giữ của những năm 50 thế kỷ trước, chúng tôi đã tìm thấy kệ tranh ngọc. Tiếp tục tra cứu mục lục thời gian trước đó, những năm 40, những năm 30, những năm 20, thậm chí là trong cả mục lục cổ vật lưu giữ trước cách mạng tháng Mười đều có đăng kí về kệ tranh ngọc này, nhưng trong mục lục cuối những năm 50 thì lại không tìm thấy đăng kí của kệ tranh ngọc này nữa.”

“Thật kỳ lạ, tại sao mục lục trước đây đều có đăng kí, nhưng trong mục lục từ những năm cuối thập niên 50 thì kệ tranh ngọc này lại biến mất bí ẩn như vậy nhỉ?” Ilyushin và Pavlov Ivan cũng cảm thấy khó hiểu.

Makarov và Yelena trầm ngâm im lặng, mãi lâu sau, Yelena mới mở miệng hỏi Ilyushin đứng bên cạnh: “Sau khi vụ án xảy ra, các anh đã thẩm vấn công nhân đội thi công chưa? Ilyushin vội trả lời: “Sau khi viện bảo tàng báo án, chúng tôi đều lấy lời khai của từng công nhân tham gia vào hạng mục công trình này, không trừ một ai. Tất cả công nhân tham gia hạng mục công trình này đều thừa nhận mật thất là do họ phát hiện và mở ra mấy tháng trước, nhưng cũng không trừ một ai, tất cả công nhân đều phủ nhận họ lấy cắp báu vật trong két; thậm chí khi đưa bức ảnh cho họ xem, họ đều không biết trong ảnh là thứ gì. Bởi vậy, chúng tôi gần như loại trừ những công nhân đó khỏi diện tình nghi.”

“Cũng có nghĩa là, theo như điều tra của các anh thì Victor là đối tượng tình nghi lớn nhất hả?” Yelena hỏi lại Ilyushin.

“Đúng là như vậy, tất cả công nhân đều nghe theo anh ta, nên chỉ có anh ta là có khả năng nhất...”

Vẫn chưa để Ilyushin kịp nói hết câu, Makarov đã ngắt lời anh ta, tức tối: “Những công nhân đó phủ nhận họ lấy trộm báu vật thì cậu đều tin sao? Còn lẽ nào Victor thừa nhận báu vật là do nó lấy trộm?”

“Thầy giáo kính mến, thầy đừng tức giận! Chúng tôi tất nhiên có lý do của chúng tôi. Chúng tôi thẩm tra công nhân vô cùng nghiêm túc, nhóm công nhân không thể có cơ hội thông cung, bao nhiêu công nhân như vậy đều nói giống hệt nhau, nên chúng tôi không thể không tin. Tất cả công nhân có mặt tại hiện trường đều nói là hôm đó sau khi mở căn phòng bí mật ra, Victor là người đầu tiên đi vào bên trong. Hơn nữa, lúc đó có công nhân đề xuất nên báo cáo với bảo tàng về việc phát hiện ra căn phòng bí mật, nhưng đã bị con trai thầy cự tuyệt với lý do: không cần thiết, viện bảo tàng biết có căn phòng bí mật này từ lâu rồi. Còn nữa, khi những công nhân này nhìn thấy bức ảnh, thì không có một ai từng nhìn thấy thứ trên ảnh, càng không biết đó là thứ gì. Nhưng con trai thầy thì lại khác, chúng tôi đã từng thẩm vấn anh ta, khi chúng tôi đưa bức ảnh này cho anh ta xem, tuy miệng anh ta cũng phủ nhận, nhưng dựa vào kinh nghiệm đoán án bao năm qua, tôi vẫn nhìn thấy sự kinh ngạc mà anh ta không sao che giấu nổi trong chính đôi mắt của anh ta. Tôi có thể đoán định, con trai thầy, nhất định đã từng nhìn thấy kệ tranh ngọc này.” Ilyushin giải thích một tràng liền mạch.

“Tôi cần chứng cứ, chứ không phải là suy luận hay suy đoán theo chủ quan của cậu.” Rõ ràng Makarov rất không hài lòng với giải thích của Ilyushin.

Ilyushin vẫn muốn nói thêm gì đó nhưng đã bị Yelena lập tức ngăn lại. Yelena liền nói: “Các vị, bây giờ tôi nói một chút về suy đoán của tôi, các chứng cứ cho thấy, căn mật thất này được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc những năm 40, bị đóng kín vào cuối những năm 50, trong lúc đóng kín, bên trong có cất giữ một két bảo quản, và trong chiếc két bảo quản này chắc là có cất giữ kệ tranh ngọc trong bức ảnh kia. Mấy chục năm sau, không ai biết về bí mật này, căn mật thất đóng kín mãi cho tới tận ngày nay, cho tới khi bị đội thi công vô tình mở ra, đồng thời phát hiện ra báu vật đó. Tôi nghĩ những suy đoán này là hợp tình hợp lý. Còn về việc rút cuộc ai đã lấy trộm báu vật, và báu vật chạy đi đâu mất, vẫn cần chúng ta phải tiến hành điều tra thêm bước nữa, bây giờ đưa ra kết luận thì tôi cho rằng hơi sớm.”

Mọi người nghe suy đoán của Yelena, lần lượt gật đầu, chỉ có Makarov lại càng chìm sâu trong suy tư: tại sao mật thất bí ẩn này lại đột nhiên bị bịt kín vào cuối những năm 50? Bên trong mật thất ngoài kệ tranh ngọc ra thì còn có những bí mật gì nữa? Còn hung thủ giết hại con trai ta ở đâu? Căn phòng bí mật của cung điện Mùa Đông - một chiếc hộp Pandora được mở ra! - Makarov cảm thấy đầu óc mình như sắp nổ tung.

10

Makarov sau bao nhiêu dằn vặt cũng đã mệt mỏi, nhất là khi nhớ tới con trai đã chết khiến toàn thân ông rã rời. Ông rệu rã ngồi bệt xuống, đổ người tựa vào một tảng đá to bên cạnh, thất thần nhìn về những rặng núi im lìm phía xa xăm... Đường Phong và Hàn Giang lúc này đã hiểu rõ thân phận của Makarov, Yelena, và cả thân thế của kệ tranh ngọc trước khi được bán đấu giá. Giờ thì hai người gần như đã tiêu tan mọi nghi ngờ về Makarov. Hai người không nỡ làm phiền Makarov, đang định bỏ đi, đột nhiên, Makarov gọi họ lại. Cả hai đều không hiểu có chuyện gì, quay trở lại bên cạnh Makarov, lúc này mới phát hiện ra mắt Makarov đã đầm đìa nước, ông khóc không thành tiếng.

Đường Phong không ngờ người đàn ông sắt đá này lại có lúc mang tâm trạng của nữ nhi, anh đành phải an ủi ông:

“Khóc đi, khóc ra sẽ tốt hơn chút.”

Makarov gạt nước mắt trên má, dần dần bình tĩnh trở lại, nói với Đường Phong và Hàn Giang: “Tổng bộ phái tôi tới Trung Quốc còn có một nguyên nhân quan trọng nữa vốn dĩ tôi không muốn nói ra, cũng không nên nói, nhưng hôm nay ở đây, tôi sẽ nói, tôi tin các cậu, tôi tin các cậu sẽ giữ được bí mật này.”

“Bí mật?”

“Đúng vậy! Tổng bộ phái tôi đến Trung Quốc tìm kệ tranh ngọc này về còn có một nguyên nhân quan trọng nữa, bởi vì tôi là người duy nhất đã từng nhìn thấy kệ tranh ngọc này.”

“Á!” Đường Phong và Hàn Giang giật bắn mình. Đường Phong hỏi: “Ban nãy không phải ông vừa nói rằng kệ tranh ngọc đó bị cất kín trong mật thất mấy chục năm nay, sao ông lại từng nhìn thấy nó được?”

“Không sai, kệ tranh ngọc này đã bị đóng kín mấy chục năm trong căn phòng bí mật của cung điện Mùa Đông, nhưng khoảng hơn nửa thế kỷ trước, tôi đã từng nhìn thấy kệ tranh ngọc này!”

Đường Phong và Hàn Giang lúc này kinh ngạc tới mức không thốt nên lời. Makarov tiếp tục chậm rãi nói: “Các cậu điều tra bí mật của kệ tranh ngọc thì chắc là cũng đã từng nghe qua về đội thám hiểm khoa học liên hợp Trung - Liên nửa thế kỷ trước rồi đúng không?”

“Sao? Nửa thế kỷ trước, lẽ nào ông chính là thành viên của phía Liên Xô may mắn còn sống sót trong đội thám hiểm Trung - Liên lần đó?” Đường Phong kìm nén hồi lâu, cuối cùng mới nói tới sự thật kinh hoàng này.

Mắt Makarov cũng bừng sáng lên: “Xem ra các cậu đã biết rất nhiều rồi đấy. Đúng! Tôi chính là thành viên Liên Xô may mắn sống sót năm ấy. Năm đó đội thám hiểm đã bị chôn vùi ở sâu trong sa mạc Badain Jaran, chỉ có tôi và một người phiên dịch Trung Quốc là may mắn sống sót. Người phiên dịch Trung Quốc đó là người bạn Trung Quốc thân nhất của tôi trong đội thám hiểm khoa học đó, tới tận giờ tôi vẫn nhớ như in... Anh ấy họ Lương, tên... tên là Lương Vân Kiệt!”

“Thật... thật không thể tin được, ông có biết cô gái đi cùng chúng ta là ai không?” Đường Phong kinh ngạc.

“Là ai?”

“Là cháu nội của Lương Vân Kiệt, cô ấy tên là Lương Viện!”

“Không! Không thể như vậy...” Makarov không dám tin rằng mình lại gặp được cháu gái của Lương Vân Kiệt ở đây: “Vậy... vậy ông nội cô ấy hiện giờ sao rồi?”

Đường Phong và Hàn Giang vừa nghe thấy Lão Mã hỏi thăm Lương Vân Kiệt đều trở nên trầm ngâm, hai người nhìn nhau, vẫn là Đường Phong chùng giọng xuống nói: “Lương lão tiên sinh hơn hai tháng trước bị người ta giết hại rồi.”

“Ôi! Bị giết hại rồi? Ai làm vậy?” Makarov truy hỏi.

“Vụ án đến giờ vẫn chưa phá xong, nhưng, hiện giờ chúng tôi cơ bản có thể nhận định, chính là đám người áo đen đã giết hại Lương Vân Kiệt.” Đường Phong ngập ngừng một lúc, nói tiếp: “Cái chết của Lương Vân Kiệt có liên quan rất lớn tới kệ tranh ngọc này. Ông có biết sau này kệ tranh ngọc trở về Trung Quốc và ai đã mua nó trong hội chợ đấu giá không?”

“Lương Vân Kiệt?”

“Ừm, Lương lão tiên sinh đã mua kệ tranh ngọc này, không ngờ nó lại khiến ông ấy thiệt mạng.”

“Nói như vậy, Lương, anh ta vẫn luôn quan tâm tới kệ tranh ngọc, quan tâm tới tung tích của đội thám hiểm khoa học năm nào. Nhưng... nhưng tại sao anh ta lại chết? Tôi vẫn muốn gặp lại anh ấy, để hàn huyên chuyện năm nào. Ôi! Đây đều do số phận an bài! Huyết chú đáng sợ, nó lại linh nghiệm rồi. Phàm là những ai có mưu đồ muốn đoạt được kệ tranh ngọc, phàm là những ai muốn khám phá bí mật của kệ tranh ngọc thì đều sẽ phải chịu lời nguyền.” Makarov lại nhắc tới huyết chú, trong đêm đen tĩnh mịch, trên vách núi cheo leo trống trải. Đường Phong và Hàn Giang đều cảm thấy vô cùng ớn lạnh.

“Sao cơ? Ông cũng đã từng nghe đến huyết chú?” Đường Phong hỏi.

“Đúng vậy, năm đó trong đội thám hiểm, đây là điều cấm kị không ai được nói. Ban đầu tôi vốn không biết, nhưng vào ngày cuối cùng, khi ngày tận thế đáng sợ giáng xuống, tất cả mọi người đều âm thầm bàn luận về huyết chú, cuối cùng, nó đã linh nghiệm!” Đôi mắt vốn có thần của Makarov bỗng chốc trở nên đục ngầu.

Đường Phong thở dài não nề, nói với Makarov: “Bây nhìn lại, từ khi kệ tranh ngọc xuất hiện lại đã chết rất nhiều người rồi, không chỉ có con trai ông và Lương Vân Kiệt…”

Vậy là, Đường Phong đã kể lại cho Makarov nghe nguyên văn tất cả những sự kiện kể từ khi hội chợ đấu giá bắt đầu, gồm cả tai nạn của Lương Vân Kiệt sau đó - dĩ nhiên, anh phải lược đi thành quả nghiên cứu kệ tranh ngọc của giáo sư La.

Makarov nghe xong, không ngừng xuýt xoa. Ông đã cơ bản hiểu rõ quá trình của sự việc, cũng hiểu rằng hiện giờ chỉ có Đường Phong và Hàn Giang mới đáng để tin cậy. Ông hạ quyết tâm lớn: “Tôi đã từng nói rồi, số phận không công bằng với tôi. Nửa thế kỷ trước, cuộc đời tôi vì kệ tranh ngọc này mà thay đổi, nửa thế kỷ sau, con trai tôi và bạn tôi lại vì kệ tranh ngọc này mà mất mạng. Nhưng, hiện giờ thì tôi không tin vào số phận nữa rồi, trong những năm còn lại của cuộc đời, tôi sẽ bóc gỡ bí mật phía sau kệ tranh ngọc, tóm được hung thủ phía sau bóng tối!”

“Đúng! Hãy để chúng ta cùng hợp tác!” Đường Phong đưa tay về phía Makarov trước, ngay sau đó, Makarov và Hàn Giang cũng đưa tay ra, ba người tay nắm chặt tay.
 

hoahongden12

Active Member

1

Cả đêm im lặng, khi Đường Phong tỉnh lại, ngoài cửa sổ đã là một thế giới trắng muốt. Đường Phong giật mình đẩy cửa phòng thì nhìn thấy Hàn Giang và Makarov đang đứng trước khoảnh sân của căn nhà gỗ ngắm nhìn tuyết trắng.

Hàn Giang quay lại nhìn thấy Đường Phong liền hỏi: “Sao rồi? Nghỉ ngơi khỏe chưa?”

Đường Phong thẫn thờ gật gật đầu, coi như trả lời Hàn Giang, nhưng vẻ mặt đầy kinh ngạc: “Thật là quá đẹp! Đây...” Đường Phong há nửa miệng, ngạc nhiên nhìn chăm chăm về cảnh vật bọc trong tuyết trắng, hồ nước trắng, những rặng núi tuyết trắng, đại tuyết sơn phía xa xa càng thêm trang nghiêm tĩnh mịch…

“Không ngờ nửa đêm tuyết lại rơi nhiều như vậy, đây có lẽ là trận tuyết đầu mùa ở đây năm nay.” Hàn Giang nhìn về phía tuyết sơn xa xa, tự mình lẩm bẩm.

“Đúng vậy! Quả là một trận tuyết to.” Makarov nói.

“Mọi người xem...” Đường Phong đột nhiên chỉ về ngọn núi tuyết phía xa xa, thốt lên kinh ngạc. Hàn Giang và Makarov nhìn theo hướng ngón tay Đường Phong chỉ: “Mọi người nhìn, nhìn thấy chưa?”

“Nhìn thấy gì?” Makarov không hiểu hỏi.

“Tuyết sơn, đỉnh đại tuyết sơn, đỉnh tuyết sơn rút cuộc cũng lộ ra rồi.” Đường Phong phấn khích hét lên kinh ngạc.

Hàn Giang và Makarov gần như cùng lúc cũng đã nhìn thấy, đỉnh núi tuyết vốn luôn bị mây khói bao phủ, không chịu lộ diện, rốt cuộc cũng đã lộ ra diện mạo của nó.

“Hùng vĩ quá, ngọn núi tuyết này tên là gì nhỉ?” Hàn Giang không thể không thốt ra lời ca ngợi.

“Nó tên là A Ni Mã Khanh!” Phía sau lưng mọi người bỗng nhiên vang lên giọng nói dịu dàng của Hắc Vân. Mọi người quay đầu lại nhìn thì thấy Hắc Vân đang chầm chậm bước tới. Đường Phong càng thêm kinh ngạc: “Cô nói ngọn núi tuyết này tên là gì cơ?”

“A Ni Mã Khanh!” Hắc Vân nhắc lại lần nữa.

“A Ni Mã Khanh? Cô nói là A Ni Mã Khanh! Ở đây có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh? Thật là không thể tưởng tượng được!” Đường Phong lập tức nghĩ ngay tới núi tuyết A Ni Mã Khanh ở mãi tận trong lãnh thổ Thanh Hải.

Hắc Vân thấy vẻ kinh ngạc của Đường Phong liền cười hinh híc đáp: “Tuy ở đây anh có thể nhìn thấy núi tuyết A Ni Mã Khanh, nhưng thật ra núi tuyết cách đây rất rất xa.” Hắc Vân dừng lại một lúc rồi tự thốt lên: “Đây là một ngọn núi thần, mỗi khi có ai nhìn thấy ngọn núi tuyết này thì sẽ bị sự thanh khiết, diễm lệ của nó chinh phục. Theo như những bậc cao tuổi nói lại thì, người nào có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của A Ni Mã Khanh, họ sẽ hạnh phúc một đời, vận may sẽ thường ở bên người đó. Vậy nên những người thành kính thường đứng đó rất lâu, chờ đợi mây khói tản đi, hy vọng có thể nhìn được dung mạo thật sự của A Ni Mã Khanh. Vậy mà, mọi người đều hết lần này đến lần khác thất vọng, bởi vì A Ni Mã Khanh giống như một thiếu nữ tính khí đỏng đảnh, những lúc tức giận đều trốn nấp trong mây khói…”

“Nói như vậy thì chúng tôi may mắn quá rồi!” Đường Phong ngắt lời Hắc Vân.

“Đúng vậy, các anh rất may mắn, vừa mới tới đây mà đã có thể nhìn thấy diện mạo thật sự của A Ni Mã Khanh.” Hắc Vân gật gật đầu đáp.

“May mắn? Khà khà, kể từ sau khi tôi bị cuốn vào sự việc này, cái từ may mắn đã rời bỏ tôi ra đi rồi; gặp phải trận tuyết to thế này, tôi thấy chỉ khiến chúng ta càng thêm đen đủi.” Makarov vốn im lặng hồi lâu giờ đã cất lời.

“Ý ông nói tuyết lớn phong tỏa núi, chúng ta càng không dễ để ra ngoài đúng không?” Đường Phong nghi hoặc nhìn Makarov.

Makarov nặng nề gật gật đầu, lòng Đường Phong và Hàn Giang cũng trĩu nặng.

Ba người quay vào trong căn nhà gỗ. Khi đi qua cửa gian Phật đường, Đường Phong phát hiện, cửa chính phật đường vẫn đang đóng im ỉm, Đại Lạt ma đâu? Ông ấy còn ở trong đó không? Đường Phong trong lòng đầy nghi ngờ cố ăn hết bữa sáng mà Hắc Vân chuẩn bị cho họ, sau đó đến phòng của Lương Viện. Thuốc mà Đại Lạt ma hôm qua cho Lương Viện uống quả nhiên công hiệu, cô đã hết sốt, chỉ có điều là vẫn hôn mê bất tỉnh.

Đường Phong ở lại phòng Lương Viện, đợi cô gái tỉnh dậy. Nhưng anh chưa đợi được Lương Viện tỉnh lại thì đã nhận được lời triệu lên của Đại Lạt ma. Đường Phong thấp thỏm bất an đi theo Hắc Vân, rồi lại đi vào gian Phật đường bí ẩn đó. Trước gian thờ Phật, Đại Lạt ma vẫn ngồi khoanh chân như cũ, nhắm mắt tịnh tâm, phía bên kia, Hàn Giang và Makarov đã ngồi đó chờ đợi khá lâu rồi.

2

Đợi Đường Phong ngồi yên vị, Đại Lạt ma đột nhiên mở mắt, đôi mắt như hai ngọn đuốc, uy nghiêm nhìn khắp một lượt những người trong lễ đường. Sau đó ông lại cụp mắt xuống, xoay tràng hạt xương người, đọc một đoạn kinh văn. Đường Phong, Hàn Giang và Makarov nghi hoặc nhìn nhau, không biết Đại Lạt ma sẽ làm gì ngay sau đây?

Đọc xong một đoạn kinh văn, Đại Lạt ma cuối cùng cũng mở miệng hỏi: “Các vị, có thể nói cho ta biết sự việc đêm qua không?”

“Cái gì?”, “Sự việc đêm qua?” Trong lòng Đường Phong, Hàn Giang và Makarov đều kinh ngạc. Đại Lạt ma ám chỉ việc ba người tranh giành kệ tranh ngọc trên vách núi đêm qua sao? Nhưng... nhưng ông luôn ở trong Phật đường đóng kín này thì sao lại biết về việc trên vách núi đó được?

Đường Phong định thần lại, thử hỏi thăm dò: “Việc đêm qua? Đêm qua xảy ra chuyện gì vậy? Tôi ngủ một mạch rất ngon mà.”

“Chàng thanh niên, lẽ nào còn cần tôi phải nhắc nhở cậu sao? Cậu phải biết rằng, ở đây, nhất cử nhất động của các cậu đều không lọt qua được mắt tôi đâu, đêm qua, trên vách núi...”

“Đúng! Tôi thừa nhận, đêm qua trên vách núi chúng tôi có xảy ra một chút hiểu lầm nho nhỏ, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đã giải quyết xong rồi.” Đường Phong thấy Đại Lạt ma đã biết chuyện đêm qua, nên không đợi Đại Lạt ma nói xong liền cướp lời.

“Ba người các cậu không phải cùng một đường.” Giọng Đại Lạt ma sang sảng.

“Không sai, chúng tôi vốn không phải cùng một đường, nhưng hiện giờ chúng tôi đều đang bị người ta truy sát, thế nên...”

“Nói chính xác hơn, các người cùng vì một mục đích nên mới đi cùng nhau.” Giờ thì đến lượt Đại Lạt ma ngắt lời Đường Phong.

Ba người lại giật thót tim, Đường Phong nghĩ trong bụng: xem ra Đại Lạt ma đã nhìn thấu mọi chuyện, không cần thiết phải tiếp tục che giấu nữa, ngược lại còn khiến Đại Lạt ma nghi ngờ trong lòng, sẽ bất lợi cho mình. Nghĩ tới đây, anh nhìn nhìn Hàn Giang, Hàn Giang gật gật đầu với anh, vậy là, Đường Phong nói với Đại Lạt ma: “Không sai, chúng tôi cùng một mục đích, đến đây là vì một báu vật của vương triều Tây Hạ!”

Khi Đại Lạt ma nghe thấy hai từ “Tây Hạ”, lông mày ông khẽ động đậy. Đây là một cử động rất nhẹ nhưng đã bị Đường Phong nhìn thấy, tức khắc, anh gần như có thể đoán định, Đại Lạt ma chắc chắn biết chút gì đó? Và những gì Đại Lạt ma biết nhất định là thứ mà họ hứng thú.

Đường Phong tiếp tục nói: “Đó là một báu vật đến từ vương triều Tây Hạ một nghìn năm trước, kệ tranh ngọc nổi gân cổ chạm châu báu…”

Đường Phong nói tới đây, Đại Lạt ma lại lần nữa mở to đôi mắt như hai ngọn đuốc, nhìn thẳng vào con ngươi của Đường Phong, khiến Đường Phong sợ tới nỗi nuốt lời lại.

“Kệ tranh ngọc Tây Hạ? Nói như vậy thì các người bị truy sát cũng không có gì lạ. Nếu như ta nói không sai, thì trong ba lô của các người có một tấm kệ tranh ngọc phải không.” Đại Lạt ma vẫn nhìn Đường Phong chằm chằm như thế.

Đường Phong bất giác gật đầu, nói: “Đúng vậy, trong tay chúng tôi có một tấm.”

“Các người còn muốn đoạt được mấy tấm còn lại?” Đại Lạt ma nói một câu trúng phóc, khiến ba người kinh ngạc tới nỗi không thốt nên lời.

Đại Lạt ma lại nói tiếp: “Để ta nói, tấm kệ tranh ngọc mà các người có trong tay chính là tấm mà Kozlov đào được tại cổ thành Hắc Thủy. Trong bốn tấm kệ tranh ngọc thì chỉ có kệ tranh đó là có khả năng bị các người đoạt được.”

“Sao ông lại biết?” Đường Phong ngạc nhiên hỏi.

“Bởi vì chỉ có kệ tranh đó mới từng xuất hiện trên thế giới.”

“Nói như vậy thì ba tấm kệ tranh còn lại chưa từng rời khỏi vị trí mà chúng vốn được cất giấu ở đấy?” Đường Phong tò mò hỏi.

“Không! Theo như ta biết, còn có một tấm đã rời khỏi vị trí vốn cất giấu nó.”

“Ồ! Là tấm nào vậy?” Hàn Giang truy hỏi.

“Cụ thể là tấm nào ta không biết!” Đại Lạt ma nói tới đây, dừng lại một lúc, nhìn mọi người trong phòng một lượt, sau đó mới hạ giọng xuống nói: “Các người đã từng nghe tới Hắc Lạt ma chưa?”

“Hắc Lạt ma? Hắc Lạt ma nào? Lạt ma của các ông còn phân thành Hắc Lạt ma và Bạch Lạt ma ư?” Hàn Giang lắc đầu mụ mị nhìn Đại Lạt ma.

“Ý ông nói về Hắc Lạt ma, thủ lĩnh thổ phỉ từng uy danh thiên hạ vùng đại sa mạc Tây Bắc những năm 20, 30 thế kỷ trước?” Với học thức uyên bác của mình, Đường Phong đột nhiên nhớ lại Hắc Lạt ma được nhắc đến trong truyền thuyết cuộc thám hiểm miền tây của Marc Aurel Stein, Sven Anders Hedin... mà mình đã từng đọc.

“Không sai, người mà tôi nói chính là Hắc Lạt ma này. Nghe nói, vào những năm 20, 30 của thế kỷ trước. Tiếp theo nhà thám hiểm người Nga Kozlov sau khi phát hiện ra một kệ tranh ngọc tại thành cổ Hắc Thủy, lại có người phát hiện ra một tấm kệ tranh ngọc khác. Tấm kệ tranh ngọc đó được phát hiện ở đâu, phát hiện như thế nào, tình hình cụ thể hiện giờ vẫn chưa được khám phá, nhưng có truyền thuyết nói rằng, sau này kệ tranh ngọc đó đã rơi vào tay Hắc Lạt ma.”

“Rơi vào tay Hắc Lạt ma? Với thực lực của Hắc Lạt ma lúc đó, hoàn toàn có khả năng này? Nhưng, tôi còn nhớ, do luôn đối kháng với chính quyền ngoại Mông nên sau này Hắc Lạt ma đã bị chính quyền ngoại Mông và nhân viên đặc công, được Liên Xô phái tới, đánh chết rồi. Nếu như trong tay Hắc Lạt ma có tấm kệ tranh ngọc, vậy sau khi Hắc Lạt ma chết thì kệ tranh ngọc trong tay ông đi đâu mất?”

“Kệ tranh ngọc đó đi đâu mất không ai biết. Người thì nói nó bị thuộc hạ của Hắc Lạt ma lấy đi, cũng có người nói nó bị đặc công Liên Xô đoạt lấy, còn có người nói, kệ tranh ngọc đó đã bị Hắc Lạt ma cất giấu ở một nơi mà không ai biết, vì nơi cất giấu báu vật đó chỉ có một mình ông ta biết mà thôi. Sau khi ông ta chết đột ngột thì cũng không còn ai có thể biết được tung tích của kệ tranh ngọc đó nữa.”

“Nhưng có người cho rằng Hắc Lạt ma đó chưa chết, người mà bị chính quyền ngoại Mông đánh chết vốn không phải là Hắc Lạt ma thật, mà chỉ là thế thân của ông ta.” Đường Phong tiếp tục hỏi.

“Đúng vậy, hành động đột kích Hắc Lạt ma lần đó của chính quyền ngoại Mông tuy rất thành công, nhưng nhiều người vẫn tin rằng Hắc Lạt ma chưa chết, mà người bị đánh chết chỉ là một người thế thân. Nếu đúng như thế, vậy thì, rất có khả năng Hắc Lạt ma đã đem theo kệ tranh ngọc cao chạy xa bay, vĩnh viễn biến mất rồi. Tóm lại, kể từ đó trở đi, mọi tin tức và truyền thuyết của kệ tranh ngọc này đều chấm dứt tại đó.”

“Thật không ngờ lại phức tạp như vậy. Nhưng, điều mà tôi càng hứng thú hơn là, ông, một người xuất gia sao lại hiếu biết nhiều như vậy?” Hàn Giang đổi chủ đề câu chuyện, đột nhiên hỏi.

Đại Lạt ma bị Hàn Giang đột ngột hỏi vậy, sau chút sững sờ liền cười lớn, đáp: “Được rồi, đã nói đến đây rồi, vậy thì chúng ta hôm nay cũng không cần phải che giấu và sẽ nói hết ngọn nguồn đầu đuôi câu chuyện.”

3

Đại Lạt ma buông tràng hạt xương người trên tay xuống, thở dài, quay lại hỏi mọi người: “Trước khi tôi kể lại ngọn nguồn đầu đuôi toàn bộ câu truyện, tôi muốn hỏi các anh trước đã, các anh có biết những người chúng tôi là người gì không?”

“Người gì?” Đường Phong giật mình nhìn Đại Lạt ma, không hiểu ý của ông.

“Các ông là người dân tộc Tạng?” Đường Phong suy đoán. Đại Lạt ma lắc lắc đầu.

“Người dân tộc Khương?” Makarov cũng suy đoán. Đại Lạt ma vẫn lắc lắc đầu.

“Dân tộc Mông Cổ...” Hàn Giang càng đoán càng thiếu tự tin.

Đại Lạt ma bật cười. Ông cười vang, sau đó chậm rãi nói: “Thật ra, tiểu huynh đệ của các anh đã đoán gần đúng rồi.” Nói xong, Đại Lạt ma khẽ chỉ Đường Phong.

Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi không khép được miệng, ấp úng thốt ra: “Các ông là người Đảng Hạng?”

“Đúng, người Đảng Hạng cuối cùng!” Đại Lạt ma trả lời rất nghiêm túc.

“Không! Thế này thì quá ly kỳ, dân tộc Đảng Hạng đã biến mất từ lâu rồi mà, tuy tôi có nhận ra tập tục của các ông, nhưng bất luận thế nào đi chăng nữa cũng không dám tin, các ông hóa ra... hóa ra là người Đảng Hạng?” Đường Phong không thể tin đây là sự thật.

“Chúng tôi chính là người Đảng Hạng di dân tới đây sau khi Tây Hạ bị diệt vong tám trăm năm trước, người Đảng Hạng cuối cùng. Là hậu duệ của người Đảng Hạng, tôi nghĩ tôi có quyền mời các anh đưa kệ tranh ngọc ra đây để tôi được tận mắt nhìn thấy diện mạo của nó.” Lời nói của Đại Lạt ma vô cùng khảng khái.

Đôi tay của Đường Phong giống như không còn thuộc về bản thân anh vậy. Mất tự chủ, anh lôi kệ tranh ngọc từ trong ba lô ra, cung kính đặt lên tấm phản trước mặt Đại Lạt ma. Hàn Giang nhìn ra, đôi tay Đại Lạt ma khi bưng kệ tranh ngọc lên khẽ run rẩy, ông cẩn thận tỉ mẩn nhìn ngắm hồi lâu, rồi lại rón rén đặt kệ tranh ngọc xuống phản. Thông qua hàng loạt động tác của Đại Lạt ma, Hàn Giang chẳng mấy chốc đi phán đoán ra, chắc là Đại Lạt ma cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc, ít nhất cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc này.

Đại Lạt ma đặt kệ tranh ngọc xuống, thở dài một cái tiếp tục nói: “Tôi đã sớm đoán được, cái ngày này nhất định sẽ đến trong cuộc đời, sau đây tôi sẽ nói về lịch sử của kệ tranh ngọc này. Tất cả những điều này đều phải bắt đầu kể từ lịch sử của dân tộc Đảng Hạng chúng tôi. Người Đảng Hạng chúng tôi đúng như những gì các anh đã biết, khởi nguồn từ khúc đầu sông Hoàng Hà, trong rừng rậm thảo nguyên ven sông Bạch Hà. Sau đó, người Đảng Hạng đã không chống lại được sự tấn công của người Thổ Phiên nên đã chọn lựa con đường di dân khó nhọc. Tổ tiên của chúng tôi đã vượt qua tuyết sơn A Ni Mã Khanh thánh khiết, hướng về phía bắc, đi mãi cho tới tận bình nguyên Ninh Hạ mới dừng chân, rồi dần dần định cư tại đây. Sau đó, dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh vĩ đại của dân tộc chúng tôi, thủ lĩnh Hạo Vương Suất, cũng chính là Nguyên Hạo mà các anh vốn đã biết tới, trải qua mấy đời đổ máu và hy sinh, cuối cùng đã xây dựng nên Bạch Cao Đại Hạ Quốc, uy chấn sa mạc phương bắc, cũng chính là Tây Hạ mà các anh thường nói.”

“Chúng tôi đều đã biết về những lịch sử này, ông hãy kể thẳng về kệ tranh ngọc này đi.” Hàn Giang có vẻ sốt ruột.

Đại Lạt ma căn bản không bận tâm tới lời Hàn Giang, vẫn kể lần lượt theo trình tự: “Tổ tiên của chúng tôi sinh sống giữa rất nhiều những bộ lạc dân tộc khác, tin thờ sói là phép tắc của những dân tộc sinh sống trên thảo nguyên và sa mạc; kẻ mạnh nuốt kẻ yếu, nếu anh không lớn mạnh thì sẽ bị người khác nuốt chửng. Vậy là, trong cuộc tranh đấu với các bộ lạc và các dân tộc khác, người Đảng Hạng đã hình thành nên tục tính anh dũng thiện chiến. Người Đảng Hạng nếu kết thù với ai, thì bắt buộc phải giết kẻ địch trả thù, nếu không thì sẽ không còn mặt mũi nào sống trên thế gian này nữa. Nhưng cũng chính vì người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến nên đã khiến cho người Đảng Hạng luôn ở trong tình trạng rời rạc, không thống nhất, bị người ta lợi dụng, tự thảm sát lẫn nhau. Là Hạo Vương! Là Hạo Vương Suất đã lãnh đạo dũng sĩ Đảng Hạng chinh chiến tứ phương, không có đối thủ; dùng máu tươi để gắn kết người Đảng Hạng anh dũng thiện chiến lại với nhau, khiến người Đảng Hạng trở thành một dân tộc, một quả đấm đầy sức mạnh.

Người Đảng Hạng tác chiến, thường là toàn dân hòa cùng binh lính, chính một đội quân như vậy đã khiến cho Hạo Vương đánh bại quân Tống tại trận Hảo Thủy Xuyên và Tam Xuyên Khấu, rồi lại đánh lui quân Khiết Đan tại Địa Cân Trạch[8]. Uy danh đại chấn, khiến cho Tống - Liêu không dám coi thường Tây Hạ, nhưng đồng thời, do nhiều năm chinh chiến nên sức lực của đất nước Tây Hạ cũng hao tổn rất lớn. Vì vậy mà trong những năm cuối đời, Hạo Vương đã cải biến quốc sách, chấm dứt chiến tranh, nghỉ ngơi an dưỡng, tôn sùng Phật giáo. Bên cạnh đó, Hạo Vương đã lợi dụng việc nắm giữ sự lưu thông của con đường tơ lụa nên đã áp dụng sưu cao thuế nặng với những thương gia qua lại trên con đường đó. Hàng loạt những chính sách này, đã khiến cho Tây Hạ trong những năm cuối thời Vương Hạo cai trị trở nên giàu có sung túc, ngọc ngà châu báu khắp nơi đều hội tụ về đây. Người Đảng Hạng sau khi giàu có sung túc, đặc biệt là những công thần lập công lớn trong chiến trận, đã dần dần bắt đầu ham thú hưởng lạc, sự anh dũng thiện chiến ngày nào đã bị thay thế bằng thói ngạo mạn, xa xỉ, dâm loạn, trác táng.”

“Đúng vậy! Tất cả những dân tộc dũng mãnh quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc, sau khi gây dựng giang sơn tại trung nguyên phía nam, đều đã mất đi sói tính anh dũng thiện chiến trong con người họ. Đây cũng chính là nguyên nhân tại sao các đế quốc đã từng huy hoàng lại đến và đi vội vàng như vậy.” Đường Phong không khỏi xót xa.

4

Đại Lạt ma mỉm cười gật đầu, dùng ánh mắt tán thưởng nhìn Đường Phong: “Không sai, đến cả con người của quân đội như Hạo Vương trong những năm cuối đời cũng bắt đầu trở nên ngạo mạn xa xỉ, và chính sự ngạo mạn xa xỉ của ông cũng là gốc rễ để ông bị chôn vùi trong trận bộc phát chính biến triều đình, sự cố đã cướp đi sinh mạng của ông những năm cuối đời. Nhưng Hạo Vương rút cuộc vẫn là Hạo Vương, theo như truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại, thì trong vài năm cuối cùng của đời mình, Hạo Vương hình như có dự cảm không lành, nhưng ông đã không còn sức để cải biến triệt để những quý tộc Đảng Hạng ngạo mạn xa xỉ đó. Vì sự lâu dài và yên ổn của vương triều, ông đã âm thầm sai đại cận thần Một Tạng Ngoa Bàng báo cáo rằng biên giới tây bắc có chiến sự, sau đó, Hạo Vương liền phái một viên đại tướng dân theo hàng vạn hùng binh được tuyển chọn kĩ lưỡng, khởi hành về phía tây bắc. Nhưng đội quân người ngựa này, ngoài những võ sỹ dũng mãnh thiện chiến ra, còn có cả một đoàn thợ từ tứ phương tập hợp lại cùng với rất nhiều gia quyến của tướng sỹ.”

“Biên giới tây bắc có chiến tranh sao? Theo như tôi biết lúc Hạo Vương còn trị vì, phía tây bắc của Tây Hạ tương đối ổn định, chưa từng nghe thấy có chiến tranh gì mà! Lúc đó, kẻ địch chủ yếu của Tây Hạ là Khiết Đan ở phía đông bắc, triều Tống ở phía đông nam, Thổ Phiên ở phía tây nam và Hồi Cốt ở phía tây, có thể coi là tứ trận bủa vây, nhưng rõ ràng là phía tây bắc không có kẻ địch nào cả.” Đường Phong nghi ngờ nói.

“Chàng thanh niên, đừng quên rằng tại sao Tây Hạ lại vong quốc?” Đại Lạt ma hỏi lại Đường Phong.

Đường Phong nghe thấy vậy, suy nghĩ một lúc, bỗng ngạc nhiên tới nỗi mắt trố ra, mồm há hốc: “Ý ông là... ý ông là người Mông Cổ. Tây Hạ cuối cùng là bị người Mông Cổ đến từ tây bắc đánh bại! Nhưng... nhưng sao lại như vậy được, thời Hạo Vương đó, trên thảo nguyên Mông Cổ vẫn chưa thống nhất, liên kết về một mối, cơ bản không có lực lượng để tấn công Tây Hạ, sao Hạo Vương lại có thể dự đoán việc của hơn một trăm năm sau được... Lẽ nào Hạo Vương có thể tiên đoán được trước tương lai?

Đại Lạt ma lắc lắc đầu: “Tình hình cụ thể tôi cũng không biết hết, tóm lại, câu chuyện truyền thuyết mà đời đời tổ tiên của chúng tôi truyền lại là như vậy. Lúc đó rất nhiều người đều cảm thấy kỳ lạ, vậy là có đủ loại truyền thuyết. Nghe nói, lúc đội người ngựa ra đi đã bí mật mang theo rất nhiều hòm lớn. Nhiều người cho rằng bên trong những chiếc hòm lớn đó đều đựng của cải của Hạo Vương. Đội người ngựa và đó cũng không phải là đi đánh trận mà là thay Hạo Vương bí mật xây dựng một thành phố mới tại một ốc đảo tít sâu trong sa mạc, trong thành phố này cất giấu châu báu của Hạo Vương. Đội người và ngựa đó sau này cũng không quay lại, họ đi đâu? Không ai biết, nhưng truyền thuyết này thì được lưu truyền mãi về sau.”

“Vậy kệ tranh ngọc thì sao?” Hàn Giang sốt ruột hỏi.

“Kệ tranh ngọc nghe nói là có bốn tấm. Năm đó, khi Hạo Vương nảy ra ý nghĩ kỳ lạ đó, vừa vặn lãnh thổ phía tây tiến tặng ông một tảng đá ngọc Hòa Điển to lớn, nguyên vẹn. Vậy là Hạo Vương hạ lệnh, mời thợ ngọc đệ nhất thiên hạ tới chế tác bốn kệ tranh ngọc. Đằng sau kệ tranh ngọc khắc lên một bản đồ hướng tới ốc đảo sa mạc - thành trì bí mật Hạn Hải, và chỉ khi nào bốn kệ tranh ngọc ghép lại với nhau thì mới có thể nhìn thấy toàn bộ diện mạo của bản đồ. Sau đó, trên mặt chính của mỗi kệ tranh ngọc, Hạo Vương đều ra lệnh khắc lên bốn mươi bốn chữ, cũng chính là phần chữ trên mặt chính của kệ tranh ngọc mà các anh có trong tay. Bốn mươi bốn chữ này tiết lộ ra một tin tức quan trọng, đó là: Hạo Vương đề phòng con cháu gặp nạn nên đã chuẩn bị trước một lượng của cái đáng để kinh ngạc, cất giấu ở mật thành trong sa mạc. Ngoài ra, còn có một đội quân dũng mãnh thiện chiến canh giữ ở đó.”

“Hạo Vương đã chôn giấu kho báu trong một thành trì bí mật, cái này thì dễ hiểu, nhưng một đội quân canh giữ ở đó, câu này thì tôi không sao có thể hiểu được!” Đường Phong hỏi.

“Cái này thì chỉ có ông trời mới biết được.” Đại Lạt ma bó tay than thở, nhưng lập tức lại nói với Đường Phong: “Nhưng, có một điều tôi có thể khẳng định: văn tự Đảng Hạng khắc trên mặt chính kệ tranh ngọc của các anh chắc chắn không phải là do Hạo Vương khắc lên năm nào.”

“Cái gì? Ý ông là... kệ tranh ngọc này là đồ giả?” Đường Phong ngạc nhiên đến nỗi trợn tròn mắt.

5

Đại Lạt ma lắc lắc đầu, chậm rãi nói: “Ý ta không phải vậy. Kệ tranh ngọc này là thật hay là giả, ta cũng không thể đoán định, bởi vì ta cũng chưa từng nhìn thấy kệ tranh ngọc thật sự. Ta nói văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc này không phải là của Hạo Vương khắc ban đầu; là vì khi Hạo Vương hạ lệnh khắc lên bốn kệ tranh ngọc, ông ta vốn không hề đem chúng đi cất giấu tại bốn nơi khác nhau, mà luôn cất giữ chúng trong cung. Bởi vậy đương nhiên ông cũng không thể khắc tên nơi cất giấu của từng kệ tranh ngọc lên bề mặt của chúng. Còn một điều nữa, văn tự mà ban đầu Hạo Vương khắc cũng không phải là văn tự Đảng Hạng, mà là Hán tự.”

“Hán tự? Theo như ông thấy, phần chữ to hơn là văn tự Đảng Hạng trên kệ tranh ngọc rút cuộc nói lên điều gì? Có giống với phán đoán của chúng tôi, nói rõ nơi cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai?” Hàn Giang đứng bên cạnh nói xen vào.

Đại Lạt ma bưng kệ tranh ngọc lên, ngắm nghía hồi lâu, gật đầu nói: “Quan điểm của ta cũng giống như các cậu. Nếu như ta đoán không sai, trên mỗi kệ tranh ngọc đều lần lượt khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc tiếp theo. Kệ tranh ngọc trong tay các cậu chắc là kệ đầu tiên trong số bốn kệ tranh ngọc, phần văn tự trên mặt chính của nó tiết lộ vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ hai. Từ đó suy đoán, kệ tranh ngọc thứ hai chắc chắn có khắc tên vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc thứ ba, chắc là như vậy.”

“Vậy theo như ý ông nói thì văn tự trên kệ tranh ngọc này được khắc vào thời nào và do ai khắc?” Đường Phong tiếp tục hỏi.

“Muốn làm sáng tỏ vấn đề này thì phải căn cứ theo lịch sử Tây Hạ mà tôi đã kể phía trước để nói tiếp. Vào năm cuối cùng của cuộc đời Hạo Vương, ông đã phạm phải một sai lầm lớn, ông đã cưỡng hôn chính con dâu của mình, cũng chính là vợ của thái tử vương triều Tây Hạ. Vốn dĩ, đối với người Đảng Hạng mà nói thì chuyện này cũng không có gì là to tát, người Đảng Hạng tính cách hào phóng, sùng bái tự do; nam nữ vui hoan yêu đương hoàn toàn tự do, không hề bị ràng buộc bởi bất cứ luân lý đạo đức nào. Trong huyết quản của Hạo Vương đang chảy dòng máu của người Đảng Hạng. Ông yêu cô gái đó, ông cho rằng không có thứ gì có thể cản trở tình cảm của mình, nhưng, thái tử Ninh Lệnh Ca ngay từ tấm bé đã được Nho giáo hun đúc mà trưởng thành. Ông ta không thể chấp nhận sự thật này. Ninh Lệnh Ca cho rằng đây là một sự đại sỉ nhục đối với bản thân, cũng là một sự đại sỉ nhục đối với toàn bộ vương triều, thù hận đã làm trí óc ông ta trở nên mụ mị. Và đúng lúc đó, một nhân vật luôn ẩn nấp phía sau, chờ đợi cơ hội đã xuất hiện, người này chính là tướng quốc thời đó - Một Tạng Ngoa Bàng. Ông ta là đại thần mà Hạo Vương tín nhiệm nhất trong những năm cuối đời. Ông ta đã chờ đợi thời cơ từ rất lâu rồi, thời cơ đó có thể khiến cho thế lực của gia tộc Một Tạng trở nên lớn mạnh. Giờ đây, ông ta cho rằng thời cơ tốt nhất đã đến, vậy là, Một Tạng Ngoa Bàng ra sức kích động thái tử Ninh Lệnh Ca, khiến cho Ninh Lệnh Ca vốn đã bị thù hận làm cho trí óc mụ mị càng không do dự gì hết. Một buổi tối, ông ta lẩn vào trong cung, ám sát Hạo Vương, còn bản thân ông ta sau đó đã bị Một Tạng Ngoa Bàng xử tử vì gán cho tội danh giết vua.” Đại Lạt ma kể liền một mạch về giai đoạn lịch sử rối ren hung hiểm này.

Đường Phong suýt xoa: “Hạo Vương đúng thật là gậy ông đập lưng ông. Bản thân ông không tôn sùng Nho giáo mà lại ngưỡng mộ văn minh trung nguyên, ra sức truyền bá Nho giáo trong nước, kết quả, rút cuộc lại bị chính con trai được Nho giáo hun đúc thành tài, trưởng thành từ chính trong môi trường đó giết chết. Xem ra, tất cả những dân tộc quật khởi từ thảo nguyên, sa mạc đều không thoát khỏi điều này. Họ ngưỡng mộ văn minh trung nguyên, học tập văn minh trung nguyên, nhưng văn minh trung nguyên lại làm phát sinh xung đột với phương thức sinh tồn cố hữu của họ, một khi họ hữu ý hay vô ý bị Hán hóa, thì sói tính vốn có trong con người họ cũng mất đi rất nhiều rồi.”

“Được rồi! Được rồi! Bài diễn thuyết dài thườn thượt của cậu để lại sau này hãy nói, bây giờ điều mà tôi quan tâm chính là lịch sử của kệ tranh ngọc.” Hàn Giang ngắt lời Đường Phong, rồi quay lại nhìn Đại Lạt ma hỏi: “Nguyên Hạo chết rồi, thái tử cũng chết rồi, sau đó thì ai là người kế tục ngôi vua?”

6

Đại Lạt ma tiếp tục kể: “Lượng Tộ! Ngôi Danh Lượng Tộ! Hoàng đế đời thứ hai của vương triều Tây Hạ, ngày chôn cất Hạo Vương, ông vẫn chỉ là một đứa trẻ bọc trong tã lót, ông có thể lên được ngôi vị hoàng đế hoàn toàn là do một người đàn bà, mẹ của ông, Một Tạng Thị. Nói về Một Tạng Thị, đây là một người đàn bà không đơn giản, bà ta là em gái của Một Tạng Ngoa Bàng, vốn là vợ của đại tướng Dã Lợi Ngộ Khất, thuộc hạ của Hạo Vương. Dã Lợi Ngộ Khất dũng mãnh thiện chiến, trong cuộc chiến tranh với nhà Tống, ông đã lập được vô số kỳ công, cộng thêm thế lực lớn mạnh của gia tộc Dã Lợi lúc đó. Thời gian qua đi, Dã Lợi Ngộ Khất lập công nhiều tới mức khiến chủ nhân cũng phải lo lắng và đã bị Hạo Vương nghi ngờ, đố kị, còn nhà Tống thì từ lâu đã muốn diệt trừ người này, nên phó soái nhà Tống là Phạm Trọng đã bày ra kế gian, phái người lấy trộm thanh đao quý của Dã Lợi Ngộ Khất: rồi tuyên bố Dã Lợi Ngộ Khất chuẩn bị đầu hàng nhà Tống, lấy đao đó làm chứng. Tin tức truyền đến Tây Hạ, Hạo Vương vốn đã không bằng lòng với Dã Lợi Ngộ Khất nay càng thêm phẫn nộ, mượn chuyện này giết chết Dã Lợi Ngộ Khất. Cũng trong lúc này, Hạo Vương phát hiện ra người vợ trẻ trung xinh đẹp của Dã Lợi Ngộ Khất - Một Tạng Thị. Để bịt tai che mắt mọi người, trước tiên, Hạo Vương đưa Một Tạng Thị vào chùa Giới Đàn xuống tóc làm ni cô. Sau đó, Hạo Vương thường xuyên lui tới chùa Giới Đàn để gặp gỡ riêng Một Tạng Thị. Chính trong chùa Giới Đàn, Một Tạng Thị đã sinh hạ Lượng Tộ. Lượng Tộ ra đời chưa được bao lâu thì xảy ra chuyện Một Tạng Ngoa Bàng xúi giục thái tử Ninh Lệnh Ca ám sát Hạo Vương, sau đó, Một Tạng Ngoa Bàng liền lập Lượng Tộ chưa đầy tuần tuổi làm vua, còn Một Tạng Thị - con gái của ông ta cũng trở thành hoàng thái hậu.”

“Hóa ra chuyện là như vậy, thảo nào Một Tạng Ngoa Bàng muốn xúi giục thái tử giết chết Hạo Vương, tất cả đều do sự cám dỗ quyền lực đáng sợ!” Makarov cũng hiểu ra một chút đầu đuôi câu chuyện.

“Đúng vậy, tất cả đều vì quyền lực! Sau đó, gia tộc Một Tạng liền độc quyền nắm giữ kỷ cương triều đình hơn mười năm, chính sách và pháp lệnh Tây Hạ đều do gia tộc Một Tạng ban hành, nhưng Lượng Tộ ngày một lớn lên, ông càng ngày càng bất mãn với quyền lợi vốn thuộc về mình nhưng lại rơi vào tay gia tộc Một Tạng. Vậy là, ông liên kết một số đại thần khác lại, diệt trừ Một Tạng Ngoa Bàng. Vốn tưởng Lượng Tộ làm nên lịch sử, nhưng không ngờ ông lại đoản mệnh, 20 tuổi đã qua đời, vậy là kế tục ngôi vua lại là một đứa trẻ - Ngôi Danh Bỉnh Thường, gia tộc Lương của thái hậu mẹ Bỉnh Thường nắm giữ triều chính. Kể từ sau khi Hạo Vương chết đi, Tây Hạ gần như rơi vào vòng can dự chính trị luẩn quẩn quái dị của họ ngoại, từ Một Tạng Thị tới Lương Thị, rồi tới Nhiệm Thị sau này, toàn là như vậy.”

“Sao đó thế nào?” Makarov hình như càng lúc càng hứng thú với lịch sử Tây Hạ.

“Cứ như vậy, mãi cho tới tận những năm cuối của Tây Hạ, người Mông Cổ trên thảo nguyên phương Bắc lớn mạnh, nhiều lần đến xâm lược Tây Hạ, kể từ lần đầu tiên tới lúc Tây Hạ vong quốc, tổng cộng là sáu lần, kéo dài hơn hai mươi năm. Trong những lần đó, đội quân Mông Cổ xâm nhập Tây Hạ lần đầu tiên là để truy kích bại quân của Tưởng Tang Côn, nhưng sự quấy nhiễu của Mông Cổ đối với Tây Hạ lần đó không nghiêm trọng, mà chỉ là gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh kẻ thống trị Tây Hạ. Lúc đó hoàng đế tại vị của Tây Hạ là Hoàn Tông, Ngôi Danh Thuần Hựu. Thuần Hựu đã ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, nên đã hạ lệnh trùng tu thành quách nhưng vẫn bị kỵ binh Mông Cổ san bằng rồi, đại xá cả nước, đồng thời đổi tên đô thành Hưng Khánh Phủ thành Trung Hưng Phủ. Từ những sự kiện này có thể nhận thấy, Thuần Hựu vốn muốn chấn hưng lại kỷ cương triều đình, trở thành vua đầu tiên của Trung Hưng, nhưng người Đảng Hạng thời đó cũng không còn là người Đảng Hạng theo Hạo Vương đi khai hoang mở mang bờ cõi năm nào. Vì vậy, sự việc đã diễn ra trái với mong muốn của Thuần Hựu, bởi năm sau đó, em trai họ của Thuần Hựu là Ngôi Danh An Toàn đã hợp mưu với La thái hậu, phế truất Thuần Hựu, tự mình xưng đế. Chính lần chính biến cung đình lần này đã thay đổi hoàn toàn lịch sử Tây Hạ. Vì kể từ đó, Tây Hạ không thể đứng dậy được nữa, bởi trong cuộc chiến với người Mông Cổ, họ đánh trận nào bại trận nấy, cuối cùng mất nước.”

“Nhưng, những lịch sử Tây Hạ mà ông kể này thì có liên quan gì tới kệ tranh ngọc?” Hàn Giang nóng ruột muốn biết rút cuộc là người nào đã khắc những văn tự mà hiện giờ họ đang nhìn thấy trên kệ tranh ngọc.

7

Đại Lạt ma mỉm cười nói: “Đừng sốt ruột, tôi sắp kể tới nơi rồi. Chẳng bao lâu sau khi An Toàn phế truất Thuần Hựu, tự xưng đế thì chiến hỏa lại bốc lên ngùn ngụt từ thảo nguyên phương Bắc, đoàn kỵ binh Mông Cổ cuốn bụi quay lại, Thành Cát Tư Hãn lại lần nữa xuất quân đánh Tây Hạ, Ngôi Danh An Toàn đã liên kết với nước Kim để chống lại nước Mông, may mắn vượt qua được ải này. Nhưng năm sau, đại quân của Thành Cát Tư Hán lại xuất binh, và lần này thì Tây Hạ không còn may mắn như trước nữa. Dù người Đảng Hạng có liều chết chống lại, nhưng cũng không địch được kỵ binh của đại quân Mông Cổ. Kỵ binh Mông Cổ xông thẳng tới dưới đô thành Hưng Khánh Phủ, may mà năm đó Hạo Vương xây dựng Hưng Khánh Phủ vô cùng kiên cố. Thành Cát Tư Hãn tấn công mãi mà không được nên từ chỗ phiền muộn trở nên phẫn nộ, dẫn nước sông Hoàng Hà đổ vào Hưng Khánh Phủ. Nhưng ông trời che chở, nước sông Hoàng Hà không nhấn chìm nổi Hưng Khánh Phủ, ngược lại còn xém chút nữa nhấn chìm người Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn không còn cách nào khác, đành phải hạ lệnh rút quân. Trên đường rút quân, Thành Cát Tư Hãn lệnh cho tướng quân Ngoa Đáp đang bị bắt giữ quay về kêu gọi Ngôi Danh An Toàn chiêu hàng. Sau khi Ngoa Đáp trở về chiêu hàng, hôn quân Ngôi Danh An Toàn vốn đã bị đại quân của Mông Cổ dọa cho tới nỗi hồn xiêu phách lạc, nên đã lập tức đồng ý dâng tặng Thành Cát Tư Hãn con gái ruột của mình, tự xưng thần và định kỳ cống nạp cho Mông Cổ, đồng thời đoạn tuyệt với nước Kim, rồi quay lại thay Mông Cổ tấn công nước Kim. Một hôn quân vô dụng như vậy, trong lúc dân tộc gặp nạn, lại đột nhiên nhớ ra bốn kệ tranh ngọc mà Hạo Vương để lại, vậy là ông ta đã gửi gắm hết hy vọng của dân tộc lên bốn kệ tranh ngọc đó. Ngôi Danh An Toàn đã chuẩn bị kĩ lưỡng một đội ngũ hàng trăm người, chuẩn bị đi tìm kiếm mật thành trong sa mạc, đây là một lần xuất chinh bi tráng, những người được chọn đều là những dũng sĩ Đảng Hạng ưu tú nhất. Ngôi Danh An Toàn luôn lo lắng suy nghĩ xem ai sẽ là người lãnh đạo đội ngũ này, người bình thường thì ông ta không yên tâm, vì bốn kệ tranh ngọc này thậm chí còn khiến ông quan tâm lo lắng hơn cả ấn ngọc. Lúc ấy, những tôn thất quý tộc, cựu thân lập công lớn mà ông vốn tín nhiệm thì ai ai cũng đều tham sống sợ chết, không chịu đi. Đúng lúc này, trong tôn thất quý tộc có một người đứng lên, tự nguyện lãnh đạo đội quân này ra đi. Người này là Ngôi Danh Tuân Húc, là hậu duệ của Trung Vũ Vương trong tôn thất. Tuân Húc đã từng thi đỗ trạng nguyên, trong tôn thất cũng được coi là người có tài, rất được kỳ vọng. Con đường tiến lên ngôi vị hoàng đế của Ngôi Danh An Toàn vốn không chính nghĩa nên ông ta tất nhiên nghi ngờ Tuân Húc, người có tài trong tôn thất. Nhưng lúc này quả thật không có ai để phái đi, nên ông ta cũng đành phải lệnh cho Tuân Húc soái lĩnh đội quân này ra đi.”

“Sau đó họ có tìm thấy Hạn Hải Mật Thành không?” Đường Phong nói chen vào.

Đại Lạt ma lắc đầu nói: “Không ai biết họ có tìm thấy Hạn Hải Mật Thành hay không, nhưng đội quân này trước tiên tới thị trấn trọng điểm Hắc Thủy Thành tại phía bắc. Kể từ thời của Hạo Vương, đây vốn đã là vùng quân sự của Hắc Thủy trấn Yến, là thị trấn quản sự trọng điểm duy nhất của vương triều tại phía tây bắc. Khi đội quân của Tuân Húc đến đây, Hắc Thủy Thành vừa mới bị kỵ binh Mông Cổ cướp bóc sạch trơn, tan hoang thảm hại vô cùng. Họ nghỉ ngơi ở đây một lúc rồi rời khỏi Hắc Thủy Thành, tiếp tục tiến vào sâu trong sa mạc. Kể từ đó trở đi, không còn ai biết về tung tích của đội quân này nữa...”

“Không đúng! Tôi nhớ Ngôi Danh Tuân Húc sau này còn thay thế Ngôi Danh An Toàn trở thành hoàng đế của Tây Hạ mà!” Đường Phong hỏi lại Đại Lạt ma.

“Không sai, đội quân này có một người may mắn sống sót, đó chính là Ngôi Danh Tuân Húc, nhưng ông ta có thực sự tìm được Hạn Hải Mật Thành hay không thì không ai có thể khẳng định. Khi ông quay lại Hưng Khánh Phủ thì trên người có vô số mũi tên, sau lưng thì đang bị một đội kỵ binh Mông Cổ truy sát. Khi lao vào trong thành, Tuân Húc đã thở thoi thóp... cho tới khi tỉnh lại, ông đã tuyên bố với quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ là mình đã phát hiện ra Hạn Hải Mật Thành. Ở đó có vô số châu báu quý hiếm mà Hạo Vương để lại, đủ để giải quyết nguy cơ tài chính mà Tây Hạ đang đối mặt. Ở đó còn có một bộ lạc Đảng Hạng dũng mãnh thiện chiến, đủ để kháng cự sự xâm chiếm của đội quân kỵ binh Mông Cổ. Chỉ có điều, do đường đi xa xôi hiểm trở, trên đường đi không biết bao nhiêu lần bị người Mông Cổ truy sát, bởi vậy ông không thể đem những báu vật quý hiếm trở về. Cũng đã có một võ sỹ của bộ lạc bản địa trở về cùng ông, nhưng trên đường trở về đã bị kị binh Mông Cổ truy sát, nên võ sỹ đó và một số người khác đều đã tử trận, chỉ có mình ông thoát về được.”

8

“Những lời nói đó của ông ta cũng khiến cho người Đảng Hạng tin sao? Biết đâu là do ông ta bịa đặt ra!” Hàn Giang chất vấn.

“Ngôi Danh Tuân Húc đã lấy ra một tràng hạt xương người, ông nói rằng dũng sỹ đó trước khi chết đã giao cho ông tràng hạt này, để lấy đó làm bằng chứng. Quan dân bách tính của Hưng Khánh Phủ thấy rằng Tây Hạ lúc đó không có loại tràng hạt xương người này, vậy là ai cũng tin chắc và không chút nghi ngờ về những gì mà ông kể lại.”

“Tràng hạt xương người, chính là chuỗi hạt đang trên tay ngài sao?” Đường Phong đột nhiên hỏi.

Đại Lạt ma nghe thấy Đường Phong hỏi vậy, hay tay chắp vào nhau, nhìn chuỗi tràng hạt xương người trên tay, nói: “Không sai, tràng hạt xương người mà năm đó Ngôi Danh Tuân Húc mang về chính là tràng hạt trên tay tôi. Ông không chỉ mang về tràng hạt xương người này, mà còn cõng về bốn kệ tranh ngọc, cộng thêm những trải nghiệm thập tử nhất sinh của ông và tin tức làm hưng phấn lòng người mà ông mang về, đã khiến cho địa vị của Ngôi Danh Tuân Húc trong lòng quốc dân tăng lên rất nhanh. Ngôi Danh Tuân Húc cũng nhân cơ hội đó đã hứa với quốc dân: nếu như mọi người ủng hộ ông làm hoàng đế Tây Hạ, thì ông sẽ dẫn dắt quốc dân đi lấy kho báu ở Hạn Hải Mật Thành về, đánh bại quân xâm lược Mông Cổ. Người Đảng Hạng vốn dĩ đã bất mãn với Ngôi Danh An Toàn vô dụng, nên trước lời hứa ngon ngọt của Tuân Húc thì người Đảng Hạng không có lý do gì để không chọn ông. Vậy là, Tuân Húc đã truất ngôi Ngôi Danh An Toàn hết sức nhẹ nhàng, còn mình thì lên ngôi hoàng đế Tây Hạ.”

“Lại là một trận chính biến!” Makarov nhận xét.

“Vậy sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế, ông ta có thực hiện lời hứa ban đầu của mình không?” Hàn Giang hỏi.

“Sau khi Tuân Húc lên ngôi hoàng đế đã triệt để thay đổi phương châm liên minh với nước Kim để tấn công Mông Cổ của Ngôi Danh An Toàn, mà chủ động kết thân với Mông Cổ, nên ngược lại cũng đổi được vài năm sống yên ổn. Nhưng ông hiểu rằng sự hòa bình đó chỉ là ngắn ngủi, bởi vậy không lúc nào ông ngừng hành động tìm kiếm Hạn Hải Mật Thành. Nhưng mấy đoàn người và ngựa mà ông phái đi, đều không lập công quay về mà còn bặt vô âm tín, mất hút không hình không bóng. Chẳng bao lâu sau, người Mông Cổ cũng biết về bí mật của Hạn Hải Mật Thành, nên đã mấy lần phái sứ giả đến Hưng Khánh Phủ, một mặt yêu cầu Tây Hạ xuất binh đánh bại nước Kim, một mặt đòi lấy kệ tranh ngọc, khiến cho từ triều đình đến thường dân Tây Hạ đều lòng dạ bất an. Tuân Húc mấy lần cố kéo dài qua loa cho xong chuyện, nhưng, mâu thuẫn giữa Mông Cổ và Tây Hạ rút cuộc cũng bùng nổ. Thành Cát Tư Hãn trước khi chinh chiến phía tây đã sai sứ giả đến Tây Hạ đòi kệ tranh ngọc, đồng thời yêu cầu Tây Hạ phải phái binh trợ chiến. Tây Hạ đã không thể chấp nhận để Mông Cổ bắt nạt thêm, nên khi chưa kịp đợi Tuân Húc trả lời sứ giả của Mông Cổ, thì thuộc hạ của ông là đại thần A Sa Cảm đã trực tiếp từ chối thẳng thừng yêu cầu của người Mông Cổ. Sau khi sứ giả quay về phục lệnh, Thành Cát Tư Hãn nổi giận đùng đùng dẫn đại quân tiến đến. Tuân Húc không đủ sức để chống lại, đành phải cầu hòa. Thành Cát Tư Hãn lúc đó đang bận rộn chinh chiến phía tây nên đã đồng ý lời cầu hòa của Tây Hạ, dẫn quân rút về. Lần tiến quân này của người Mông Cổ đã tác động mạnh đến Tuân Húc, trong tình hình bế tắc, ông đành phải nhường ngôi cho con trai thứ là Ngôi Danh Đức Vượng. Đức Vượng trẻ trung tràn trề sức sống, lập tức liên minh với nước Kim, ý đồ đối kháng Mông Cổ. Sự việc này lại dẫn tới việc Mông Cổ lần thứ năm chinh phạt Tây Hạ. Lúc đó, Thành Cát Tư Hãn vẫn đang trên đường chinh chiến phía tây, bởi vậy, cuộc chinh phạt của người Mông Cổ lần này chẳng qua là để dạy dỗ Tây Hạ một chút mà thôi, còn sự trừng phạt thật sự thì vẫn ở phía sau, nhưng Tây Hạ vì thế cũng sống trong những ngày khó thở. Lúc này, toàn vương quốc trên dưới đều bao trùm trong không khí ngày tận thế, chẳng còn ai dám ôm ấp hy vọng về thành trì bí mật trong đại sa mạc mênh mông đó nữa, và trong không khí của ngày tận thế này, người Đảng Hạng đã chờ đợi ngày tận thế cuối cùng của mình.”

“Đó là lần chinh phạt Tây Hạ cuối cùng của Thành Cát Tư Hãn năm Công nguyên 1227?” Đường Phong hỏi.

“Ừm, đó là một chương đen tối nhất trong lịch sử dân tộc Đảng Hạng. Khi sứ giả Mông Cổ đến Hưng Khánh Phủ tuyên bố thông điệp cuối cùng, thì A Sa Cảm đã không thể thốt ra được lời nào nữa. Thành Cát Tư Hãn vô cùng phẫn nộ, ông ta đã đích thân chinh phạt Tây Hạ, đồng thời thề rằng: ‘Chết bằng sạch, diệt bằng sạch, tuyệt bằng sạch! Từ cha mẹ bách tính Đường Ngột Thích cho tới con cháu của tử tôn, giết sạch không trừ một ai!’. Đầu xuân năm cuối cùng của đế quốc màu trắng, đại quân Thành Cát Tư Hãn bao vây Hưng Khánh Phủ. Lúc này, Đức Vượng trẻ trung tràn trề sức sống đã đột tử. Cháu trai của ông là Ngôi Danh Hiển được quốc dân ủng hộ lập thành Hoàng đế cuối cùng của Tây Hạ. Lần này đô thành đã bị bủa vây từ nhiều phía, và ngoài Hưng Khánh Phủ, người Mông Cổ còn tấn công tất cả thành trấn Tây Hạ. Lực lượng của vương quốc vốn đã tổn thất cạn kiệt, nên trừ khi có thần binh từ trên trời giáng xuống trợ giúp, còn không thì Tây Hạ mất nước đã là điều không còn gì để hoài nghi. Toàn thành trên dưới, già trẻ gái trai đều biết rằng, sẽ không có một chiêu binh đến cứu họ nữa, trừ khi là đội nhân mã dưới sự chuẩn bị của Hạo Vương năm đó... Họ ngước mắt ngóng trông nhưng cũng không kịp đợi một binh lính nào tới. Tân vương Ngôi Danh Hiển lấy bốn tấm kệ tranh ngọc ra, ông mau chóng tính toán, ngộ nhỡ có vỡ thành thì cũng không thể để bốn kệ tranh ngọc này rơi vào tay người Mông Cổ. Vậy là, Ngôi Danh Hiển đã ra lệnh cho người tìm kiếm khắp toàn thành, mãi mới tìm thấy một thợ ngọc duy nhất còn sót lại. Ông sai người thợ ngọc đó xóa hết Hán tự vốn khắc trên mặt chính của kệ tranh ngọc trước đó và khắc lại bằng văn tự Đảng Hạng, hơn nữa còn dùng thể chữ Lệ Đảng Hạng rất ít dùng để khắc lại những lời của Hạo Vương lúc trước, ngoài ra còn khắc lên mỗi kệ tranh ngọc vị trí cất giấu của kệ tranh ngọc kế tiếp. Rồi ông bí mật phái bốn tốp người, mang bốn kệ tranh ngọc xông ra khỏi Hưng Khánh Phủ, hướng về nơi bí mật cất giấu bốn kệ tranh ngọc đó.”

“Dùng văn tự Đảng Hạng là để người khác không nhận biết được nội dung trên kệ tranh ngọc?” Đường Phong hỏi.

“Đúng vậy, ý của Ngôi Danh Hiển đúng là như vậy!”

“Vậy sau đó bốn tốp người này có đến được nơi mà họ định tới không?” Hàn Giang hỏi.

“Cái này thì không ai biết, bởi vì kể từ đó trở đi, bốn kệ tranh ngọc mỗi tấm một nơi, chưa từng tập hợp lại, cũng không có ai biết về nơi cất giữ bốn kệ tranh ngọc... Và như vậy, Hưng Khánh Phủ bị bao vây tới tận mùa hạ. Cũng vào mùa hạ năm đó, Thành Cát Tư Hãn dưỡng bệnh tại núi Lục Bàn, tình hình sức khỏe ngày càng xấu đi, cuối cùng ông ta đã qua đời tại núi Lục Bàn. Cũng có truyền thuyết nói rằng, Thành Cát Tư Hãn bị một thiếu niên Đảng Hạng mặc áo trắng đâm chết trong lều trại.”

“Cái gì? Thiếu niên Đảng Hạng mặc áo trắng?”

“Bất luận thế nào thì Thành Cát Tư Hãn, người chinh phục thế giới này, cuối cùng đã chết trên lãnh thổ Tây Hạ, đây là vận hạn đen đủi của người Đảng Hạng. Sau khi Thành Cát Tư Hãn chết, người Mông Cổ tuân theo di lệnh của Thành Cát Tư Hãn, bí mật không phát tang, chỉ đợi quân thần Tây Hạ đến đầu hàng trước rồi giết sạch người Đảng Hạng trong thành. Đó là một đêm đẫm máu trong lịch sử Hưng Khánh Phủ, một đêm đại thảm sát! Trong Hưng Khánh Phủ, bất luận già trẻ nam nữ, hầu hết đều bị giết, người Đảng Hạng may mắn sống sót chỉ còn lại lác đác vài người...” Nói tới đây, Đại Lạt ma dừng lại không kể tiếp nữa, miệng niệm một đoạn kinh văn mông lung khó hiểu.

Trong Phật đường, bỗng nhiên im lặng như tờ, mọi người đều trầm ngâm yên lặng.
 
Bên trên