Những Vụ Án Trên Thế Giới

hoahongden12

Active Member

Andrei Romanovich Chikatilo là kẻ giết người hàng loạt khét tiếng Liên Bang Nga với biệt danh "Gã đồ tể vùng Rostov".

Kẻ sát nhân hàng loạt khét tiếng lịch sử tội phạm Nga, Andrei Romanovich Chikatilo, được biết đến với các biệt danh như "Gã đồ tể vùng Rostov" hay "Máy xới đỏ vùng Rostov" vì các vụ án mạng mà hắn gây ra hầu hết đều ở Rostov (Nga).

Chikatilo thú nhận tấn công tình dục, hành hạ và giết hại tổng cộng 56 người, trong đó 53 vụ đã được chứng minh trong khoảng những năm từ 1978 đến tháng 4 năm 1992 tại Liên Bang Nga.

Sau đó, hắn đã bị kết án tử hình cho 52 vụ án mạng vào tháng 10/1992 và bị hành quyết vào tháng 2/1994.

Ám ảnh về tuổi thơ đói nghèo và chiến tranh

Andrei Chikatilo sinh ngày 16/10/1936 tại làng Yabluchne, Sumy Oblast, Ukraina. Bố mẹ Chikatilo đều là nông dân. Không có thu nhập ổn định và nhà cửa đàng hoàng nhưng họ được phân canh tác trên phần đất phía sau túp lều tạm bợ của gia đình.

Gia đình họ hầu như chẳng bao giờ đủ ăn. Sau này, Chikatilo cho biết hắn chưa bao giờ được ăn một mẩu bánh mỳ cho tới khi 12 tuổi. Gia đình hắn thường phải ăn cỏ và lá cây cho qua cơn đói.

Suốt quãng thời gian thơ ấu của mình, Chikatilo chưa bao giờ quên câu chuyện về người anh trai bị hàng xóm bắt cóc làm thực phẩm cứu đói mà mẹ hắn nhai đi nhai lại. Tuy nhiên, người anh trai đó có thật hay không thì không ai xác thực được.

Ký ức tuổi thơ của Chikatilo hoàn toàn ngập chìm trong nghèo đói, chiến tranh và sự sỉ nhục của người đời.

Thế chiến thứ II xảy ra, bố Chikatilo phải nhập ngũ, bị bắt làm tù binh sau khi bị thương trong một trận đánh. Trong khoảng thời gian từ 1941 tới 1944, Chikatilo đã phải chứng kiến nhiều tội ác của Đức Quốc xã.

Chikatilo và mẹ đã phải đau đớn nhìn căn nhà của mình bị quân Đức Quốc xã thiêu rụi. Chikatilo lúc này đã hơn 5 tuổi nhưng vẫn liên tục tè dầm nên thường xuyên bị mẹ mắng nhiếc và đánh đập.

Năm 1943, mẹ Chikatilo sinh hạ một bé gái đặt tên là Tatyana. Vì bố Chikatilo đang trong quân ngũ nên chắc chắn bé gái này không thể là con gái của ông ta. Trong Thế chiến thứ II, rất nhiều phụ nữ Ukraina bị lính Đức cưỡng bức nên mẹ Chikatilo cũng khó là ngoại lệ.

Rất có thể vụ cưỡng bức tàn bạo đã diễn ra trước mắt Chikatilo khi đó còn là một đứa trẻ.

Tháng 9/ 1944, Chikatilo bắt đầu đi học. Mặc dù là đứa trẻ rất ham học, siêng năng nhưng vì thể chất yếu do thiếu ăn, Chikatilo thường xuyên bị ngất xỉu cả ở nhà và trên lớp. Chính bởi vậy mà Chikatilo trở thành mục tiêu trêu chọc và bắt nạt của bạn bè trong trường. Ở nhà, 2 anh em Chikatilo cũng hay bị mẹ la mắng.

Chikatilo rất ham mê đọc sách và học thuộc rất nhanh. Cậu tự học ở nhà để nâng cao giá trị của mình và để bù đắp lại những gì không tiếp thu được ở trên lớp do chứng cận thị. Đối với các giáo viên, Chikatilo là một học sinh xuất sắc thường được lấy ra để làm gương và khen thưởng.

Mặc dù là học sinh giỏi suốt những năm phổ thông, Chikatilo lại không may mắn thi trượt vào Trường đại học Tổng hợp Moskva và phải tham gia nghĩa vụ quân sự. Sau khi giải ngũ, hắn làm kỹ thuật viên điện thoại tại thành phố Rodionovo-Nesvetaevski, lấy vợ và lần lượt sinh được hai cô con gái.

Năm 1971, Andrei Chikatilo nhận được Chứng chỉ sư phạm sau khi hoàn thành khóa học hàm thụ về văn học và đi dạy học ở Novosakhtinsk, nhưng liên tục bị kỷ luật phải thuyên chuyển công tác khắp nơi vì có hành vi bạo lực với học sinh.

Hành vi bạo lực ngày càng có xu hướng bộc lộ rõ ràng, đặc biệt là sau giai đoạn bà mẹ qua đời vào cuối năm 1973.

Tội ác nối tiếp tội ác

Năm 1978, Chikatilo chuyển đến thành phố Sakhi thuộc tỉnh Rostov (Nga) và thực hiện tội ác đầu tiên. Ngày 22/12/1978, hắn cưỡng hiếp rồi thủ tiêu bé gái 9 tuổi Elena Zakotnova nhưng người ta lại bắt nhầm hung thủ.

Năm 1982, hắn ra tay thực hiện tới 7 vụ án mạng liên tiếp sau khi bị sa thải khỏi ngành giáo dục. Trong tất cả các vụ án, hắn đều dùng chung một thủ đoạn là lân la làm quen với các nạn nhân tại nhà ga hay bến tàu, rồi rủ rê họ vào rừng đi dạo để dễ bề trừ khử.

Sau nửa năm "án binh bất động", từ tháng 6/1983 đến tháng 9/1983, hắn đã sát hại thêm 4 người nữa.

Năm 1984, Andrei Chikatilo đã bị bắt giữ khi có biểu hiện đáng ngờ tại một nhà chờ xe khách trong thành phố Rostov nhưng vì chưa có chứng cứ xác thực nên cuối cùng hắn lại được thả ra sau 3 tháng ngồi tù.

Tháng 8/1985, Chikatilo lại quay trở lại với hàng loạt vụ giết người không gớm tay với thủ đoạn tàn ác, gây hoang mang cho dư luận. Tuy nhiên, "đi đêm lắm có ngày gặp ma", ngày 6/11/1990, sau khi vừa gây tội ác với một nữ nạn nhân tên là Sveta Korostik, hắn đã chạm trán ngay cảnh sát tuần tra.

Tên sát nhân buộc phải cúi đầu nhận tội và bị đem ra xét xử vào ngày 14/4/1992. Chikatilo đã bị hành quyết tại nhà tù trung tâm ở Moskva 2 năm sau đó.

Có một điểm đáng chú ý trong hồ sơ của tên tội phạm Andrei Chikatilo đó là cấu trúc ADN trong máu hắn không hề trùng lặp với cấu trúc ADN ở t*ng trùng. Đó chính là lý do tại sao tuy đã từng tóm được hắn nhưng cảnh sát buộc phải thả ra vì thiếu bằng chứng thuyết phục...
 

hoahongden12

Active Member

Vào tháng 4 năm 2006, những người dân ở thị trấn Fujisato, tỉnh Akita (Nhật Bản) bàng hoàng khi biết chuyện bé gái xinh tươi, ngoan ngoãn Ayaka Hatakeyama (9 tuổi) bị giết hại dưới chân cây cầu gần nhà của em.

Người đau lòng nhất, không ai khác, chính là mẹ của cô bé bởi trên thế giới này có bà mẹ nào bình tĩnh được khi biết tin con gái nhỏ của mình bị giết hại như vậy. Thế nên, Suzuka Hatakeyama (34 tuổi) đã rất bàng hoàng và cầu xin cảnh sát sớm tìm ra hung thủ để tìm lại công bằng cho con gái nhỏ của cô.

Chỉ 1 tháng sau đó, khi mà cảnh sát vẫn đang đau đầu truy tìm tung tích kẻ sát nhân giết hại cô bé Ayaka thì người ta lại tìm thấy thi thể của cậu bé Goken Yoneyama (7 tuổi) ngay dưới chân cầu, đúng vị trí mà thi thể của Ayaka được tìm thấy.

Cảnh sát bắt đầu nghi ngờ đây là một vụ giết người hàng loạt vô cùng nguy hiểm, nhưng không rõ động cơ của thủ phạm là gì.

Trong quá trình lấy lời khai của Suzuka Hatakeyama, lực lượng điều tra đã phát hiện ra nhiều điểm nghi vấn và cuối cùng bằng những biện pháp nghiệp vụ từ phía cảnh sát, Suzuka đã thừa nhận chính tay mình đã giết chết đứa con gái 9 tuổi và cả đứa trẻ nhà hàng xóm.

Thông tin này khiến nhiều người bàng hoàng bởi không ai có thể ngờ người phụ nữ ấy lại có thể ra tay giết hại chính đứa con mình dứt ruột đẻ ra.

Suzuka thậm chí còn tỏ ra rất đau buồn về cái chết của con gái.

Vụ việc thu hút sự chú ý của đông đảo người dân Nhật và cả giới truyền thông, các trang tin, báo đài liên tục đưa tin về vụ việc. Cũng vì thế mà nhiều thông tin được lan truyền dù không có lời xác nhận chính thức.

Có thông tin rằng các nhà tâm lý học tham gia phá vụ án này điều tra được Suzuka đã phải trải qua một tuổi thơ cơ cực vì bị bạo hành. Đó là nguyên nhân gây ra vấn đề về tâm lý của cô ta.

Bên cạnh đó, không ít người còn truyền tai nhau thông tin đáng sợ liên quan đến cái chết của bé trai.

Người ta cho rằng, khi giết chết bé gái và giấu xác ở chân cầu, Suzuka đã không cẩn thận để dính vết máu trên quần áo của mình và để bé trai nhìn thấy vết máu trên người cô ta, khiến cô ta hoảng sợ đã bóp cổ cậu bé để "diệt khẩu".

Thời gian sau khi xảy ra vụ án, các nhà báo đứng trước cửa nhà Suzuka thì họ đã vô tình chụp được bức ảnh cho thấy hình ảnh của bé trai đứng ở đằng sau tấm cửa kính nhìn thẳng về phía họ.

Thông tin này đã tạo ra làn sóng dư luận khiến người dân Nhật Bản vô cùng hoang mang, thậm chí còn có tin đồn rằng cậu bé trong ảnh chính là hồn ma của bé trai tội nghiệp Goken Yoneyama, vì không siêu thoát nên cứ mãi quẩn quanh ở đó.

Tuy nhiên, khi mọi việc được làm sáng tỏ, mọi người mới biết bé trai trong bức ảnh thực chất là đứa trẻ khác chứ không có hồn ma nào cả.

Theo thông tin được đăng tải trên tờ Japantimes, Suzuka kể lại rằng khi cô ta dẫn con gái đi qua cầu, cô bé cứ muốn nán lại để ngắm cá dưới nước.

Cô ta cảm thấy bực mình với sự nhõng nhẽo của con gái nên đã đẩy cô bé xuống dưới rồi cứ thế đi về mà không chút day dứt. Trước đó, Suzuka luôn coi sự hiện diện của con gái trên đời là mối phiền phức đối với cô ta.

Trước phiên tòa diễn ra vào tháng 3 năm 2008, luật sư của Suzuka vẫn bào chữa bằng một câu chuyện hoàn toàn khác rằng cô ta không hề cố ý giết con gái mà còn cố giữ cô bé khi Ayaka ngồi trên lan can cầu.

Về việc cậu bé hàng xóm nhà Suzuka bị giết, các công tố viên cho biết cô ta đã giết chết cậu bé để chuyển hướng sự nghi ngờ từ công chúng.

Thẩm phán Fujii đã đưa ra những thông tin điều tra từ công tố viên cho biết ban đầu Suzuka đã nảy ra ý tưởng bắt cóc cậu bé Goken để chuyển hướng điều tra của cảnh sát về cái chết của con gái cô ta.

Nhưng sau khi sau khi dụ được cậu bé đến nhà vào ngày 17 tháng 5 năm 2006, cô ta cảm thấy ghen tị và căm ghét khi thấy đứa trẻ cười nói vui vẻ chơi và bất ngờ quyết định giết chết cậu bé.

Suzuka sau đó siết cổ cậu bé bằng một sợi dây và vứt xác bé trai bên bờ sông gần chô bé Ayaka đã chết.

Khi gần kết thúc phiên tòa, Suzuka còn quay đầu về phía cha mẹ của Goken và gập người, cúi đầu thay cho một lời xin lỗi. Tuy nhiên, người ta cảm thấy cô ta chưa thực sự ăn năn, hối cải.

Cô ta lên tiếng: "Tôi xin lỗi tôi đã giết con trai cô". Mẹ của Goken dường như không muốn nhận lời xin lỗi ấy bằng cách nhắm mắt lại và quay lưng đi.

Phiên tòa xét xử Suzuka thu hút khoảng 3.000 người xếp hàng bên ngoài tòa án, ai cũng mong sẽ có một bản án nghiêm minh cho người phụ nữ nhẫn tâm sát hại con mình này.

Cuối cùng, tòa tuyên án Suzuka lĩnh án tù chung thân. Tuy nhiên, bản án này lại gây tranh cãi trong dư luận. Một người nông dân 70 tuổi tỏ ra bức xúc: "Tôi tự hỏi tại sao cô ta không phải lĩnh án tử. Tôi cho rằng tòa đã quá khoan dung".

Một phụ nữ 80 tuổi cho rằng án chung thân cũng nặng như án tử hình. "Việc thực thi án tử chỉ mất vài giây, nhưng án chung thân phải mất nhiều năm. Tốt hơn hết là cho cô ta nhiều năm để ăn năn về tội ác của mình".
 

hoahongden12

Active Member

Góa phụ đen nước Mỹ đã không ngần ngại sát hại chồng và những đứa con để hưởng lợi từ bảo hiểm. Thậm chi làm giả cái chết của mình để thoát khỏi pháp luật.

Belle Gunness muốn trở thành một kẻ giàu có và cô ta đã tìm được cách để thực hiện giấc mơ của mình đấy là gian lận tiền bảo hiểm bằng cách giết chồng, con cái và bất kì người nào theo cách của bà ta.

Belle Gunness lớn lên trong ngôi làng nhỏ Selbu của Na Uy. Sau đó cô ta di cư đến Mỹ với hi vọng sẽ tìm thấy giấc mơ giàu sang. Và cuối cùng cô ta cũng tìm thấy một cách kiếm tiền khéo léo tạo Chicago: gian lận tiền bảo hiểm.

Trong mắt mọi người xung quanh, mọi thảm họa và bi kịch đã ập đến với cuộc đời tội nghiệp của Gunness trong một khoảng thời gian ngắn. Những tài sản mà cô sở hữu biến mất một cách bí ẩn và những người thân của cô cũng lần lượt bỏ cô mà đi. Nhưng luôn có một khoản tiền bảo hiểm lớn đực thanh toán để đền bù lại những mất mát của cô.

Trên thực tế, Belle Gunness là một trong những Góa phụ đen đầu tiên và là kẻ giết người hàng loạt của nước Mỹ với tội danh giết gần 40 người. Belle, hay Lady Bluebeard là hai cái tên mà cô thường được biết đến, đã giết chết chồng mình và thậm chí là những đứa con của cô ta.

Trở thành một người phụ nữa góa chồng, Belle Gunness bắt đầu thu hút những bạn tình mới đến “Nông trại chết chóc” của ả nhằm chiếm đoạt những khoản tiền tiết kiệm của họ. Với chiều cao hơn 1.8 mét và nặng tới 90kg, Gunness chắc chắn có thể tự xoay sở nếu một trong số những nạn nhân của cô ta cố gắng trốn thoát.

Sự say mê giết người và gian lận những khoản tiền bảo hiểm bắt đầu khi cô kết hôn với người đàn ông đầu tiên, Mads Sorenson vào năm 1893. Họ cùng nhau mở cửa hàng bánh kẹo và có bốn người con - Caroline, Axel, Myrtle và Lucy. Họ cũng có một đứa con nuôi tên là Jennie Olsen. Belle Gunness có rất nhiều cách để kiếm tiền thông qua chồng, con cái và doanh nghiệp của mình. Đầu tiên là cửa xưởng hàng bị cháy, tiếp đấy là hai đứa con của cô, Caroline và Axel chết do viêm đại tràng cấp tính. Tuy nhiên, viêm đại tràng cấp và ngộ độc strychnine có chung một triệu chứng thông thường đó là đau bụng. Điều này đã qua mặt được nhân viên điều tra và Gunness có được một khoản tiền.

Với lòng tham tột cùng, Belle Gunness đã tiếp tục thực hiện hành vi giết người của mình. Năm 1900, Mads - người chồng đầu tiên của Belle Gunness đã qua đời vào ngày mà hai chính sách bảo hiểm nhân thọ của ông trùng nhau và Gunness đã nhận được cả hai khoản tiền đó trong cùng một ngày.

Bác sĩ khám nghiệm tử thi đã phát hiện ra Mads chết vì ngộ độc strychnine nhưng bác sĩ của Belle Gunness đã bác bỏ phát hiện này và khẳng định rằng ông ta chết vì bị suy tim. Belle Gunness một lần nữa đã thoát khỏi tội danh giết người.

Kiếm được rất nhiều tiền bảo hiểm, Belle Gunness cùng 3 người con còn lại của mình đến LaPorte, Indiana. Năm 1901, bà đã mua một trang trại rộng gần 170 nghìn mét vuông ở cuối con đường McClung. Mặc dù đã có rất nhiêu tiền nhưng cô ta vẫn muốn nhiều hơn nữa. Ngay sau đó, một phần của trang trại bị đốt cháy và Gunness lại thu thêm một khoản lớn tiền bảo hiểm.

Ngày 1/4/1902, cô kết hôn với một người đàn ông góa vợ tại địa phương và người chồng mới này có hai đứa con gái. Đối với Belle, hai đứa con gái của chồng mới là cơ hội để kiểm tiền.

Không lâu sau dám cưới, một trong hai đứa trẻ đã chết trong một hoàn cảnh kì lạ. Peter biết rằng có điều gì đó không ổn và đã gửi Swanhild-đứa con còn lại của anh cho họ hàng. Đứa trẻ là người duy nhất thoát khỏi Gunness.

Ít lâu sau cái chết của đứa trẻ, Peter cũng qua đời. Tháng 12/1902, ông qua đời do một chiếc máy xay thịt rơi ra khỏi kệ bếp và đập trúng đầu ông. Tuy nhiên con gái của Gunness là Jennie đã kể với bạn học rằng "Chính mẹ tớ đã giết cha. Bà ý đã đánh cha tớ bằng con dao cắt thịt và cha tớ đã chết".

Lần này các nhân viên điều tra nhận thấy các triệu chứng ngộ độc chất strychnine và ra lệnh điều tra. Nhưng không có bất kì bằng chứng cụ thể nào được tìm thấy và Gunness đã thuyết phục được mình vô tội bằng những giọt nước mắt cá sấu về cái chết của chồng bà. Không lâu sau, Belle đã nhận được tiền từ bảo hiểm nhân thọ của chồng mình. Sáu tháng sau cái chết của Peter, Belle hạ sinh con trai ông, Phillip Gunness.

Từ người chồng thứ hai của mình. Belle Gunness có nhũng cách kiếm tiền hiệu quả hơn. Cô bắt đầu quyến rũ những người đàn ông giàu có khác và mời họ đến trang trại của mình. Họ mua cổ phần trang trại của Belle bằng cách gửi tiền vào tài khoản ngân hàng của cô ta. Khi giao dịch thực hiện xong, Gunness sẽ đầu độc vào thức ăn của họ hoặc giết họ bằng những chiếc máy xay thịt. Đã có rất nhiều người đàn ông đến LaPorte và không bao giờ trở về. Những xác chết sẽ bị ả ta chặt để cho lợn ăn hoặc chôn trong chuồng heo.

Vào sáng ngày 28/4/1908, ngôi nhà của Belle Gunness bị cháy, sau đó chính quyền địa phương tìm thấy thi thể của ba đứa con của Gunness và xác của một người phụ nữ không đầu được cho là của Belle Gunness. Ban đầu, các nhà chức trách cho rằng Belle đã bị sát hại. Nhưng vài ngày sau đám cháy, Asa Helgelein quay lại tìm kiếm người anh trai bị mất tích tích Andrew của mình. Anh ta khẳng định rằng anh trai mình đã bị Belle Gunness giết và yêu cầu cảnh sát Quận LaPorte tìm kiếm trong trang trại của Belle. Trước sự thúc giục của anh ta, cảnh sát đã tìm thấy 11 thi thể khác trong chuồng heo trong đó có xác của Jennes Olsen - đứa con nuôi của Gunness bị mất tích từ năm 1906. Trong đống đổ nát, cảnh sát tìm thấy những chiếc răng thuộc về Gunness và coi rằng đây là bằng chứng chứng minh cho cái xác không đầu kia là của Belle Gunness.

Trong một thời gian, người đàn ông tên Ray Lamphere-quản gia trong nông trại của Belle Gunness là nghi can chính của vụ việc. Tuy nhiên ông chỉ bị buộc tội đốt phá.

Nhiều năm sau, Lemphere đã thừa nhận rằng Belle Gunness là kẻ sát nhân và dàn dựng cái chết giả của mình. Vài ngày trước đám cháy, họ đã tới Chicago để tìm một quản gia nữ mới, người sẽ trở thành xác chết của góa phụ đen trong cơn hỏa hoạn.

Những nghi ngờ vẫn còn về việc người phụ nữ không đầu kia có phải là Belle Gunness hay là chị em song sinh. Kết quả DNA năm 2008 vẫn chưa thể xác định. Tuy nhiên, có một trường hợp cho thấy Gunnness thức sự đã làm giả cái chết của mình. Năm 1931, một người phụ nữ mang tên Esther Carlson qua đời ở Los Angeles trong khi chờ xét xử về việc đầu độc một người đàn ông. Cô mang những nét tương đồng với Gunness và cùng một độ tuổi. điều quan trọng nhất là Carlson có bức ảnh giống ba đứa con của Gunness được phát hiện trong đống tài sản của cô...
 

hoahongden12

Active Member

Cuồng tín tới mê muội, kẻ sát nhân từng là một bà mẹ hiền lành đã chọn cách hi sinh tính mạng của người khác để bảo vệ những đứa con của mình.

Người đàn bà 17 lần mang thai

Leonarda Cianciulli (14/11/1893 – 15/10/1970) là kẻ sát nhân hàng loạt khét tiếng toàn nước Ý. Nữ sát thủ đã cướp đi sinh mạng của 3 người phụ nữ đều là hàng xóm trong vùng Correggio trong khoảng thời gian từ năm 1939 tới năm 1940 và dùng thi thể họ để chế biến thành xà phòng và bánh ngọt.

Chính vì thủ đoạn tàn độc này mà bà ta còn được biết đến với biệt danh "Soap-maker of Correggio" (tạm dịch: Thợ làm xà phòng vùng Correggio).

Cianciulli sinh ra và lớn lên tại thị trấn Montella, Avellino, Campania, Ý. Bà ta có vẻ như không có một thời niên thiếu bình yên và hạnh phúc khi đã cố gắng tự tử tới 2 lần. Năm 1917, Cianciulli kết hôn với một nhân viên văn phòng nhưng cuộc hôn nhân này không nhận được sự đồng ý từ gia đình vì cha mẹ bà đã nhắm cho con gái một mối khác.

Năm 1921, hai vợ chồng Cianciulli chuyển đến thị trấn Lauria, thuộc Pansardi. Tại đây, Cianciulli từng bị kết án về tội gian lận và phải ngồi tù trong năm 1927. Khi ra tù, hai vợ chồng họ lại tiếp tục chuyển đến Lacedonia nhưng tất cả nhà cửa, tài sản của họ đã bị phá hủy hoàn toàn sau một trận động đất lớn vào năm 1930.

Điểm dừng chân cuối cùng của họ là Correggio nơi Cianciulli mở một cửa hàng nhỏ và được mọi người quý mến và tôn trọng vì bà ta luôn tỏ ra là một phụ nữ hiền lành, tốt bụng.

Trong suốt cuộc hôn nhân của mình, Cianciulli đã từng mang thai 17 lần nhưng lại bỏ lỡ cơ hội làm mẹ tới 13 lần, nguyên nhân đều do sẩy thai hoặc những căn bệnh bà ta mắc phải thời còn trẻ và chỉ giữ được 4 đứa con. Chính vì lẽ đó, bà ta luôn hết mực yêu thương, bao bọc 4 người con may mắn được sống sót này.

Nỗi lo sợ mất con của người phụ nữ này luôn thường trực sau lời tiên đoán của một thầy bói rằng tất cả những đứa con của bà ta đều chết trẻ. Sau này, nữ sát nhân cuồng tín khai rằng trong một lần đi xem chỉ tay, một thầy bói đã từng nói bà ta có số bị tù tội và lưu đày.

Giết người vì thương con một cách mù quáng

Năm 1939, khi nghe tin con trai cả Giuseppe, đứa con bà cưng nhất nhà phải gia nhập quân đội để chuẩn bị cho Thế chiến thứ 2, Cianciulli đã rất hoang mang và quyết định sẽ bảo vệ con bằng mọi giá.

Vì cuồng tín nặng nên người phụ nữ này cho rằng muốn con được an toàn thì phải dùng người khác làm vật hiến tế thay. Bản thân Cianciulli cũng hành nghề bói toán nên có khá nhiều người tìm đến mong được giúp đỡ về tâm linh. Tận dụng lợi thế này, bà ta đã lên kế hoạch sát hại 3 người phụ nữ trung niên đều là những người hàng xóm.

Nạn nhân đầu tiên của Cianciulli là Faustina Setti. Người phụ nữ độc thân này đã đến tìm bà ta nhờ kiếm giúp một tấm chồng. Cianciulli đã lừa Setti đến xem mặt một người đàn ông rất phù hợp có thể trở thành đối tượng kết hôn sống ở Polla nhưng phải giữ bí mật, không được cho ai biết.

Trước đó, Cianciulli còn ngon ngọt thuyết phục Setti viết thư cho người thân, bạn bè nói rằng mình đang sống tốt để gửi đi sau khi tới Polla. Vào ngày đã hẹn trước. Sau đó, bà ta tẩm thuốc mê vào ly rượu của Setti và sát hại cô bằng một chiếc rìu. Khi Setti ngừng thở, Cianciulli phân nhỏ cái xác thành 9 phần và bắt đầu thực hiện hành vi man rợ.

Cụ thể, Cianciulli đã ném những phần của Setti vào nồi, thêm 7 cân soda ăn da mà bà ta đã mua để làm xà phòng, khuấy đều hỗn hợp cho đến khi mọi thứ đều hòa tan. Cianciulli đổ thứ chất lỏng đó vào một vài cái xô và phần còn lại thì đổ vào bể chứa gần đó. Đối với số máu của nạn nhân còn sót lại, Cianciulli chờ chúng đông lại, sấy khô trong lò nướng, nghiền nát và trộn với bột, đường, sôcôla, sữa, trứng để làm bánh mời hàng xóm.

Ngay sau khi sát hại Setti, Cianciulli đã tìm thấy nạn nhân khác - một phụ nữ địa phương cũng không có gia đình tên là Francesca Soavi. Giống như những gì đã làm với Setti, Cianciulli thuyết phục Soavi rằng sẽ giúp cô lấy được một tấm chồng giáo viên người ngoại quốc. Đương nhiên, Cianciulli cũng không quên viết thư để trấn an những người thân của Soavi. Cianciulli tiến hành thực hiện những hành vi man rợ với Soavi y như cái cách đã làm với nạn nhân đầu tiên.

Nạn nhân thứ ba của Cianciulli, Virginia Cacioppo, nhạc sĩ soprano nổi tiếng, người mà bà ta đã hứa sẽ mai mối với một nhà nhiếp ảnh ở Florence. Đương nhiên, thi thể của nạn nhân này sau đó cũng bị Cianciulli biến thành xà phòng và làm bánh trà mời hàng xóm.

"Cô ấy cũng kết thúc trong nồi như 2 người kia... dù trông "thành phẩm" có mỡ và trắng hơn. Khi Virginia tan ra, tôi có thêm vào đó một chai nước hoa cologne. Sau một thời gian dài đun sôi, một thứ xà bông đặc biệt đã ra đời. Dĩ nhiên là tôi không quên đem bánh mời hàng xóm như 2 lần trước rồi. Ai cũng khen tôi là người phụ nữ ngọt ngào." - Cianciulli lạnh lùng khai.

Tuy nhiên, tội ác của kẻ sát nhân vùng Correggio đã bị bại lộ khi chị của Virginia Cacioppo nghi ngờ về sự biến mất đột ngột của em gái. Lần cuối cùng chị Cacioppo nhìn thấy em là khi cô ta bước vào nhà kẻ sát nhân.

Cảnh sát lập tức vào cuộc điều tra sau khi nhận được trình báo của chị Cacioppo. Nữ sát nhân Cianciullu đã nhanh chóng thừa nhận tội ác của mình.

Tại phiên tòa xét xử năm 1946, Cianciulli vẫn rất bình tĩnh khi kể lại chi tiết các vụ án mạng với đôi mắt đen không có chút gì là hối hận. Cianciulli bị kết án 30 năm tù giam và 3 năm trong trại tị nạn hình sự cho tội ác bà ta gây ra.

Ngày 15/10/1970, trước khi hoàn thành bản án, kẻ sát nhân đã chết vì ngập máu não ở trại tị nạn hình sự cho phụ nữ tại Pozzuoli.
 

hoahongden12

Active Member

Vụ thảm sát tại "trang trại ma ám" Hinterkaifeck cho đến nay là bí ẩn gần 100 năm chưa thể giải mã trong lịch sử nước Đức.

Hinterkaifeck - một trang trại nhỏ nằm ở giữa thị trấn Bavarian vùng Ingolstadt và Schrobenhausen (khoảng 70km về phía Bắc thành phố Munich) là nơi xảy ra một trong những tội ác gây chấn động và hoang mang nhất trong lịch sử nước Đức.

Mặc dù đã qua hàng chục cuộc điều tra quy mô lớn với hàng trăm kẻ tình nghi bị điều tra xét hỏi, nhờ đến sự can thiệp của cả những nhà ngoại cảm nổi tiếng nhưng nguyên nhân và hung thủ trong vụ án mang tên Hinterkaifeck vẫn là một ẩn số của Đức.

Với cái chết đầy bí ẩn của 6 người trong một gia đình trong thập niên 1920, "vụ án Hinterkaifeck" trở thành trường hợp bí ẩn nhất trong lịch sử án hình sự Đức.

Thảm kịch bí ẩn bắt đầu...

Vào đầu những năm 1920, gia đình nhà Andreas Gruber đã đến Hinterkaifeck và trở thành chủ trang trại rộng lớn.

Gia đình Andreas Gruber gồm 5 người, gồm vợ chồng Andreas Gruber và Cazilia Gruber, cô con gái Viktoria và hai người cháu họ của Cazilia (là bé Cäzilia (7 tuổi) và Joesef (2 tuổi)).

Vì trang trại cách xa đường phố và khu dân cư nên rất ít người quan tâm đến nên cả gia đình Andreas Gruber đã sống cô lập, không quan tâm đến thế giới bên ngoài.

Cuộc sống thầm lặng của họ có lẽ vẫn trôi đi nhẹ nhàng nếu không có bi kịch giáng xuống đầu.

Ngày 4/4, sự vắng mặt của gia đình Gruber tại nhà thờ và trường học khiến hàng xóm bắt đầu lo ngại. Người dân thị trấn bắt đầu đến khu trang trại và tiến hành tìm kiếm. Và họ đã phát hiện ra một 6 xác chết đó chính là thành viên trong gia đình Gruber.

Ngày 5/4, kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, cả gia đình Gruber đều bị giết bằng cuốc chim. Các nạn nhân đều tử vong vào ngày 31/3/1922.

Vài ngày trước vụ thảm sát, điền chủ Andreas Gruber kể với những người dân quanh đó rằng ông đã phát hiện nhiều dấu chân trên tuyết từ bìa rừng hướng về phía khu chuồng trại; nhưng không hề có dấu chân nào trở lại bìa rừng. Ông cũng nghe thấy tiếng bước chân trên gác mái và tìm thấy một tờ báo lạ trong nông trại. Thêm vào đó, chìa khóa của nông trại đã bị mất nhiều ngày trước đêm xảy ra vụ án, thế nhưng không có ai trình báo việc này lên cảnh sát địa phương.

6 tháng trước, cô hầu gái cũ đã xin nghỉ việc ở trang trại vì cho rằng nó bị ma ám. Cô hầu gái mới, Maria Baumgartner, đến nhận việc vào trưa ngày 31/05, chỉ vài tiếng trước vụ thảm sát kinh hoàng.

Không ai biết được chính xác điều gì đã xảy ra vào tối ngày thứ Sáu hôm đó. Tuy nhiên người ta tin rằng vợ chồng ông điền chủ, con gái lớn Viktoria và đứa cháu gái Cazilia từng người một đã bị dụ đến nhà kho, nơi mọi người bị giết hại một cách hết sức dã man. Kẻ thủ ác (và đồng bọn, nếu có) sau đó vào nhà và lấy mạng Josef, đứa con gái 2 tuổi của Viktoria đang ngủ trong nôi và cô hầu gái Maria Baumgartner đang ngủ dưới bếp".

Nạn nhân bao gồm: Hai vợ chồng Andreas Gruber (63 tuổi) và Cazilia Gruber (72 tuổi), cô con gái Viktoria Garbiel (35 tuổi), bé Cäzilia (7 tuổi), Joesef (2 tuổi) và người hầu gái Maria Baumgartner (44 tuổi).

Những bí ẩn khó hiểu tại hiện trường

Cảnh sát cho biết, tất cả các nạn nhân đều đang mặc quần áo ngủ, ngoại trừ bé Cazilia và Viktoria.

Bên cạnh đó, người hầu gái và cháu bé hai tuổi bị chết trên giường, chứng tỏ rằng vụ giết người đã xảy ra vào buổi tối muộn, khi các nạn nhân đang ngủ.

Theo nhận định của cảnh sát, có thể bọn tội phạm đã tìm cách kéo Andreas Gruber, vợ và con gái vào nhà kho rồi dùng cuốc chim giết chết họ, sau đó mới vào nhà để tiếp tục giết chết những thành viên còn lại ngay tại giường ngủ.

Hung thủ giết người còn cố tình che đậy các thi thể trong nhà kho bằng cỏ khô, những thi thể trong phòng ngủ được che đậy bằng ga trải giường.

Có nhiều nhận định được đưa ra nhưng vẫn chưa có một kết luận chính xác nhất bởi theo lời kể của một số nhân chứng thì ngày người ta phát hiện ra các thi thể của gia đình nhà Andreas Gruber.

Họ vẫn nhìn thấy khói bếp bốc ra từ trang trại chứng tỏ rằng ngôi nhà vẫn có người ở.

Bên cạnh đó, bàn ăn, giường ngủ còn được nhận định rằng, có người vừa mới ăn và cũng vừa mới ngủ chứ không phải là bàn ăn, giường ngủ đã vắng bóng người dùng.

Chưa hết, gia súc vẫn được cho ăn và chăm sóc trong thời gian đó. Đồ ăn thừa còn khá mới được tìm thấy trong bếp. Số tiền khá lớn mà gia đình Gruber tích trữ được vẫn còn nguyên.

Cuộc điều tra bế tắc

Cảnh sát điều tra đã gặp phải rất nhiều khó khăn trong công việc điều tra để có thể tìm ra manh mối của vụ án. Những cuộc tranh cãi liên tục xảy ra nhưng không thể tìm được một kết luận chung.

Họ chỉ có thể kết luận rằng kẻ sát nhân đã giết gia đình Gruber và sau đó ở lại trang trại vài ngày trước khi biến mất. Dù đã điều tra kĩ lưỡng trên quy mô lớn, họ vẫn không tìm được bất cứ kẻ tình nghi nào cho vụ án ở trang trại Hinterkaifeck.

Thủ phạm là người biết cách điều hành một trang trại, quen chăm sóc gia súc và không phải người lạ với chú chó của gia đình Gruber, đủ khỏe để dùng cuốc chim giết người, không quan tâm tới tiền bạc và có động cơ giết người hoàn toàn cá nhân.

Cảnh sát đã tuyệt vọng tới mức gửi xương sọ của nạn nhân tới cho các nhà ngoại cảm để tìm manh mối, nhưng vẫn không có kết quả gì.

Những gì còn lại trong vụ thảm sát 6 người chết là một loạt những câu hỏi không lời giải đáp:

Mục đích của thủ phạm là gì thì vẫn chưa ai có thể trả lời được. Nhiều người đã khẳng định trang trại Hinterkaifeck đã bị ma ám chứ không có kẻ giết người nào lại cao siêu đến vậy.

Tại sao người hầu gái Maria đã bị ám ảnh đến mức thần kinh hoảng loạn? Tại sao kẻ giết người lại ở lại ngôi nhà gần một tuần, rồi ăn uống, ngủ nghỉ sau khi đã gây án giết chết toàn bộ thành viên trong gia đình không ghê tay?

Giết người hàng loạt mà không để lại bất cứ dấu vết nào tại hiện trường. Những dấu chân bí ẩn trên tuyết, những tiếng động lạ trên căn gác vẫn không thể nào giải thích được.

Qua gần 100 năm, vụ án mang tên Hinterkaifeck vẫn chìm sâu trong bí ẩn cùng nỗi sợ hãi của người dân cùng thời.
 

hoahongden12

Active Member

Ngày 4/2/2009, các nhân viên Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) tổ chức khám xét căn nhà ở ngoại ô Boston của James Lewis, từng là nghi phạm chủ chốt trong vụ đầu độc hàng loạt tại Chicago từ hơn 26 năm trước đây. Khi đó, động cơ và thủ phạm của những tội ác trên - đã cướp đi mạng sống của 7 nạn nhân vô tội - đã không thể được làm rõ.

Những tình tiết mới xuất hiện gần đây đã khiến các nhà chức trách lại có được tia hy vọng mới để có thể giải quyết một trong những vụ án được coi là nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Mỹ...

Vụ đầu độc gây kinh hoàng nước Mỹ

Trở lại với những sự kiện hồi 26 năm về trước, những vụ đầu độc liên tiếp được ghi nhận tại thành phố Chicago vào tháng 9/1982. Một thủ phạm bí ẩn nào đó - hoặc có thể là một nhóm thủ phạm - đã tìm cách tẩm chất độc kali cyanua vào các viên thuốc Extra-Strength Tylenol, nhãn hiệu một loại thuốc giảm đau hạ sốt phổ biến tại Mỹ có thành phần chủ yếu là Paracetamol của Hãng Johnson amp; Johnson, sau đó trộn lẫn chúng vào số thuốc bán tại nhiều cửa hàng khác nhau.

Hậu quả là chỉ trong một thời gian ngắn đã có tới 7 nạn nhân bị thiệt mạng tại Chicago và các khu vực phụ cận. Nạn nhân đầu tiên là một học sinh nữ Mary Kellerman, 12 tuổi ở Chicago. Cô bé đã tắt thở sau khi uống 2 viên Tylenol vào sáng ngày 29/9/1982. Người thứ hai cũng thiệt mạng ngay trong buổi sáng hôm đó là anh Adam Janus (27 tuổi), một nhân viên bưu điện. Tiếp theo là 2 nạn nhân nữa: người mẹ trẻ Mary Reiner cùng tuổi với Adam và cô Mary McFarland, nhân viên Hãng điện thoại Illinois Bell.

Chiều tối ngày 29/9, bất hạnh lại tiếp tục trút xuống gia đình nhà Janus, khi 2 nạn nhân tiếp theo bị trúng độc khi uống thuốc và qua đời là em trai của Adam - Stanley Janus (25 tuổi) - và cô vợ Theresa Janus, sau khi cả hai cùng đến nhà Adam để chuẩn bị lễ tang cho anh mình. Không nghi ngờ gì về cái chết của Adam, họ tiếp tục sử dụng những viên Tylenol từ lọ thuốc đó. Nạn nhân cuối cùng của thảm kịch này là cô tiếp viên hàng không 35 tuổi Paula Jean Prince, được phát hiện đã chết trong căn hộ của cô ở Chicago vào ngày 1/10.

Các nhà chức trách đã kịp thời ngăn chặn được những cái chết tiếp theo, một phần cũng nhờ sự tham gia tích cực của Hãng Johnson amp; Johnson - cảnh báo người tiêu dùng qua quảng cáo trên tivi, đồng thời thay thế hết những lọ Tylenol bằng loại đóng vỉ. Vụ đầu độc này đã khiến cả nước Mỹ bàng hoàng, dẫn tới các nhà chức trách phải đưa ra những tiêu chuẩn mới cho việc đóng gói và kiểm soát việc bán thuốc.

Hành vi kỳ lạ của nghi phạm chính

Nghi phạm chính James William Lewis - là kẻ không có nghề nghiệp ổn định - cũng đã bị chính quyền kết án do liên quan tới cái chết của các nạn nhân tại Chicago, nhưng không phải vì tội đầu độc, mà vì tội đe dọa tống tiền. Bị bắt giữ vào tháng 12/1982 tại New York, đến năm 1983 Lewis mới thừa nhận đã gửi cho Hãng Johnson amp; Johnson một lá thư, trong đó yêu cầu phải trả cho hắn 1 triệu USD "để đổi lấy việc chấm dứt những vụ đầu độc". Tên tống tiền bất thành này cũng được xếp trong danh sách tình nghi sát nhân đầu tiên, có điều các nhà chức trách đã không thể tìm ra các bằng chứng để buộc tội hắn.

Những chai thuốc Tylenol đã từng bị lợi dụng để đầu độc các nạn nhân tại Chicago.

Sau khi bị bắt, Lewis còn mô tả chi tiết "giả thuyết" của hắn về tội ác trên: có "kẻ nào đó" đã mua các lọ thuốc Tylenol về tẩm độc vào các viên thuốc, sau đó bí mật đưa trả những lọ thuốc này vào các giá cửa hàng. Hắn còn một mực khẳng định rằng, mình không hề phạm tội sát nhân, trong khi số tiền âm mưu lấy của Hãng Johnson amp; Johnson cũng không vì mục đích vụ lợi: Lewis khai định chuyển 1 triệu USD trên vào tài khoản ông chủ cũ của vợ mình để đẩy ông ta vào tình trạng khó xử? Tòa đã kết án Lewis 20 năm tù vì tội tống tiền, nhưng đến năm 1995 hắn đã được trả tự do trước thời hạn và chuyển tới định cư tại Boston.

Các nguồn tin cho biết, Lewis sau khi bị kết án vẫn tỏ ra rất tích cực hợp tác với các nhà điều tra, cố gắng giúp đỡ họ phá án, thậm chí còn đưa ra nhiều giả thuyết về những kẻ có thể thực hiện tội ác trên. Công tố viên liên bang Jeremy Margolis, người trực tiếp phụ trách vụ của Lewis, đã kể lại: "Hắn tỏ ra là một nhà văn và cả họa sĩ chăm chỉ. Hắn đưa cho tôi một số lượng lớn các tài liệu và sơ đồ - tất cả liên quan đến giả thuyết của hắn liên quan tới vụ án".

Hoàn toàn có thể coi Lewis là kẻ vô hại có vấn đề về tâm thần, nếu như không xem xét những "tì vết" trong hồ sơ tội phạm của hắn ngoài vụ Tylenol. Thật ra, Lewis có lần bị buộc tội sát hại một khách hàng cũ của mình - hắn từng cung cấp dịch vụ về kế toán cho người này. Một thời gian sau, thi thể bị cắt nhỏ làm nhiều phần của khách hàng Raymond West (72 tuổi) được phát hiện trên tầng gác một căn nhà ở Kansas-City. Những lời buộc tội sau đó đối với Lewis đã bị gỡ bỏ, do trong quá trình điều tra cảnh sát đã tổ chức khám xét mà chưa được phép, trong khi nguyên nhân cái chết của West cũng không được làm rõ. Còn có thông tin cho biết, Lewis trước đó đã từng phải ngồi tù 2 năm (khi bị kết án tới 10 năm vì tội trốn thuế).

Ngay cả khi Lewis đã phải ngồi tù vì tội tống tiền từ vụ Tylenol, vẫn còn có những lời cáo buộc khác được đưa ra. Chẳng hạn như Viện Công tố hạt Middles (bang Massachusets) đã khẳng định rằng, "nhà văn kiêm họa sĩ" trên vào năm 2004 đã bị bắt một lần nữa vì tội nghi ngờ cưỡng hiếp, bắt cóc cùng một số tội danh khác. Lewis lại tiếp tục ngồi "bóc lịch" cho đến năm 2007, sau khi các cáo buộc bị dỡ bỏ do nạn nhân (một phụ nữ hàng xóm của Lewis) đã từ chối đưa ra lời khai.

Được biết là tại khu ngoại ô Boston, Lewis cùng cô vợ của mình (LeAnn Lewis) còn tham gia vào việc thành lập một vài công ty về Internet. Một trong số này là Cyberlewis chuyên kinh doanh thiết kế trang web, đăng ký địa chỉ ở đúng nơi cảnh sát vừa lục soát hôm 4/2 vừa qua. Đáng chú ý là trên trang web của công ty này - www.cyberlewis.com - có một mục mang tiêu đề "Tylenol", trong có ghi lại những tâm sự nghe rất khó hiểu của hắn về vụ án Tylenol.

Những công nghệ mới sẽ giúp phá án

Trong suốt quá trình điều tra vụ Tylenol, tính ra đã có hơn 100 điều tra viên trực tiếp tham gia. Tất cả đã nghiên cứu hơn 6.500 giả thuyết khác nhau liên quan tới hơn 400 nghi phạm, thu thập khoảng 20.000 trang báo cáo điều tra. Dù đã tập trung rất nhiều nỗ lực, nhưng nhóm điều tra viên đã không thể phá án, thậm chí chút nữa đã bị giải thể để đóng lại hoàn toàn vụ án. Nhưng giờ đây, các nhà chức trách quyết định "tăng tốc" với hy vọng có được sự giúp đỡ của những công nghệ mới. "Nếu như chú ý tới nhiều thành tựu mới gần đây về các công nghệ hình pháp học, việc nghiên cứu lại các tài liệu đã có là chuyện hoàn toàn tự nhiên" - đại diện văn phòng FBI tại Chicago đã tuyên bố như vậy khi giải thích về vụ khám xét mới đây.

Sau khi lục soát nhà Lewis, các nhân viên đã thu giữ một vài hộp carton, một cuộn giấy màu nâu lớn và một chiếc máy tính Macintosh. Ngoài ra, các nhà chức trách còn cho lục soát nhà kho của Lewis tại Cambridge (Boston). FBI cho biết, họ hiện chưa chính thức thông báo về bất cứ trát bắt giữ hay cáo buộc nào, tuy nhiên để có được giấy phép khám xét, họ đã trình lên tòa được một số bằng chứng về khả năng có tội của Lewis. "Vì gia đình của các nạn nhân, chúng tôi cần phải sử dụng công nghệ hiện đại và phương pháp điều tra mới đối với những vụ sát nhân chưa được khám phá. Chúng tôi hy vọng sẽ giải quyết được hoàn toàn vụ án này" - Tom Simon, quan chức đại diện FBI đã tuyên bố như vậy.

FBI còn cho biết, họ quyết định phục hồi việc điều tra còn do sự quan tâm ngày càng tăng của công chúng nhân dịp kỷ niệm 25 năm thảm kịch này. Bản thân Lewis hồi năm 2007 (không lâu sau khi vừa ra tù) đã được mời tham dự một chương trình truyền hình địa phương có tên "The Cambridge Rag", trong đó hắn một lần nữa lại khẳng định sự vô tội của mình trong vụ Tylenol, cũng như vụ Raymond West. Tuy nhiên khi người dẫn chương trình Roger Nicholson "gợi ý" nên "rửa oan" bằng cách thử nghiệm qua máy phát hiện nói dối, Lewis đã thẳng thừng từ chối và gọi đây là "trò phản khoa học".

Công luận Mỹ đang hy vọng, FBI nhờ việc sử dụng những phương pháp và công nghệ mới có thể giúp làm rõ liệu Lewis có phải là thủ phạm đầu độc Tylenol, kẻ mà trước đó chính ông ta đã từng nguyền rủa là "tên sát nhân máu lạnh và con quái vật độc ác.
 

hoahongden12

Active Member

Vụ bắt cóc và sát hại bé Maria 7 tuổi phải sau 55 năm cảnh sát mới xác định được nghi phạm.

Maria Ridulph sinh ngày 12/3/1950 tại một gia đình ở Sycamore, IIIinois. Chiều tối 3/9/1957, cô bé cùng bạn hàng xóm Kathy Sigman (8 tuổi) ra khu vực gần nhà chơi.

Theo lời kể của Kathy, một người đàn ông tự giới thiệu là “Johny, 24 tuổi, đang độc thân” bước tới làm quen và rủ hai cô bé chơi trò chơi. Sau khi Kathy chạy về nhà lấy găng tay và quay lại thì Johny và Maria đã biến mất.

Kathy chạy sang nhà ông bà Ridulph để báo tin. Sau khi không thể tìm thấy cô bé, gia đình đã báo cảnh sát. Trong vòng một tiếng sau đó, cảnh sát và cư dân đã cùng nhau tìm kiếm quanh khu vực nhưng không thấy. Gia đình Maria Ridulph sau đó liên tục tìm kiếm qua các phương tiện truyền thông nhưng vô ích

Chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo

CNN đưa tin, cảnh sát phỏng đoán “Johny” tiếp cận hai cô bé vào khoảng sau 6h30 và cô bé mất tích từ 18h45 đến 19h. Kathy là nhân chứng duy nhất nhìn thấy “Johny”.

Theo mô tả của cô bé, “Johny” khoảng 20 tuổi, cằm mỏng, tóc sáng màu, hàm răng có kẽ hở và mặc áo len nhiều màu. Tuy nhiên số lượng kẻ tình nghi ban đầu quá nhiều nên cảnh sát phải "sơ loại qua nhiều vòng".

John Tessier (18 tuổi) là một trong những người nằm trong danh sách tình nghi ban đầu. Ngày 9/9, sáu ngày sau khi Maria mất tích, cảnh sát triệu tập John Tessier.

John Tessier và ba mẹ đã khai báo với cảnh sát vào tối Maria mất tích, John Tessier đang ở Rockford, IIIinois, cách Sycamore khoảng 40 dặm (60km) để đăng ký gia nhập lực lượng không quân. Anh ta đã ở Chicago cả ngày hôm đó để làm bài kiểm tra sức khỏe. Buổi sáng, John Tessier đến trung tâm đăng ký quân đội tại Chicago và dành một ngày tham quan, đến tối bắt tàu về Rockford và có mặt lúc 18h45.

Khi đến Rockford, hắn gọi điện thoại về nhà nhờ bố đến đón. Lịch sử liên lạc ghi nhận một cuộc gọi từ bưu điện Rockford đến nhà Tessier vào lúc 18h57. Sau khi gọi điện, John Tessier gặp các nhân viên trong trung tâm đăng ký quân đội ở Rockford để hoàn thành giấy tờ. Một nhân viên làm việc tại trung tâm đăng ký cũng xác nhận đã nói chuyện với John Tessier vào khoảng 19h15.

John Tessier cũng được yêu cầu làm bài kiểm tra nói dối và đã vượt qua. Dựa vào kết quả thẩm vấn và kết quả bài kiểm tra nói dối, cảnh sát loại John Tessier khỏi danh sách tình nghi ban đầu với ghi chú: “Đối tượng không cần điều tra thêm”.

Do danh sách tình nghi sau đó đã loại bớt John Tessier nên ảnh của hắn không được đưa cho Kathy để nhận diện. Tuy nhiên khi được xem một loạt ảnh của những người tình nghi khác, Kathy vẫn chọn ra một số người, trong đó có Joseph Rivard – người đàn ông 35 tuổi, tóc xoăn tối màu – khác với mô tả ban đầu của cô bé. Cuộc điều tra sau đó cho thấy người này cũng có bằng chứng ngoại phạm. Vụ án đi vào bế tắc. Ngày 27/9/1957, FBI rút toàn bộ 60 nhân viên khỏi Sycamore.

Ngày 26/4/1958, 6 tháng sau ngày mất tích, tại Woodbine, IIIinois, cách Sycamore hơn 100 dặm, hai du khách khi đang tìm nấm trong khu vực rừng gần đường quốc lộ 20 đã tìm thấy thi thể dưới gốc cây, được xác định là của Maria.

Theo tình trạng phân hủy của xác, cảnh sát xác định cô bé đã chết vài tháng trước đó. Khám nghiệm tử thi ban đầu không tìm ra nguyên nhân cái chết cũng như thông tin liên quan đến thủ phạm.

Bước ngoặt của việc điều tra

Ngày 11/9/2008 (51 năm sau xảy ra vụ án), cảnh sát bang IIIinois bất ngờ nhận được bức thư điện tử của Janet Tessier – em gái John Tessier, một phần nội dung như sau: “Sycamore, Illinois.

Tháng 12 năm 1957. Một đứa trẻ 7 tuổi tên là Maria Ridulph biến mất. Hài cốt của cô bé được tìm thấy ở quận khác cách cả trăm dặm vào đầu mùa xuân của năm 1958. Tôi tin rằng John Samuel Tessier từ Sycamore, IL... là người chịu trách nhiệm về cái chết của cô bé. Tôi đã cung cấp thông tin này đến người chịu trách nhiệm vụ án này ở Sycamore vài lần. Nhưng không có bất cứ ai đứng ra giải quyết. Đây sẽ là lần cuối cùng tôi đề cập đến chuyện này. Tôi sẽ không lặp lại một lần nào nữa vì nó gợi lên những ký ức kinh khủng”.

Theo lời kể của Janet Tessier, người mẹ khi đang hấp hối trước khi mất vào tháng 1/1994 đã nói cô rằng: “Hai đứa trẻ nhỏ và đứa bé mất tích, John đã làm chuyện đó. Con phải báo điều này với ai đó”.

Janet Tessier cũng tố cáo anh trai từng hăm dọa mình bằng súng cũng như có hành vi lạm dụng tình dục. Vì vậy, John Tessier đã tách biệt gia đình từ rất lâu. Không lâu sau đó, cảnh sát bang IIIinois mở lại vụ án.

Cảnh sát rà soát lại thời điểm diễn ra vụ bắt cóc. Họ xác định lại vụ án có thể đã xảy ra lúc 18h20 chứ không phải trong khoảng 18h45 đến 19h như phỏng đoán ban đầu. Họ tìm được nhân chứng Katherine - một trong những người hàng xóm cùng đi tìm cô bé vào tối hôm đó. Katherine khai rằng cô bắt đầu tìm Maria sau khi vừa dự một bữa tiệc kết thúc lúc 7h.

Cảnh sát khi lập lại thời gian biểu đã nhận ra thời điểm bị bắt cóc lúc 18h20 là hoàn toàn có cơ sở và bằng chứng ngoại phạm của John có thể là vô nghĩa. Hắn có khả năng ở Sycamore lúc 18h20 và có mặt tại Rockford vào lúc 18h45 như lời khai.

Thêm vào đó, cảnh sát thẩm vấn một người bạn gái cũ của hắn và bất ngờ được cung cấp một vé tàu chưa sử dụng từ Rockford đi Chicago vào ngày cô bé mất tích. Điều đó có nghĩa John Tessier có thể đã không đi đến Chicago bằng tàu như lời khai mà đến Chicago bằng ôtô của hắn. Khi đó chiều 3/9 hắn hoàn toàn có thể đi từ Chicago về Sycamore, bắt cóc bé Maria và sau đó đến Rockford như lời khai.

Cảnh sát cũng tìm ra một nhân chứng là bạn cấp 3 của John Tessier, anh ta khẳng định vào chiều hôm đó John Tessier không cho bất cứ ai mượn ôtô của mình.

Một nhân chứng quan trọng nữa của vụ án là Pam Smith - cô bé cùng khu phố. Cô kể lại rằng năm 8 tuổi từng có lần bị John Tessier dụ đi xa với cùng cách thức như vậy nhưng rất may bố cô bé đã phát hiện ra và chặn lại sớm khi John chỉ vừa kịp đưa đi qua vài dãy nhà.

Khi khai quật lại thi thể của Maria nhằm tìm thêm chứng cứ ADN, cảnh sát đã không thể tìm thấy bất cứ thứ gì. Với sự phát triển của công nghệ giám định, họ chỉ có thể kết luận cô bé đã chết do 3 nhát dao vào vùng họng hoặc bị siết cổ bằng chiếc xích kim loại.

Tháng 7/2011, John Tessier lúc này 72 tuổi bị Sở cảnh sát Seattle triệu tập để thẩm vấn. Ban đầu khá hợp tác và bình tĩnh trả lời, nhưng càng về sau khi phải đối mặt với những câu hỏi về vụ giết Maria Ridulph, ông ta trở nên lẩn tránh và hung hăng. Ngay sau khi John Tessier từ chối trả lời những câu hỏi liên quan đến vụ án, cảnh sát Seattle đã bắt, dẫn độ về IIIinois.

Tháng 9/2012, John Tessier bị buộc tội Bắt cóc, Giết người và bị kết án tù chung thân. Do người này kháng cáo, tháng 4/2016, tòa án đã thu hồi phán quyết, và yêu cầu điều tra thêm về tội Giết người không đủ bằng chứng buộc tội.
 

hoahongden12

Active Member

Mấy hôm nay dư luận Trung Quốc xôn xao bởi tin Lưu Vĩnh Bưu – một cây bút khá nổi tiếng, hội viên Hội Nhà văn Trung Quốc bị bắt vì liên quan đến vụ án giết người cướp của tàn bạo 22 năm trước.

Cục Công an Hồ Châu, tỉnh Chiết Giang xác nhận thông tin: Lưu Vĩnh Bưu bị bắt và đã thú nhận phạm tội giết người cướp của. Lưu Vĩnh Bưu năm nay 53 tuổi, quê huyện Nam Lăng, tỉnh An Huy, bị bắt tại nhà riêng hôm 11/8. Khi bị bắt, Bưu không phản kháng mà chỉ nói: “Tôi đã đợi các ông mãi đến hôm nay”.

Vụ án rùng rợn

Chức Lý là một thị trấn 300 ngàn dân kinh tế rất phát đạt ở Hồ Châu nằm kề bên Thái Hồ. Tại đây có một tòa nhà 3 tầng nằm ngay ven đường trục chính, hiện là một cửa hàng bán xe đạp điện, 22 năm trước đây là hiện trường của vụ án mạng rùng rợn với 4 người bị giết bằng cách đập vỡ đầu. Khi đó, tòa nhà này mang tên “Khách sạn Mẫn Ký” của ông chủ họ Mẫn. Thảm kịch xảy ra vào đêm 29/11/1995, 4 người bị giết hại trong khách sạn gồm vợ chồng ông chủ Mẫn, một người cháu và một khách trọ họ Vu. Ông Mẫn và ông Vu chết ở phòng 203, còn bà Tiền vợ ông và đứa cháu nhỏ chết ở phòng 202.

Sau khi vụ án xảy ra, cục Công an thành phố Hồ Châu đã tổ chức lực lượng điều tra phá án. Theo lời kể của nhân viên khách sạn trước khi xảy ra án mạng có 2 người khách nói giọng An Huy vào trọ. Cảnh sát đã điều tra theo hướng này nhưng do khách sạn ghi chép không đầy đủ, điều kiện kỹ thuật hạn chế nên suốt 22 năm qua vụ án vẫn dừng chân tại chỗ. Khó khăn lớn nhất là nghi phạm và nạn nhân không có mối liên hệ quen biết nào nên không có manh mối gì. Tuy nhiên, đến đầu tháng 8/2017, sau 22 năm trời kiên trì mò mẫm điều tra, công tác trinh sát vụ án đã có bước đột phá. Qua kỹ thuật giám định gen, so sánh vật chứng và tiếp cận điều tra, cảnh sát đã xác định hung thủ vụ giết người 22 năm trước chính là Lưu Vĩnh Bưu một nhà văn nổi tiếng ở An Huy.

Sáng sớm 11/8, khi tổ chuyên án ập vào nhà Bưu ở thị trấn Qua Giang, huyện Nam Lăng, y không phản kháng gì, chỉ cúi đầu nói: “Tôi đã đợi các ông mãi đến hôm nay”. Khi bị dẫn đi, y đưa cho vợ một bức thư viết sẵn. Nội dung đại khái: “Hơn 20 năm nay, anh vẫn đợi ngày này. Cuối cùng anh cũng thoát ra khỏi sự giày vò về tinh thần bấy nay”. Nhân viên tổ chuyên án Trần Hồng Duyệt nói: “Trước khi bắt, chúng tôi tiến hành rà soát trong thôn, chắc Bưu dự cảm được nên đã viết sẵn thư để lại cho vợ”.

Qua điều tra và thú nhận của Bưu thì vụ thảm sát 4 người 22 năm trước được thực hiện bởi Bưu và Uông Minh, một người cùng làng. Hai nghi phạm khi đó đều rất nghèo, một người làm thuê ở Hồ Châu 2 năm, biết ông chủ cửa hàng quần áo ở đó có nhiều tiền nên Bưu và Minh bàn nhau đi cướp. Hai người thuê chung phòng trọ với một người khách họ Vu quê Sơn Đông; khi phát hiện thấy ông này có nhiều tiền, Minh đã giữ cho Bưu dùng cục sắt đập chết để cướp. Sợ bị lộ, chúng dụ ông chủ Mẫn lên phòng để sát hại và “tiện tay” giết luôn vợ ông cùng đứa cháu cũng bằng cách đập vào đầu, sau đó cướp lấy tài sản rồi bỏ trốn. Uông Minh nhiều hơn Bưu 11 tuổi, cũng đã bị bắt tại Thượng Hải cùng ngày 11/8. Hiện Minh đang là đại diện pháp nhân và người quản lý một xí nghiệp do người anh trai bỏ vốn đầu tư. Lưu Vĩnh Bưu thì “phát đạt” hơn Uông Minh nhiều, y là hội viên nhà văn toàn quốc, có nhiều tác phẩm, từng được giải thưởng, khi bị bắt y đang mở một lớp dạy viết văn.

Chân dung kẻ sát nhân

Lưu Vĩnh Bưu thích viết văn từ khi học xong phổ thông cơ sở (Sơ trung). Theo một chương trình giới thiệu về Bưu trên Đài truyền hình Nam Lăng năm 2015 thì y bắt đầu tập viết văn từ khi đang học Sơ trung, Sau khi thi trượt vào PTTH (Cao trung), Bưu chính thức bước vào nghiệp viết văn. Y mua máy ảnh để chụp kiếm tiền và bắt đầu sáng tác thơ ca, tiểu thuyết. Năm 1985, Bưu đã có tác phẩm đầu tiên đăng trên tạp chí “Nhà văn tương lai” của Hội nhà văn Hợp Phì; năm 1994 y có truyện ngắn “Nhớ mãi thời thanh xuân” đăng trên tạp chí văn học nổi tiếng “Thanh Minh” và trở thành người Nam Lăng đầu tiên có tác phẩm đăng trên tạp chí danh tiếng này. Sau đó, Bưu tự bỏ tiền đi học và đã tốt nghiệp lớp sáng tác tại Học viện văn học Lỗ Tấn. Năm 2005, tập truyện ngắn “Một bộ phim” của Bưu được Nhà xuất bản Tác gia ấn hành. Cuốn sách này đã đem về cho Bưu Giải Ba “Văn học nghệ thuật xã hội” tỉnh An Huy năm 2005-2006 – giải thưởng văn học danh giá nhất tỉnh An Huy, y trở thành nhà văn nông dân đầu tiên của tỉnh được nhận giải thưởng.

Tháng 3/2010, Hội văn nghệ Vu Hồ và Hội nhà văn Nam Lăng đã phối hợp tổ chức hội thảo về tác phẩm của Lưu Vĩnh Bưu, đánh giá rất cao chất lượng và giá trị của tác phẩm này. Sau đó, Bưu lần lượt cho xuất bản tập tản văn “Vũ điệu tâm hồn”, kịch bản điện ảnh “Cửa và cửa sổ” và tiểu thuyết trường thiên “Điều khó nói” dày hơn 500 trang. Ngoài tên Lưu Vĩnh Bưu, y còn sử dụng các bút danh Lưu Lãng, Bưu Tử, Nhất Sa…để đăng bài trên các báo, tạp chí.

Tháng 7/2013, Lưu Vĩnh Bưu có tên trong số 13 nhà văn được kết nạp vào Hội Nhà văn Trung Quốc năm đó. Với việc trở thành hội viên nhà văn, địa vị và danh tiếng của Bưu đã được công nhận trong giới văn học cả nước, y trở nên nổi tiếng ở An Huy, được giới truyền thông hết lời tâng bốc như một nhà văn nông dân tài ba sánh với Mạc Ngôn. Tháng 11/2014, Bưu cho in cuốn tiểu thuyết hơn 500 trang “Hành giả Võ Tòng”, một năm sau, nó được cải biên thành kịch bản bộ phim truyền hình 50 tập cùng tên.
 

hoahongden12

Active Member

Lần đầu giết người năm 24 tuổi, kẻ sát nhân Trung Quốc có vỏ bọc bình thường chỉ ngưng tay sau khi bị thương lúc gây án.

Tháng 5/1988, Cao Thừa Dũng, 24 tuổi, đạp xe tới Thanh Thành, một thị trấn cổ ở tỉnh Cam Túc cách thành phố Bạch Ngân khoảng 30 km, với ý định trộm cắp. Tới gần nhà một nữ công nhân nhà máy xi măng, y nghe thấy tiếng loa từ máy thu thanh phát ra rất to, bèn nảy ý định đột nhập, theo Zhihui.

Khi vào trong, Cao Thừa Dũng nhìn thấy nữ công nhân họ Bạch đang ngủ trên giường và ra tay giết hại khi bị phát hiện. Gây án xong, y đặt xác nạn nhân lên giường, thấy trên đùi có vết máu, y định chặt chân nạn nhân nhưng do lần đầu giết người, tâm lý căng thẳng, y không làm nổi.

Cô Bạch rất xinh đẹp, y lấy hết ảnh của nạn nhân đem về nhà giấu trong phòng, xem tới tận nửa đêm rồi châm lửa đốt. Khi đó, vợ của Cao Thừa Dũng đang mang bầu.

6 năm sau, vào năm 1994, Cao Thừa Dũng gây án lần hai. Y ra tay với cô Thạch, một nữ nhân viên căng tin của sở điện lực thành phố Bạch Ngân. Nạn nhân mới 19 tuổi, bị cắt cổ khi ở một mình trong ký túc xá, trên người có 36 vết dao. Khi đó, Cao Thừa Dũng lẻn vào tầng hai nhà trọ với ý định trộm cắp, nhưng không tìm thấy vật đáng giá, bèn lên tầng 4. Cô Thạch vừa quét dọn phòng, gặp mặt Cao khi đi đổ rác về. Cô chỉ vào vết giày trên mặt đất, hỏi có phải hắn định ăn trộm không? Không chối được, Cao Thừa Dũng giết luôn nạn nhân.

Bắt đầu từ năm 1998, Cao Thừa Dũng giết người nhiều hơn. Chỉ trong một năm, hắn liên tục gây ra 4 vụ án. Tháng 1/1998, hắn giết hai người. Sau đó hắn quay về quê ở huyện Du Trung, cách thành phố Bạch Ngân khoảng 120 km.

Cũng trong năm 1998 tại ký túc xá của sở điện lực, Cao Thừa Dũng giết hại và cưỡng hiếp một bé gái 8 tuổi. Sau khi gây án, hắn còn điềm nhiên pha trà ngồi uống. Khi bị thẩm vấn, Cao Thừa Dũng khai rằng thời điểm gây án vào 14h, đúng lúc mọi người đi làm, phải 17h mới tan ca, nên y không sợ bị phát hiện. Khi đó, con lớn của Cao Thừa Dũng đã 10 tuổi.

Tháng 11/1998, cô Thôi, một nữ công nhân nhà máy hóa chất ở Bạch Ngân bị sát hại, nhiều bộ phận cơ thể bị mất. Cao Thừa Dũng khai y làm tất cả chỉ trong 5 phút. Thủ pháp của Cao Thừa Dũng khéo tới nỗi cảnh sát cho rằng nghi phạm phải là bác sĩ phẫu thuật, hoặc đồ tể. Cảnh sát lục tìm hơn 200 thùng rác gần đó nhưng không phát hiện được bộ phận nào của cô Thôi. Cao Thừa Dũng khai mỗi lần gây án, y đem bộ phận cơ thể của nạn nhân để vào túi nilon và vứt xuống sông trên đường về nhà.

Cao Thừa Dũng thừa nhận trước mỗi lần giết người, tâm trạng hắn đều hoảng hốt, bất an, cảm thấy cần phải ra tay sát hại ai đó. Hắn sẽ ra đường từ sáng sớm, đi lung tung. Khi thấy người phù hợp, y bèn theo đuôi. Nếu thấy vừa mắt, y sẽ cưỡng hiếp, còn không, y ra tay sát hại. Đa số nạn nhân đều bị y sát hại. Cao Thừa Dũng cho biết y lấy đi cơ quan nội tạng nạn nhân để báo thù vì bị nạn nhân phản kháng. Mỗi lần gây án, y sẽ không ngủ cả đêm. Sáng sớm thức dậy, y đi mua dao và luôn mặc đồ sẫm màu để nếu có bị dính máu, sẽ không khiến người khác chú ý.

Sau khi gây án, y quay về nhà, tiếp tục cuộc sống bình thường. Sau hàng loạt vụ án năm 1998, người dân thành phố Bạch Ngân luôn sống trong tâm trạng sợ hãi. Theo mô tả của cảnh sát, y chuyên nhắm mục tiêu vào những phụ nữ tóc dài, mặc đồ đỏ, đi giày cao gót. Trong thời gian đó, Cao Thừa Dũng luôn im lặng khi có người nhắc tới vụ án. Năm 2000, 2001, 2002, y tiếp tục gây án.

Sau năm 2002, Cao Thừa Dũng ngừng tay vì sức khỏe kém. Y bị thương vì hai nạn nhân cuối cùng phản kháng kịch liệt. Ngoài ra, trong thời gian này, hai người con của Cao Thừa Dũng cần tiền để học đại học. Từ năm 2002 tới 2013, y ở Lan Châu và Nội Mông Cổ để làm thuê. Năm 2002, khi thành phố Bạch Ngân bắt đầu lưu hồ sơ dấu vân tay của người dân, y trốn sang nơi khác.

Ngày 26/ 8/2016, cảnh sát thành phố Bạch Ngân mở đợt truy quét hàng lậu trong một tiệm tạp hóa gần đại học Công nghiệp, nơi Cao Thừa Dũng đang làm việc. Sau khi thẩm vấn và thu thập được dấu vân tay, ADN, họ nghi ngờ y có liên quan tới hàng loạt vụ án cưỡng hiếp, giết người từ năm 1998 đến 2002.

Khi bị bắt, Cao Thừa Dũng từng cố tự sát. Y đập đầu lên chiếc đinh lồi ra trên ghế thẩm vấn, phải khâu ba mũi. Sau đó, hắn thừa nhận đã giết người, khai mọi tình tiết.

Khi khám nhà Cao Thừa Dũng, cảnh sát phát hiện hắn tàng trữ nhiều phim cấp ba từ những năm 80. Gia đình hắn còn có 4 người nữa. Khi biết tin Cao Thừa Dũng bị bắt, người trong làng rất ngạc nhiên. Trong làng có rất nhiều người giống Cao, đi làm công trình xa, thỉnh thoảng mới quay về. Trương Thanh Phượng, vợ của Cao Thừa Dũng, không thể tưởng tượng nổi người chồng 30 năm nay là kẻ giết người hàng loạt.

Tháng 4/2017, tòa án Bạch Ngân truy tố Cao Thừa Dũng tội giết người, cưỡng hiếp. Tháng 7 cùng năm, phiên tòa xét xử y bắt đầu. Ngày 30/3/2018, tòa án Bạch Ngân kết án tử hình Cao Bạch Dũng, yêu cầu bồi thường vật chất cho các nạn nhân. Cao Thừa Dũng nhận tội, không kháng án.

Quá trình gây án và phân tích tâm lý của Cao Thừa Dũng được Vương Tường, một cảnh sát hình sự thành phố Bạch Ngân, kể lại với báo Beijing Youth Daily.

“Thái độ lạnh lùng, bình tĩnh của hắn khi trần thuật từng chi tiết các vụ án khiến người khác phát sợ”, Vương Tường nhận xét. “Sau khi bị bắt, y lập tức nói rõ ràng số nạn nhân ở đâu, bao nhiêu tuổi, tại sao lại giết. Trong trại giam, y vẫn ăn ngủ bình thường, thậm chí còn bắt chuyện với quản giáo, khen người này phong độ”.
 

hoahongden12

Active Member

Tại công viên McKenny, Washington, người ta bất ngờ phát hiện xác một thiếu nữ 15 tuổi, người vừa mất tích trước đó 10 ngày. Cô gái bị hiếp, bị hành hạ cho đến chết. Cô là nạn nhân đầu tiên của Ted Bundy - kẻ sau đó nổi danh trong lịch sử các vụ án hình sự, thủ phạm của hàng loạt vụ giết người trên toàn nước Mỹ trong những năm 1973-1978.

Nạn nhân đầu tiên chính là cô Kathy Devine biến mất ngày 25/11/1973, khi đang đón xe đi Oregon. Theo giám định pháp y, cô bị sát hại sau khi rời nhà không lâu. Hung thủ đã bóp cổ, hãm hiếp và cắt cổ cô gái. Cảnh sát hầu như không tìm thấy dấu vết nào lưu lại tại hiện trường.

Một tháng sau, đến lượt cô gái xinh đẹp Joni Lenz bị giết bằng cách tương tự. Chiều 4/1/1974, những người bạn của Lenz phát hiện cô nằm hôn mê trên giường, máu vẫn đang chảy ra từ đầu và mặt. Cô được đưa tới bệnh viện với vết thương nặng trên đầu.

Ngày 31/1/1974, Lynda Ann Healy không đến dự bữa ăn tối với gia đình. Mọi người bắt đầu thấy lo lắng. Cô sinh viên xinh đẹp này sống cùng vài bạn bè trong một căn hộ. Cảnh sát kiểm tra rất kỹ phòng ở của cô và phát hiện ra một điều khá lạ lùng: Trên chiếc gối đã mất lần vỏ ngoài có nhiều vết máu. Hai người bạn của cô khẳng định, chiếc giường được dọn dẹp cẩn thận, hoàn toàn trái ngược với tính cách của Healy. Trong ngăn tủ riêng, cảnh sát tìm thấy chiếc áo ngủ cô thường mặc dính đầy máu ở cổ. Ngoài ra, phòng còn mất một số đồ đạc khác như tấm khăn trải giường, ba lô và vài bộ quần áo.

Phải chăng kẻ nào đó đã lẻn vào nhà, đánh Lynda bất tỉnh, dọn giường cẩn thận, rồi đem nạn nhân đi sau khi đã thay quần áo cho cô? Cảnh sát không tin lắm vào giả thuyết điên rồ đó. Họ không tiến hành các biện pháp khám nghiệm pháp y tại phòng của Lynda vì tin rằng sẽ tìm thấy cô. Thực tế lại không diễn ra như vậy và quá trình điều tra trở nên bế tắc.

Trong suốt mùa xuân và mùa hè năm đó, tại các bang Utah, Oregon và Washington, thêm 7 nữ sinh khác biến mất, không để lại dấu vết nào. Các vụ mất tích có nhiều tình tiết giống nhau, như nạn nhân đều là người da trắng, độc thân, xinh xắn, dáng người thon thả, tóc dài chải ngôi giữa, và đều mặc áo ngủ, biến mất vào buổi tối. Nhân chứng cho hay, nơi mà các cô gái xuất hiện lần cuối luôn có mặt một người đàn ông lạ, bị bó bột ở tay hoặc chân. Anh ta tìm cách tiếp cận và hỏi han họ về những cuốn sách, hoặc nhờ họ giúp khởi động chiếc xe VW của mình

Tiếp đó, tháng 8/1974, cảnh sát tìm thấy xác một số cô gái mất tích tại hồ Sammamish, trong công viên quốc gia bang Washington. Hai người trong số họ được nhận diện là Janice Ott và Denise Naslund. Đó là một cố gắng lớn của pháp y vì những gì còn lại chỉ là vài mẩu tóc, những mảnh xương đùi, xương sọ và một phần xương hàm.

Những người lần cuối nhìn thấy Ott cho biết, lúc ấy có một người đàn ông trẻ tuổi khá điển trai, tay bị bó bột, tiến tới phía cô. Anh ta giới thiệu tên mình là Ted, và nhờ Ott giúp đưa chiếc thuyền của mình lên nóc ôtô.

Còn Denis Naslund mất tích vào một buổi chiều, khi cô đi chơi cùng bạn trai và một số người khác. Cô vào nhà vệ sinh trong công viên và không bao giờ quay lại. Buổi chiều hôm đó, ở đây xuất hiện một người đàn ông bị bó bột ở tay. Anh ta cũng nhờ cô giúp chuyển chiếc thuyền lên nóc xe. Cô gái tốt bụng Denis đã nhận lời giúp đỡ con người có vẻ ngoài dễ thương này.

Louis Smith, cảnh sát trưởng hạt Midvale, bang Utah, có cô con gái 17 tuổi, Melissa, rất xinh xắn. Với kinh nghiệm làm cảnh sát của mình và tình yêu của người cha, ông thường cảnh báo cô về sự nguy hiểm của thế giới bên ngoài. Song tất cả đều trở nên vô ích. Ngày 18/10/1974, Melissa mất tích. Xác cô được tìm thấy 9 ngày sau đó, và giống như các nạn nhân khác, cô bị bóp cổ, hãm hiếp...

13 ngày sau, vào lễ Halloween, Laura Aime, 17 tuổi, biến mất. Người ta tìm thấy thi thể cô vào ngày Lễ tạ ơn, bên bờ một con sông nhỏ, tại vùng núi Wasatch. Kẻ giết người đã lấy xà beng, loại chuyên dùng để bật nắp các thùng hàng bằng gỗ, đánh vào đầu và mặt Aime. Sau đó, hắn hãm hiếp và giết chết cô. Điều tra pháp y cho thấy, cô bị giết ở một nơi khác trước khi bị vứt ra bờ sông. Ngoài xác của nạn nhân, cảnh sát không tìm được chứng cứ nào khác.

Những vụ giết người có tình tiết giống nhau thu hút sự chú ý của cảnh sát bang Utah, họ quyết định phối hợp với các thám tử của bang Oregon và Washington. Giả thuyết đặt ra là chỉ có một thủ phạm duy nhất. Căn cứ vào nguồn tin của các nhân chứng, họ dựng lên được chân dung của tên giết người với tên gọi là "Ted".

Tối 8/11/1974, tại một quầy bán sách ở Utah, một người đàn ông lạ mặt khá đẹp trai tiến tới gần Carol DaRonch, nữ sinh 18 tuổi. Anh ta tự xưng là sĩ quan cảnh sát Roseland và thông báo có kẻ tìm cách ăn trộm chiếc xe VW của cô, rồi yêu cầu Carol ra bãi đỗ xe.

Carol kiểm tra và thấy mọi thứ vẫn ở nguyên chỗ cũ. Người đàn ông tỏ ra không hài lòng với câu trả lời của cô về tình trạng chiếc xe, và muốn cô tới đồn cảnh sát. Carol nghi ngờ, yêu cầu anh ta cho xem thẻ cảnh sát. Người đàn ông giơ thẻ ra rồi vụt cất đi và yêu cầu Carol lên xe.

Anh ta lái xe khá nhanh, nhưng lại ngược với hướng đường tới đồn cảnh sát. Carol cảm thấy sợ. Người đàn ông đột ngột dừng xe, chộp lấy tay cô và khóa lại bằng chiếc còng số 8. Cô gái gào thét kêu cứu thì gã côn đồ lấy ra một khẩu súng ngắn và dọa giết nếu cô không im lặng. Hắn hất Carol ra khỏi xe, rồi dựng cô dậy, tay lăm lăm chiếc xà beng nhỏ dùng để bậy nắp thùng, chuẩn bị quật vào đầu cô. Vào thời khắc khủng khiếp nhất, cô gái đủ nhanh trí đá vào bộ hạ kẻ lạ mặt và vùng chạy thoát. Cô chạy về hướng đường cái và được một đôi vợ chồng đang đi xe qua đó đưa tới đồn cảnh sát.

Hai tay còn nguyên trong còng số 8, cô nức nở kể lại câu chuyện. Nhưng tại sở cảnh sát không có ai tên là Roseland. Cảnh sát ngay lập tức bao vây khu vực xảy ra vụ án, nhưng kẻ giả mạo đã “cao chạy xa bay”. Dù sao, cảnh sát cũng đã có miêu tả nhân dạng, chiếc xe ôtô và dấu máu của hung thủ khi xô xát với Carol.

Cùng tối đó, nữ sinh Jean Graham đang bận rộn chuẩn bị cho một vở kịch tại trường trung học Viewmont thì một người đàn ông trẻ tuổi đẹp trai tiến lại phía cô. Anh ta nhờ cô nhận diện một chiếc xe ôtô. Vì quá bận cô đã từ chối. Một lúc sau người đàn ông quay lại và nhờ cô giúp đỡ. Jean thấy lo ngại trước vẻ kỳ lạ của anh ta. Tuy nhiên, cô sớm quên đi cảm giác đó và tiếp tục công việc. Nhưng chỉ một lát sau, cô đã lại nhìn thấy người đàn ông sau cánh gà sân khấu. Jean tự nhủ không rõ hắn muốn gì.

Debby Kent đến xem buổi biểu diễn đêm đó cùng cha mẹ. Cô về sớm hơn dự định để đón anh trai ở khu chơi bowling. Kent nói với cha mẹ rằng sẽ nhanh chóng quay lại để đón họ, nhưng cô không bao giờ quay trở lại. Thực tế, cô đã không tới được chiếc xe của mình ngoài bãi đỗ. Tại khu vực Kent mất tích, cảnh sát chỉ tìm thấy chiếc chìa khoá dùng để mở còng số 8 đã khoá tay Carol, cùng với thông tin về một chiếc VW.

Ngày 12/1/1975, Caryn Campbell và bạn trai là Raymond Gadowski cùng 2 con của anh lên xe đi picnic tại Colorado. Caryn hy vọng sẽ có một kỳ nghỉ thú vị cùng với 2 đứa trẻ trong khi Raymond dự một cuộc hội thảo tại đó. Khi đang nói chuyện với mọi người tại phòng khách lớn khách sạn, Caryn chợt nhớ đã để quên một quyển tạp chí trên phòng và quay lại. Cô biến mất từ đó. Cảnh sát lục tìm mọi ngóc ngách của khách sạn nhưng không phát hiện dấu vết khả nghi nào. Phải một tháng sau, thi thể lõa lồ của cô mới được tìm thấy, cách khách sạn nơi cô nghỉ vài kilomet. Giống như nhiều nạn nhân khác tại Washington, Oregon và Utah, Caryn bị quật nhiều lần vào đầu. Tại hiện trường, cảnh sát không tìm thấy chứng cứ nào. Báo cáo của pháp y khẳng định, cô bị giết chỉ vài giờ sau khi mất tích.

Vài tháng sau khi tìm ra thi thể của Caryn Campbell, cảnh sát phát hiện xác của Brenda Ball. Đây là một trong bảy phụ nữ đã biến mất trong mùa hè đó. Kẻ giết người đã dùng một vật tày đập vào đầu cô.

Rồi liên tiếp, họ tìm ra xác của các nạn nhân Susan Rancourt, Lynda Ann Healy và một người khác. Tất cả đều bị đánh vào đầu bằng một vật tày, nhiều khả năng là một chiếc xà beng chuyên để bậy nắp thùng gỗ.

Vùng núi Taylor trở thành chốn quen thuộc của "Ted sát thủ". Xác của 5 người phụ nữ được tìm thấy có một kiểu chết tương tự. Và họ vẫn chưa phải là nạn nhân cuối cùng của Ted.

Ngày 16/8/1975, Bob Hayward, cảnh sát trên đường cao tốc Utah đang đi tuần tra tại khu vực ngoại vi hạt Salt Lake thì phát hiện một chiếc VW. Anh chưa bao giờ thấy chiếc xe đó nơi khu vực mình quản lý. Khi Bob bật đèn để xem xét kỹ hơn biển số thì người lái xe liền tắt đèn pha trước và tăng tốc. Ngay lập tức, Hayward đuổi theo.

Sau vài phút, anh đuổi kịp chiếc xe. Khi kiểm tra, Bob cùng đồng đội thấy ghế xe sau chiếc xe đã bị tháo bỏ, bù vào đó là chiếc xà beng bậy nắp thùng, mặt nạ trượt tuyết, dây thừng, một vài chiếc còng số 8, dây điện và một cái cào để móc đá. Tất cả vứt chỏng chơ trong xe. Người lái xe, tên Theodore Robert Bundy, lập tức bị bắt. Anh ta bị nghi ngờ ăn trộm.
 

hoahongden12

Active Member

Kẻ bị bắt trong chiếc xe VW, Theodore Robert Bundy, có tên gọi tắt là Ted Bundy. Tình tiết này lập tức dẫn cảnh sát tới nghi vấn, phải chăng hắn chính là "Ted hung thủ" mà lâu nay họ tìm kiếm. Carol DaRonch, cô gái may mắn thoát khỏi tay kẻ giết người, được mời đến nhận diện.

Kẻ bị bắt trong chiếc xe VW, Theodore Robert Bundy, có tên gọi tắt là Ted Bundy. Tình tiết này lập tức dẫn cảnh sát tới nghi vấn, phải chăng hắn chính là "Ted hung thủ" mà lâu nay họ tìm kiếm. Carol DaRonch, cô gái may mắn thoát khỏi tay kẻ giết người, được mời đến nhận diện.

Ngày 2/10/1975, Carol DaRonch cùng với Jean Graham và một người bạn của Debby Kent được gọi tới để nhận diện 7 người bị tình nghi, trong đó có Ted Bundy. Ngay lập tức, Carol nhận ra Ted. Hai người còn lại cũng khẳng định chính Ted là kẻ đã lảng vảng tại nơi bạn họ mất tích.

Thông tin trên cho phép cảnh sát nhận định rằng, những gì mà họ nghi ngờ có thể là sự thật.

Ngày 16/9/1975, bạn gái của Ted Bundy - Meg, được gọi tới Đội Điều tra tội phạm của hạt King, bang Washington. Rất căng thẳng và lo sợ, song Meg vẫn cung cấp cho cảnh sát nhiều tin tức quý giá. Cô cho biết, Ted có thói quen ngủ ban ngày và ra khỏi nhà vào ban đêm. Vào những đêm xảy ra các vụ giết người, cô không rõ Ted đi đâu và không liên lạc được với hắn. Cô cho biết, từ khoảng một năm trở lại đây, nhu cầu tình dục của Ted đột ngột suy giảm. Mỗi khi có nhu cầu, hắn thường trói cô lại trước khi quan hệ. Hắn rất bực tức nếu cô không chịu thực hiện những ham muốn kỳ quái của mình.

Những buổi thẩm vấn sau đó, Meg cho các điều tra viên biết, Ted có để thạch cao, thứ dùng để bó bột, trong phòng của mình ở Paris. Cô cũng nhìn thấy gã bạn tình để một chiếc rìu nhỏ trong xe hơi. Cũng nhờ Meg, cảnh sát xác định được rằng, Ted đã tới công viên Sammamish vào thời điểm hai cô gái Janice Ott và Denise Naslund biến mất ở đây.

Quá trình điều tra sau đó đã giúp cảnh sát có thêm những bằng chứng cần thiết để đưa Ted ra tòa vào ngày 23/2/1976, về hành vi bắt cóc Carol DaRonch.

Việc xét xử được tiến hành trong khi cảnh sát tiếp tục tìm thêm thông tin liên quan tới cái chết của Caryn Campbell và Melissa Smith. Họ phát hiện những mẫu tóc của hai nạn nhân trong xe của Ted. Kích thước của chiếc xà beng tìm thấy trong chiếc VW cũng tương ứng với vết thương trên đầu Caryn Campbell. Với những chứng cứ đó, bang Colorado mở thêm một phiên tòa ngày 22/10/1976, xét xử Ted về tội danh giết Campbell.

Tuy nhiên, động cơ giết người của tên sát thủ vẫn còn là điều bí ẩn. Và các điều tra viên bắt đầu lần lại cuộc đời hắn, từ kết luận của bác sĩ tâm thần: “Ted sợ bị làm nhục trong các mối quan hệ với phụ nữ”.

Những năm thơ ấu

Sau những tháng an thai cuối cùng tại một bệnh viện ở Burlington, Vermont, ngày 24/11/1946, Eleanor Louise Cowell, 22 tuổi, chưa chồng, quê Philadelphia, bang Pennsylvania, sinh ra Theodore Robert Cowell. Ted (tên gọi tắt của Theodore) không hề biết tới cha đẻ của mình - Lloyd Marshall, một cựu chiến binh Mỹ. Bởi ông bà ngoại đứa bé đã nhận nó là con mình, để che tiếng xấu không chồng mà chửa của con gái. Trong khi đó, Lloyd vẫn về sống như vợ chồng với Eleanor, và người ngoài hiểu rằng họ là "anh chị" của Ted.

Lên 4 tuổi, Ted cùng Eleanor tới Tacoma Washington, sống với một số người họ hàng. Ted đổi tên thành Theodore Robert Nelson, còn "cô chị gái" Eleanor đổi thành Louise Cowell. Một năm sau, Louise Cowell kết hôn với anh đầu bếp Johnnie Culpepper Bundy. Ted sau này đã gắn họ Bundy vào tên của mình.

Louise và Johnnie có 4 con chung, và Ted, ngày ngày sau giờ học phải ở nhà chăm sóc các "cháu". Ted không bao giờ quý mến bố dượng mặc dù ông rất cố gắng chứng minh tình cảm của mình. Hắn luôn nghĩ mình là người thuộc dòng họ Cowell chứ không phải Bundy. Người duy nhất hắn chịu nghe lời là ông bố, mà thực chất là ông ngoại, sống tại Pennsylvania.

Khi còn bé, Ted rất nhút nhát. Hắn là cái đích để những bạn học lớn hơn bắt nạt và trêu chọc. Tuy vậy, Ted luôn có thứ hạng cao trong lớp về học tập và hắn giữ vững “phong độ” ấy đến hết đại học. Bạn học cùng trường phổ thông với Ted cho biết, hắn “ăn mặc gọn gàng và cư xử rất tốt với người khác”. Trong thời gian là học sinh phổ thông và sinh viên đại học, Ted không hề hẹn hò với các cô gái. Hắn chỉ tập trung vào môn trượt tuyết và nghiên cứu chính trị - môn học ưa thích của mình.

Năm 1965, Ted tốt nghiệp phổ thông và giành được một suất học bổng tại Đại học Puget Sound. Năm 1966, hắn chuyển sang Đại học Washington và bắt đầu học tiếng Trung Quốc một cách say mê. Để có tiền học, Ted làm nhiều việc khác nhau như hầu bàn và giữ giày tại các quán hàng. Việc làm thêm của hắn thay đổi thường xuyên, còn học hành thì vẫn "ngon lành". Ted liên tục giữ thứ hạng cao trong trường.

Mùa xuân năm 1967, mối tình đầu đời đã làm thay đổi cuộc đời Ted.

Stephanie Brooks, cô gái xinh đẹp, tinh tế, con của một gia đình danh giá và giàu có ở California, trở thành hình mẫu lý tưởng thường trực trong tâm trí Ted lúc đó. Bởi hắn không thể tưởng tượng được rằng có một người thuộc tầng lớp cao như vậy trong xã hội lại quan tâm tới mình.

Hai người có nhiều điểm khác biệt, song cùng chung sở thích là trượt tuyết. Và đây là lý do làm họ phải lòng nhau. Ted và Stephanie dành nhiều thời gian ở bên nhau để đi trượt tuyết, đi dạo và ăn tối. Tuy nhiên, Stephanie không yêu Ted nhiều như hắn nghĩ. Cô cho rằng bạn trai của mình không có mục tiêu rõ ràng trong tương lai, cô không nghĩ sẽ lấy hắn làm chồng.

Năm 1968, khi tốt nghiệp Đại học Washington, Stephanie cắt đứt quan hệ với Ted. Về phần mình, Ted không sao gượng lại nổi sau cú sốc đó. Không gì có thể làm Ted thích thú và cuối cùng hắn bỏ học. Tình yêu đầu đời không thành làm hắn có cảm giác cả thế giới sụp đổ. Hắn cố gắng giữ liên lạc với Stephanie bằng cách viết thư, nhưng cô từ chối duy trì quan hệ cũ. Sau này, nhiều người cho rằng khi làm điều đó, Stephanie không hề biết cô đã gây ra sự mất cân bằng trong đầu óc Ted mà tiếp đó là một loạt sự kiện làm nước Mỹ rùng mình.
 

hoahongden12

Active Member

Kẻ bị bắt trong chiếc xe VW, Theodore Robert Bundy, có tên gọi tắt là Ted Bundy. Tình tiết này lập tức dẫn cảnh sát tới nghi vấn, phải chăng hắn chính là "Ted hung thủ" mà lâu nay họ tìm kiếm. Carol DaRonch, cô gái may mắn thoát khỏi tay kẻ giết người, được mời đến nhận diện.

Ngày 2/10/1975, Carol DaRonch cùng với Jean Graham và một người bạn của Debby Kent được gọi tới để nhận diện 7 người bị tình nghi, trong đó có Ted Bundy. Ngay lập tức, Carol nhận ra Ted. Hai người còn lại cũng khẳng định chính Ted là kẻ đã lảng vảng tại nơi bạn họ mất tích.

Thông tin trên cho phép cảnh sát nhận định rằng, những gì mà họ nghi ngờ có thể là sự thật.

Ngày 16/9/1975, bạn gái của Ted Bundy, Meg, được gọi tới Đội Điều tra tội phạm của hạt King, bang Washington. Rất căng thẳng và lo sợ, song Meg vẫn cung cấp cho cảnh sát nhiều tin tức quý giá. Cô cho biết, Ted có thói quen ngủ ban ngày và ra khỏi nhà vào ban đêm. Vào những đêm xảy ra các vụ giết người, cô không rõ Ted đi đâu và không liên lạc được với hắn. Cô cho biết, từ khoảng một năm trở lại đây, nhu cầu tình dục của Ted đột ngột suy giảm. Mỗi khi có nhu cầu, hắn thường trói cô lại trước khi quan hệ. Hắn rất bực tức nếu cô không chịu thực hiện những ham muốn kỳ quái của mình.

Những buổi thẩm vấn sau đó, Meg cho các điều tra viên biết, Ted có để thạch cao, thứ dùng để bó bột, trong phòng của mình ở Paris. Cô cũng nhìn thấy gã bạn tình để một chiếc rìu nhỏ trong xe hơi. Cũng nhờ Meg, cảnh sát xác định được rằng, Ted đã tới công viên Sammamish vào thời điểm hai cô gái Janice Ott và Denise Naslund biến mất ở đây.

Quá trình điều tra sau đó đã giúp cảnh sát có thêm những bằng chứng cần thiết để đưa Ted ra tòa vào ngày 23/2/1976, về hành vi bắt cóc Carol DaRonch.

Việc xét xử được tiến hành trong khi cảnh sát tiếp tục tìm thêm thông tin liên quan tới cái chết của Caryn Campbell và Melissa Smith. Họ phát hiện những mẫu tóc của hai nạn nhân trong xe của Ted. Kích thước của chiếc xà beng tìm thấy trong chiếc VW cũng tương ứng với vết thương trên đầu Caryn Campbell. Với những chứng cứ đó, bang Colorado mở thêm một phiên tòa ngày 22/10/1976, xét xử Ted về tội danh giết Campbell.

Tuy nhiên, động cơ giết người của tên sát thủ vẫn còn là điều bí ẩn. Và các điều tra viên bắt đầu lần lại cuộc đời hắn, từ kết luận của bác sĩ tâm thần: “Ted sợ bị làm nhục trong các mối quan hệ với phụ nữ”.

Những năm thơ ấu

Sau những tháng an thai cuối cùng tại một bệnh viện ở Burlington, Vermont, ngày 24/11/1946, Eleanor Louise Cowell, 22 tuổi, chưa chồng, quê Philadelphia, bang Pennsylvania, sinh ra Theodore Robert Cowell. Ted (tên gọi tắt của Theodore) không hề biết tới cha đẻ của mình - Lloyd Marshall, một cựu chiến binh Mỹ. Bởi ông bà ngoại đứa bé đã nhận nó là con mình, để che tiếng xấu không chồng mà chửa của con gái. Trong khi đó, Lloyd vẫn về sống như vợ chồng với Eleanor, và người ngoài hiểu rằng họ là "anh chị" của Ted.

Lên 4 tuổi, Ted cùng Eleanor tới Tacoma Washington, sống với một số người họ hàng. Ted đổi tên thành Theodore Robert Nelson, còn "cô chị gái" Eleanor đổi thành Louise Cowell. Một năm sau, Louise Cowell kết hôn với anh đầu bếp Johnnie Culpepper Bundy. Ted sau này đã gắn họ Bundy vào tên của mình.

Louise và Johnnie có 4 con chung, và Ted, ngày ngày sau giờ học phải ở nhà chăm sóc các "cháu". Ted không bao giờ quý mến bố dượng mặc dù ông rất cố gắng chứng minh tình cảm của mình. Hắn luôn nghĩ mình là người thuộc dòng họ Cowell chứ không phải Bundy. Người duy nhất hắn chịu nghe lời là ông bố, mà thực chất là ông ngoại, sống tại Pennsylvania.

Khi còn bé, Ted rất nhút nhát. Hắn là cái đích để những bạn học lớn hơn bắt nạt và trêu chọc. Tuy vậy, Ted luôn có thứ hạng cao trong lớp về học tập và hắn giữ vững “phong độ” ấy đến hết đại học. Bạn học cùng trường phổ thông với Ted cho biết, hắn “ăn mặc gọn gàng và cư xử rất tốt với người khác”. Trong thời gian là học sinh phổ thông và sinh viên đại học, Ted không hề hẹn hò với các cô gái. Hắn chỉ tập trung vào môn trượt tuyết và nghiên cứu chính trị - môn học ưa thích của mình.

Năm 1965, Ted tốt nghiệp phổ thông và giành được một suất học bổng tại Đại học Puget Sound. Năm 1966, hắn chuyển sang Đại học Washington và bắt đầu học tiếng Trung Quốc một cách say mê. Để có tiền học, Ted làm nhiều việc khác nhau như hầu bàn và giữ giày tại các quán hàng. Việc làm thêm của hắn thay đổi thường xuyên, còn học hành thì vẫn "ngon lành". Ted liên tục giữ thứ hạng cao trong trường.

Mùa xuân năm 1967, mối tình đầu đời đã làm thay đổi cuộc đời Ted.

Stephanie Brooks, cô gái xinh đẹp, tinh tế, con của một gia đình danh giá và giàu có ở California, trở thành hình mẫu lý tưởng thường trực trong tâm trí Ted lúc đó. Bởi hắn không thể tưởng tượng được rằng có một người thuộc tầng lớp cao như vậy trong xã hội lại quan tâm tới mình.

Hai người có nhiều điểm khác biệt, song cùng chung sở thích là trượt tuyết. Và đây là lý do làm họ phải lòng nhau. Ted và Stephanie dành nhiều thời gian ở bên nhau để đi trượt tuyết, đi dạo và ăn tối. Tuy nhiên, Stephanie không yêu Ted nhiều như hắn nghĩ. Cô cho rằng bạn trai của mình không có mục tiêu rõ ràng trong tương lai, cô không nghĩ sẽ lấy hắn làm chồng.

Năm 1968, khi tốt nghiệp Đại học Washington, Stephanie cắt đứt quan hệ với Ted. Về phần mình, Ted không sao gượng lại nổi sau cú sốc đó. Không gì có thể làm Ted thích thú và cuối cùng hắn bỏ học. Tình yêu đầu đời không thành làm hắn có cảm giác cả thế giới sụp đổ. Hắn cố gắng giữ liên lạc với Stephanie bằng cách viết thư, nhưng cô từ chối duy trì quan hệ cũ. Sau này, nhiều người cho rằng khi làm điều đó, Stephanie không hề biết cô đã gây ra sự mất cân bằng trong đầu óc Ted mà tiếp đó là một loạt sự kiện làm nước Mỹ rùng mình.

Năm 1969, lần đầu tiên Ted biết "chị gái" chính là mẹ thật của mình và “bố mẹ” của hắn thì thực ra là ông bà ngoại. Mọi thứ như đảo lộn, từ một kẻ hay ngượng và hướng nội, Ted trở nên lạnh lùng, cương quyết và tàn bạo. Hắn muốn chứng tỏ bản thân mình với cả thế giới, đặc biệt là với Stephanie - người phụ nữ đầu đời của hắn.

Ted cho rằng mình có một sứ mạng thiêng liêng. Hắn đăng ký học trở lại tại khoa tâm lý, đại học Washington, trở thành sinh viên xuất sắc trong bộ môn này và được nhiều thầy cô yêu mến. Trong thời gian này, Ted gặp Meg Anders, một nữ thư ký, người gắn bó với hắn trong suốt 5 năm tiếp theo. Meg là người khiêm tốn và ít nói. Cô đã qua một đời chồng, có một con gái và thực sự muốn gây dựng lại cuộc sống lứa đôi. Cô yêu Ted ngay từ cái nhìn đầu tiên và muốn lấy hắn. Tuy nhiên, Ted chưa sẵn sàng để lập gia đình vào lúc đó vì thấy rằng còn quá nhiều thứ phải làm trong đời.

Meg biết rõ Ted không yêu cô như cô mong muốn. Nhiều lần, Ted còn công khai lả lơi với những người phụ nữ khác trước mặt cô. Tuy nhiên, cô nghĩ đến một lúc nào đó, hắn sẽ nghĩ lại và cưới cô làm vợ. Điều mà cô không biết là mối tình đầu của của Ted vẫn còn rất sâu đậm. Ted từng nói với một người bạn thân của mình rằng: "Stephanie là người đàn bà duy nhất mà tôi yêu. Và tôi không cảm thấy như vậy với Meg”.

Bên ngoài, cuộc sống của Ted trong giai đoạn 1969-1972 dường như ngày càng trở nên tốt đẹp hơn. Hắn tỏ ra lạc quan và tin tưởng vào tương lai. Hắn gửi đơn xin học tại khoa luật của nhiều trường đại học, và trong cùng thời gian đó tham gia các sinh hoạt chính trị. Hắn tham gia cổ động tranh cử cho một cựu thống đốc của bang Washington. Trong vị trí ấy, Ted có cơ hội tạo quan hệ với những người có thế lực trong Đảng Cộng hoà. Hắn thậm chí còn được sở cảnh sát Seatle tuyên dương vì đã cứu sống một bé trai 3 tuổi suýt chết đuối trong một hồ nước. Mọi thứ dường như đang đi đúng hướng, và hắn rất hài lòng về con đường mà mình chọn.

Năm 1973, trong một chuyến công du tới California cho Đảng Cộng hoà, Ted gặp lại Stephanie Brooks. Stephanie rất ngạc nhiên về sự chuyển biến của Ted. Hắn tỏ ra chững chạc hơn nhiều so với thời đại học. Sau cuộc gặp gỡ này, họ đã quay lại với nhau, và Meg không hề biết chuyện đó. Trong suốt mùa thu và đông tiếp theo, Ted nhiều lần đề nghị Stephanie làm đám cưới.

Nhưng rồi cũng nhanh và đột ngột như khi 2 người gặp lại nhau, Ted bỗng trở nên lạnh lùng và chán nản. Dường như chỉ trong vài tuần hắn đã không còn yêu Stephanie nữa. Điều đó làm cô rất ngạc nhiên và đau khổ. Tháng 2/1974, không một lời giải thích hay báo trước, Ted chấm dứt mọi liên lạc với Stephanie. Đến lúc này, cô mới hiểu rằng kế hoạch báo thù của Ted đã thành công. Hắn từ bỏ cô như có lúc cô đã phũ phàng bỏ rơi hắn, họ không bao giờ gặp lại hay nhận được tin tức của nhau nữa.
 

hoahongden12

Active Member

Tháng 4/1977, Ted được chuyển tới tòa án hạt Garfield cũng thuộc bang Colorado. Công luận muốn hắn phải đền tội. Tuy nhiên, kẻ giết người đã kịp làm việc mà không ai ngờ: bỏ trốn và tiếp tục gây ra những vụ giết người ngày càng tàn bạo, dã man hơn.

Trong quá trình chuẩn bị cho phiên tòa, vì không tin vào luật sư nên Ted đã tự bào chữa. Hắn tỏ ra tin tưởng vào thành công trong vụ xử, mà theo kế hoạch được tiến hành vào ngày 14/11/1977. Vì phải nghiên cứu nhiều tài liệu tại thư viện luật ở Aspen để chuẩn bị cho vụ xử, hắn được phép ra khỏi phòng giam dưới sự giám sát của cảnh sát. Mọi người không hề biết rằng Ted đang âm mưu chạy trốn.

Ngày 7/6, trên đường tới phòng đọc sách của thư viện nằm bên trong tòa án, Ted nhảy từ cửa sổ xuống đất. Hắn bị thương ở mắt cá chân, nhưng vẫn trốn thoát. Vì không hề bị khóa chân tay nên Ted dễ dàng nhập vào rừng người ở Aspen.

Cảnh sát Aspen ngay lập tức chặn các ngả đường xung quanh thành phố, tuy nhiên, Ted đủ khôn ngoan để tìm ra chỗ ẩn náu an toàn cho riêng mình. Kết hợp với chính quyền thành phố, cảnh sát tiến hành nhiều cuộc càn quét với sự tham gia của chó săn và hơn 150 tình nguyện viên. Nhưng nhiều ngày trôi qua, Ted vẫn biệt tăm.

Trên đường trốn chạy, Ted hiểu rằng cần có một chiếc ôtô để vượt qua vòng vây đang giăng bủa khắp nơi chờ đón mình. Hắn trộm được một chiếc xe còn nguyên chìa trong ổ khóa điện.

Nhưng may mắn của Ted đã hết. Ngày thứ 6 sau khi trốn khỏi tòa, Ted bị 2 cảnh sát phát hiện và bắt giữ. Kể từ đó, Ted buộc phải mang còng tay và chân trong suốt thời gian tra cứu tài liệu trong thư viện ở Aspen.

Song hắn không phải là kẻ dễ khuất phục. 7 tháng sau, Ted một lần nữa tìm cách trốn và lần này hắn thành công. Ngày 30/12, Ted đào tường tòa án hạt Garfield rồi tìm cách núp vào bên trong một căn buồng nhỏ của người cai ngục. Đợi cho đến khi không còn ai trong phòng, Ted thản nhiên bước ra khỏi khu vực tòa án bằng đường cửa trước. Cảnh sát chỉ phát hiện ra hắn vượt ngục 15 giờ sau đó, lúc hắn đang đi tới Chicago, một trạm dừng trên con đường tới cái đích cuối cùng là bang Florida. Đến giữa tháng 1/1978, Ted Bundy, dưới cái tên giả Chris Hagen, đã đàng hoàng sống trong một căn hộ ở Tallahassee, Florida.

Thông minh, lại đẹp trai, Ted không gặp nhiều khó khăn trong việc tìm ra một chỗ ở gần Đại học bang Florida. Hắn thường lảng vảng gần ký túc xá của trường, và thậm chí còn vào lớp nghe giảng "chui" mà không hề bị phát hiện. Để sống, hắn phải tìm cách kiếm được những đồ dùng hàng ngày. Tất cả mọi thứ trong căn hộ một buồng của hắn, ngay cả thức ăn, cũng là đồ ăn trộm. Dù sao, trong tình trạng đó, Ted dường như đã có một cuộc sống đầy đủ và hắn rất hài lòng. Điều duy nhất hắn thiếu là một người bạn.

Tối thứ bảy, 14/7/1976, hầu hết thành viên Hội nữ sinh đại học Florida tham gia vũ hội hoặc các bữa tiệc trong khu ký túc xá. Họ chỉ bắt đầu quay về nhà, tại khu Chi Omega, vào sáng sớm hôm sau. Lúc đó, các nữ sinh không thể biết rằng một điều khủng khiếp đang đợi chờ họ.

Lúc đó khoảng 3h sáng. Nita Neary được bạn trai đưa về tới trước cổng khu nhà. Bước về căn buồng của mình, cô để ý thấy cửa trước khu nhà bị mở toang. Vào bên trong, cô nghe có tiếng động như thể một người đang chạy ở căn buồng phía trên. Rồi đột nhiên, tiếng bước chân tiến về phía cầu thang gần chỗ cô đứng. Neary vội nấp vào cánh cửa. Cô trông thấy một người đàn ông đội chiếc mũ cát két màu xanh nước biển sụp xuống che hết mắt, tay cầm một khúc gỗ quấn giẻ. Hắn chạy ra phía cầu thang và ra khỏi cửa.

Thoạt đầu, Nita nghĩ rằng căn nhà bị đột nhập. Cô chạy lên tầng gọi cho bạn là Nancy Dowdy biết tin, rồi cùng đổ đi tìm người phụ trách tòa nhà. Trên đường tới phòng của bà, họ nhìn thấy Karen Chandler, bạn học của họ, loạng choạng bước dọc hành lang. Máu chảy như suối trên đầu cô. Tại một phòng khác, họ phát hiện Kathy Klein, chủ nhân căn phòng đang nằm trong một vũng máu, cũng chảy ra từ vết thương lớn trên đầu.

Khi cảnh sát tới nơi, họ tìm thấy xác 2 cô gái khác trên giường, trong buồng riêng của mỗi người. Hung thủ ra tay khi họ còn ngủ. Nghiên cứu của pháp y cho thấy, Lisa Levy bị đánh vào đầu bằng một khúc gỗ, bị hãm hiếp và bóp cổ tới chết. Trên thân thể cô hằn rõ một số vết răng.

Margaret Bowman cũng bị tấn công theo cách tương tự, dù không bị cưỡng hiếp và không có vết cắn nào. Cô bị xiết cổ bằng một chiếc tất dài, bị bỏ lại tại hiện trường. Vết thương trên đầu cô rất nặng. Cú đánh làm vỡ xương sọ và lộ ra một phần não. Không có dấu vết vật lộn trên xác Bowman và Lisa Levy.

Các điều tra viên ngay lập tức tiến hành thẩm vấn hai nạn nhân may mắn sống sót, nhưng không tìm được thêm thông tin nào đáng giá. Không ai còn nhớ về sự kiện khác lạ nào đó diễn ra trong đêm khủng khiếp ấy. Cũng như Levy và Bowman, tất cả đều đang ngủ say khi kẻ giết người ra tay. Chứng nhân duy nhất là Nita Neary.

Vụ thảm sát buộc cảnh sát nghĩ tới một viễn cảnh đen tối. Và thực tế đúng như vậy, nạn nhân của vụ này vẫn chưa phải là những người kém may mắn cuối cùng.

4h sáng của ngày chủ nhật khủng khiếp đó, cách khu Chi Omega khoảng 1,5 km, Debbie Ciccarelli bị đánh thức bởi một tiếng động lớn từ căn phòng kế bên. Cô tự hỏi, không hiểu cô hàng xóm Cheryl Thompson làm gì khi mới tờ mờ sáng như vậy.

Tiếng động lặp đi lặp lại khiến Debbie nghi ngờ. Cô đánh thức người bạn cùng phòng Nancy Young. Cả hai nghe thấy tiếng rên của Cheryl Thompson. Hoảng sợ, họ vội gọi ngay cho cảnh sát.

Cảnh sát nhanh chóng có mặt, một phần vì lúc đó họ đang kiểm tra hiện trường vụ án Chi Omega. Trên giường trong buồng, Cheryl lơ mơ trong tư thế nửa nằm nửa ngồi, phần cơ thể phía trên bị lột trần. Phía cuối giường của cô có một chiếc mặt nạ. Cheryl bị đánh rất dã man vào đầu bằng một vật giống như dùi cui.

Cảnh sát làm việc khẩn trương và lấy được mẫu máu, tinh dịch cùng một số mẫu vân tay của kẻ giết người. Không may là phần lớn chứng cứ đó không có tính quyết định trong vụ án. Thứ có giá nhất mà các điều tra viên tìm được là những mẩu tóc bên trong chiếc mặt nạ, cùng vết răng cắn trên cơ thể nạn nhân, và sự làm chứng của Nita Neary.

Tiếc là cho tới lúc này, cảnh sát Florida vẫn chưa hề biết tới "danh tiếng" của Ted Bundy. Nếu không, họ đã nhận ra sự giống nhau giữa chiếc mặt nạ tìm thấy trên giường Cheryl và chiếc mặt nạ tìm thấy trong xe của Ted, khi hắn bị bắt ở Utah vào tháng 8/1975.

Ngày 9/2/1978, Sở cảnh sát Lake City nhận được một cú điện thoại của bố mẹ Kimberly Leach, trình báo rằng con gái họ mất tích. Cảnh sát được lệnh triển khai tìm kiếm từ sân trường nơi Leach mất tích. Người cuối cùng nhìn thấy Leach khi cô đang bước vào ôtô của một người đàn ông lạ mặt. Tuy nhiên, không ai nhớ được đặc điểm của chiếc xe hay của người đàn ông đó. 8 tuần sau, người ta phát hiện xác Leach tại một công viên ở hạt Suwannee, Florida. Thi thể của cô bắt đầu phân hủy nên không cho cảnh sát thêm thông tin đáng kể nào.

Vài ngày trước khi Kimberly Leach mất tích, một người đàn ông lạ mặt lái một chiếc xe tải màu trắng đã tìm cách tiếp cận Leslie Parmenter, khi cô bé 14 tuổi này chờ anh trai đến đón. Ông ta tự xưng là người của trạm cứu hỏa và hỏi Leslie về đường đi tới trường học ở cạnh đó. Cô bé cảnh giác vì anh "lính cứu hỏa" này mặt quần áo dân sự. Hơn nữa, bố cô, thám tử James Parmenter của Sở cảnh sát thành phố Jacksonville, đã dặn con gái không được nói chuyện với người lạ mặt. May mắn là ngay sau đó, anh trai của Leslie tới nơi. Nghe em thuật lại câu chuyện, anh bám theo người đàn ông lạ mặt và ghi lại biển số xe để đưa lại cho bố mình.

Thám tử James Parmenter ngay lập tức đi kiểm tra biển số của chiếc xe lạ. Nó thuộc về một người đàn ông tên là Randall Ragen. Nhưng ông này cho hay, biển số xe của mình bị đánh cắp và ông đã phải làm biển mới. Cảnh sát nhận định rằng chiếc xe tải màu trắng kia cũng là của ăn cắp. Hai người con của Parmenter ngay lập tức được đưa tới Sở cảnh sát, và họ dễ dàng nhận ra Ted Bundy trong số ảnh những kẻ tình nghi.

10h tối 15/2/1977, David Lee đang lái xe tuần tra ở khu vực West Pensacola thì nhìn thấy một chiếc VW mà anh chắc không phải của cư dân trong vùng. Lee quyết định kiểm tra, và thông tin phản hồi của Sở cảnh sát cho biết đó là xe ăn cắp. Kẻ điều khiển VW chính là Ted Bundy, và chiếc xe là kết quả vụ trộm cắp mới nhất của Ted. Lần đua tốc độ này hắn không thoát. Lee đã còng được tay hắn lại và giải hắn tới đồn cảnh sát.

Cuộc điều tra sau đó dễ dàng hơn nhiều. 3 nhân chứng khẳng định đã nhìn thấy Ted vào buổi chiều Kimberly mất tích. Cảnh sát cũng tìm ra chiếc xe tải trắng bị ăn cắp, với nhiều sợi vải từ quần áo của Ted còn vương lại trên xe. Ngoài ra, pháp y còn tìm ra vết máu của Kimberly trên vải trải ghế xe và vết máu của Ted ở gần thi thể cô. Một chứng cứ khác quan trọng là vết giày của Ted tại khu đất nơi tìm thấy xác của Kimberly.

Trong 3 năm (1977-1980), 3 phiên tòa đã được mở để xét xử Ted Bundy về tội giết người hàng loạt tại khu nhà Chi Omega; tội tấn công các cô gái ở Chi Omega; và tội giết Kimberly Leach.

Trong suốt phiên tòa xét xử vụ giết người tại Chi Omega, Ted đã tự bào chữa. Hắn tự tin vào khả năng của mình, rằng sẽ thuyết phục được bồi thẩm đoàn để được trắng án. Tuy nhiên, cố gắng của hắn chỉ vô ích. Hắn đã để lại vết cắn đặc biệt trên cơ thể Lisa Levy, và đó là chứng cứ không thể chối cãi được.

Ngày 23/7/1978, sau 7 giờ thảo luận, các quan tòa trở lại phòng xử án và đưa ra kết luận: Ted có tội. Một tuần sau, toà ra án quyết xử tử Ted Bundy. Hai phiên tòa sau đó đều kết án tử hình cho hung thần này.

Rất nhiều người tin rằng số lượng nạn nhân của Ted còn cao hơn rất nhiều so với con số 28 mà hắn chính thức thú nhận. Tuy nhiên, mối nghi ngờ này đã theo Ted xuống mồ, khi bản án tử hình được thi hành, ngày 24/1/1989. Trước khi chết Ted còn dành cho báo chí một cuộc phỏng vấn, trong đó hắn tuyên bố, mình là một người bình thường.
 

hoahongden12

Active Member

Ted Bundy bị xử tử trên ghế điện tại nhà tù Starke, Florida, vào ngày 24/1/1989. 17 giờ trước khi bị hành quyết, hắn đồng ý trả lời phỏng vấn của tiến sĩ James Dobson, Chủ tịch Hiệp hội Hoạt động vì gia đình của Mỹ. Và điều cuối cùng mà Ted khẳng định là, sách báo khiêu dâm có khả năng tàn phá bất kể gia đình nào.

- Một cách tóm lược, anh đã bị buộc tội giết nhiều phụ nữ và các cô gái trẻ?

- Đúng vậy.

- Anh là người có học, vậy tại sao anh lại trở thành người như vậy?

- Tôi quả là đã lớn lên trong một gia đình với bố mẹ là người theo Thiên Chúa giáo, và họ rất quan tâm, yêu thương tôi. Chúng tôi đi nhà thờ đều đặn, trong gia đình không ai hút thuốc, uống rượu hay bài bạc. Nhưng khi được 12-13 tuổi, tôi đã chứng kiến những cảnh liên quan tới tình dục đầu tiên tại một tiệm tạp hóa và hiệu bán thuốc. Cũng trong thời gian đó, tôi đọc nhiều sách báo và tạp chí khiêu dâm mà người lớn vứt lại trong thùng rác. Những gì tôi học trong đó là rất “nặng” và kích thích hơn nhiều so với kinh nghiệm ban đầu của mình. Dạng khiêu dâm nặng nhất mà tôi được biết là làm tình kèm theo bạo lực. Có lẽ những tư tưởng đó là nguyên nhân chính khiến tôi có các hành động kinh khủng sau này.

- Vậy điều gì đã xảy ra trong đầu anh trong quãng thời gian đó?

- Mọi thứ diễn ra theo trình tự và dần dần. Đầu tiên, tôi trở nên “nghiện” nặng sách báo khiêu dâm. Tôi thèm khát những tài liệu bạo lực và kích thích hơn trước. Giống như một thứ ma túy, nó làm con người hình dung tới những điều mà ngay cả sách báo khiêu dâm cũng không thể miêu tả được. Đến một lúc nào đó, tôi đi tới cái ngưỡng mà sau này, khi vượt qua nó, trong tôi bắt đầu có ý muốn thực hiện các hành động mình tưởng tượng ra. Tôi hình dung ra sự khoái trá được thưởng thức những gì chỉ có duy nhất mình làm, mình đọc và mình nhìn thấy.

- Anh ở trong trạng thái đó bao lâu?

- Khoảng 2 năm. Tôi đã cố gắng cưỡng lại xu hướng bạo lực và phạm tội vì hiểu đó là sự trả thù những mất mát về tình cảm mà tôi phải hứng chịu khi còn bé. Cái ranh giới đó dần dần bị xóa mờ, rồi tôi rơi vào những cơn mơ khủng khiếp bắt nguồn từ những cảnh khiêu dâm mà tâm trí tôi ghi lại.

- Anh có nhớ là đã vượt qua ranh giới tỉnh táo đó như thế nào không?

- Tôi không thể đạo đức giả tới mức nói rằng mình hoàn toàn bị ngoại cảnh chi phối. Chúng ta đang nói tới những mắt xích không thể thiếu trong chuỗi các hành động dẫn tới việc giết người. Cứ như thể có một thứ gì đó nấp kín trong lòng tôi, nó làm tôi không thể kiểm soát thêm được nữa, cái ranh giới mà tôi đã cố gắng tạo ra từ hồi còn nhỏ không còn đủ mạnh để giữ tôi thêm được nữa.

- Ted, sau khi thực hiện vụ giết người đầu tiên của mình, anh có những suy nghĩ và tình cảm gì?

- Tôi như vừa trải qua một điều gì đó như thể là giấc mơ vậy. Tôi không thể tưởng tượng được một điều gì như thế. Nhưng khi tôi tỉnh dậy vào sáng hôm sau, với một tinh thần tỉnh táo, thì tôi hiểu rằng mình đã làm những điều kinh khủng.

- Trước đó, anh chưa bao giờ có cảm nhận tương tự như vậy ư?

- Sâu thẳm trong lòng, tôi là một người bình thường. Tôi có những người bạn tốt, một cuộc đời bình thường, chỉ trừ một phần dù rất nhỏ nhưng lại rất mạnh mẽ, nguy hiểm mà tôi luôn gìn giữ làm bí mật của riêng mình. Người ta đáng lẽ phải hiểu rằng tôi không phải là kẻ tàn bạo, đồi bại hay một dạng quái vật mang hình người. Tôi cũng giống như con trai của các vị, chồng của các vị, và tôi lớn lên một cách bình thường. Sách báo khiêu dâm có khả năng tàn phá bất kể gia đình nào. Dù cha mẹ tôi rất thận trọng trong việc dạy dỗ, không để tôi nhiễm những thói hư hỏng, nhưng các loại sách báo đồi trụy vẫn phá hoại hết những gì tôi có. Và mọi việc xảy ra đã gần 30 năm rồi.

- Tại sao bao nhiêu người khác cũng trải qua những kinh nghiệm tình dục với quan niệm lệch lạc như anh, nhưng lại không sa vào con đường đó?

- Tôi không phải là một nhà khoa học xã hội chuyên nghiệp và tôi không nghiên cứu những vấn đề đó. Nhưng sau thời gian sống trong tù, tôi suy nghĩ nhiều và chợt nhận ra rằng có rất nhiều người đọc sách báo khiêu dâm đã đi vào xu hướng bạo lực giống tôi.

Không ai trong số những người “nghiện” sách báo khiêu dâm có thể tránh được xu hướng đó. Không có gì phải nghi ngờ về việc này. Ngay cả một số nghiên cứu của FBI cũng cho thấy, phần lớn những kẻ giết người hàng loạt là người có xu hướng háo dâm hoặc lệch lạc về tình dục.

- Anh có nghĩ hình phạt mà Tòa án Liên bang dành cho anh là xứng đáng không?

- Tôi không muốn bàn cãi về việc đó với ông. Tôi không muốn chết. Nhưng quả thực là tôi xứng đáng chịu hình phạt mà xã hội dành cho mình ở một mức độ nào đó, và đúng là cả xã hội cần được bảo vệ để tránh hành động gây hại của những kẻ như tôi.
 

hoahongden12

Active Member

Với “chiến tích” 13 vụ giết người và 50 vụ hiếp dâm tại Mỹ, sát nhân Golden State cuối cùng đã bị bắt ở tuổi 72.

Trong năm 1974-1986 tại bang California, Mỹ, có tên tội phạm gây khiếp sợ cho người dân địa phương. Hắn bị cho rằng đã thực hiện ít nhất 13 vụ giết người, hơn 50 vụ hiếp dâm và hơn 100 vụ trộm cắp và đều không bị phát hiện. Hắn được gọi là "Sát nhân Golden State" vì phạm vi hoạt động khắp California (Golden State là biệt danh của bang này).

Dựa trên dấu vết hiện trường và mô tả của nạn nhân, cảnh sát xác định sát thủ là người da trắng, cao khoảng 1m78, dáng thon gọn, bắt đầu hiếp dâm vào 1976.

Dường như hung thủ đều đi trước cảnh sát một bước. Hắn thậm chí còn gọi điện thoại, làm thơ “tặng” cảnh sát và thị trưởng thành phố để giễu cợt. Cảnh sát không thu được manh mối gì đáng kể ngoài mẫu t*ng trùng tên tội phạm để lại tại hiện trường vụ hiếp dâm nhưng công nghệ ADN chưa được ứng dụng vào xác minh tội phạm cho tới đầu thập niên 1990.

Theo Washington Post, kể cả khi có công nghệ AND, nhà chức trách cũng không thể tìm ra danh tính của kẻ thủ ác vì không có kết quả tìm kiếm trùng khớp trong kho lưu trữ dữ liệu ADN tội phạm quốc gia. Vụ án đi vào ngõ cụt và dần bị quên lãng.

Cuối năm 2017, 31 năm đã trôi qua kể từ lần cuối cùng tên giết người xuất thủ. Trong suốt thời gian ấy, dù vụ án không được chú tâm tới, Paul Holes – nhân viên điều tra thuộc văn phòng công tố hạt Contra Costa, bang California vẫn miệt mài nghiên cứu về tên sát nhân Golden State.

Paul Holes buộc phải bấu víu vào manh mối duy nhất là mẫu ADN của hung thủ.

Trong quá trình tìm kiếm, Paul Holes tìm thấy trang web GEDmatch cho phép người dùng đăng tải thông tin di truyền cá nhân lên kho dữ liệu có khoảng một triệu người để tìm kiếm họ hàng xa hoặc thất lạc từ lâu.

Nhờ trợ giúp của phòng thí nghiệm, Paul Holes trích xuất được thông tin ADN từ mẫu t*ng trùng của kẻ giết người và đăng tải lên GEDmatch. Kết quả cho ra 10-20 người họ hàng xa. Những người này và Golden State có chung một người kỵ và đều thuộc đời chít.

Paul Holes truy tới tận cùng danh tính người kỵ, phát hiện người này sống vào giai đoạn đầu những năm 1800. Dưới sự trợ giúp của chuyên gia phả hệ học, từ người kỵ, điều tra viên Paul Holes cùng đồng nghiệp đã cùng nhau xây dựng gia phả dòng họ kéo dài 5 thế hệ của kẻ giết người. Kết quả cho ra 25 chi gia đình với khoảng 1.000 thành viên trong mỗi chi.

Tiếp theo, đội điều tra đi tìm kẻ tình nghi trong số thành viên của đại gia đình bằng cách lục lại kho dữ liệu cư dân của bang để loại trừ dần. Tiêu chí tìm kiếm là “đàn ông, tầm tuổi 60-75, sống và làm việc ở Sacramento và các địa phương xảy ra tội phạm”. Sau 4 tháng, họ tìm được một kẻ tình nghi trùng khớp nhất: Joseph DeAngelo - cảnh sát đã nghỉ hưu.

Điều tra viên Paul Holes theo dõi và thu thập dấu ADN tại nhà riêng của Joseph DeAngelo ở thành phố Citrus Heights, hạt Sacramento. Kết quả thu được cho thấy ADN của kẻ giết người Golden State trùng với kẻ tình nghi.

Nghi phạm Joseph DeAngelo bị bắt giữ vào ngày 24/4. Kẻ sát nhân khét tiếng một thời đã bị truy tố với nhiều tội danh: giết người, bắt cóc, hiếp dâm, cướp có vũ trang.

Joseph DeAngelo đang bị giam tại Nhà tù Trung tâm hạt Sacramento để chờ phiên tòa xét xử dự kiến diễn ra vào tháng 12. Ông ta bị đặt dưới chế độ theo dõi nghiêm ngặt để đề phòng tự sát.

New York Times đưa tin, sau vụ việc trên, cảnh sát các nơi cũng đã học hỏi và ứng dụng dữ liệu di truyền người dùng đăng tải lên trang web GEDmatch để phá được 5 vụ án "nguội" khác, hầu hết đều là các vụ giết người hiếp dâm xảy ra năm 1980-1990.

Nghiên cứu từ trường y Harvard của nghiên cứu sinh Raehoon Jeong đã chỉ ra công nghệ phả hệ ADN có thể rất hữu hiệu trong việc xác minh tội phạm so với cách ứng dụng ADN truyền thống. Chẳng hạn, kho dữ liệu tội phạm của FBI chứa hơn 17 triệu mẫu ADN, nhưng nó không chứa thông tin về tội phạm chưa từng bị bắt. Vì thế dù đã có mẫu AND của hung thủ từ lâu, cảnh sát vẫn không thể tìm ra thủ phạm.

Một lý do khác cảnh sát không giải quyết được vụ án từ sớm là công nghệ ADN pháp y truyền thống không xem xét toàn bộ mã di truyền của cá nhân mà chỉ chú ý vào một vài đoạn nhỏ. Cụ thể, FBI thường lấy 20 đoạn của một mẫu ADN vì những đoạn này có tính đặc trưng nhất cho cá nhân. Cách làm này tiết kiệm mà vẫn rất hiệu quả trong trường hợp thông thường, nhưng không giúp xác định quan hệ họ hàng giữa hai cá nhân.

Tiến sĩ Raehoon Jeong cho rằng chính sự sẵn có của dữ liệu và sự xuất hiện của công nghệ ADN, cùng với sự phổ biến ngày càng rộng rãi của các trang web AND phả hệ thương mại đã giúp điều tra viên Paul Holes tìm ra được kẻ sát nhân Golden State, dù nỗ lực tìm kiếm trong 30 năm trước đó đã thất bại.
 

hoahongden12

Active Member

Không giống những cô bé 10-11 tuổi bình thường thích chơi búp bê và đồ hàng, Mary Bell lại có một sở thích khiến ai cũng gai mình: giết người.

Thời thơ ấu bất hạnh của cô bé 11 tuổi

Ngày 26 tháng 5 năm 1957 tại Anh, cô bé Mary Bell ra đời. Đáng lẽ Mary sẽ lớn lên như bao bạn đồng trang lứa trong tình yêu thương của cha mẹ, nhưng cuộc đời của cô bé đã bất hạnh ngay từ giây phút được sinh ra.

Mary là con đầu lòng của một người phụ nữ tên Betty McCrickett khi bà chỉ mới 17 tuổi. Người mẹ này vốn hành nghề mại dâm với sở thích quan hệ tình dục kiểu BDSM (chắc là bạo dâm, mình không chắc nữa, mọi người tự lên mạng tìm hiểu nha!), bà thường xuyên đến thành phố Glasgow làm việc nên hầu như không bao giờ ở nhà. Không chỉ vậy, danh tính của người cha cũng khó xác định. Nhiều người tin rằng một kẻ tên Billy Bell - tên tội phạm từng bị bắt vì ăn cướp có sử dụng vũ khí chính là cha đẻ của Mary.

Nhiều họ hàng thân cận đã khẳng định rằng Betty nhiều lần cố ý giết chết con mình và giả vờ như đó là tai nạn khi cô bé còn nằm nôi. Họ bắt đầu nghi ngờ khi Mary "vô tình" ngã từ cửa sổ, hay uống "nhầm" thuốc ngủ. Một ngày nọ, một nhân chứng đã nhìn thấy bà ta đưa Mary thuốc và nói dối đó là kẹo. Kinh khủng hơn, cô bé kể rằng mình đã nhiều lần bị lạm dụng tình dục và bị chính mẹ ruột ép phải tham gia vào các hành vi tình dục với đàn ông từ khi lên 4.

Kẻ sát nhân không ai ngờ tới

Có lẽ do sự ảnh hưởng từ người mẹ, Mary Bell đã lớn lên theo cách khác biệt và mang trong mình tâm lí giết chóc chỉ khi mới lên 11. Tội ác của Mary bắt đầu vào trước ngày sinh nhật của chính cô, 25 tháng 5 năm 1968, khi sát nhân nhí tìm được nạn nhân đầu tiên - Martin Brown.

Theo lời kể của mẹ nạn nhân, cậu bé là một đứa trẻ đáng yêu, nghịch ngợm và hay cười, thế nhưng ác mộng lại ập đến với gia đình bà. Chiều ngày 25, Martin 4 tuổi đang chơi loanh quanh thì găp Mary ở gần đó, vì nhìn Mary không có chút gì nguy hiểm nên ngay lập tức cậu bé đi theo hung thủ vào một căn nhà hoang để chơi trò chơi. Luật của "trò chơi" là Martin sẽ nằm xuống đất, còn Mary sẽ giúp cổ họng của em dễ chịu hơn, đó cũng chính là lúc nữ sát nhân bóp cổ một sinh linh vô tội. Nguyên nhân cái chết của Martin Brown được cảnh sát cho là do tai nạn.

Mary đã đến thăm gia đình nạn nhân khi họ đang đau đớn vì sự mất mát, tuy nhiên thay vì an ủi, hung thủ lại thốt ra những câu đến rợn gáy.

"Nó nói đến tìm Martin, tôi trả lời rằng hôm nay là một ngày rất đau buồn với tôi. Nhưng con bé ấy lại nói thêm rằng, vậy thì nó sẽ tìm thằng bé ở trong quan tài" - Bà June kể lại.

Không chỉ dừng ở đó, cô bé muốn mọi người biết đến cái chết kinh khủng của nạn nhân, vì vậy Mary đã kể chuyện giết người của mình cho các bạn ở trường hay thậm chí là thành viên trong gia đình, nhưng không một ai tin điều này. Bên cạnh đó, Mary còn vẽ lại cách chết của Martin và viết "Tao đã giết Martin, bọn mày sẽ không bao giờ bắt được tao" cùng lời nhắn "Tao sẽ quay trở lại".

Một tháng sau khi sát hại cậu bé 4 tuổi, Mary bắt đầu lên kế hoạch giết người một lần nữa, nhưng lần này là cùng cô bạn Norma Joyce Bell, 13 tuổi. Nạn nhân kế tiếp là Brian Howe chỉ mới 3 tuổi đang chơi một mình trên đường và cũng chết bởi "trò chơi" bóp cổ, tuy nhiên mức độ tàn nhẫn đã lên cao hơn so với lần trước.

Cậu bé được tìm thấy ở một khu đất hoang vùng Scotswood, trên bụng em khắc chữ cái "M". Đáng sợ hơn cả, nạn nhân bị Mary dùng kéo cắt một ít tóc, cào chân cậu bé, và cắt cả bộ phận nhạy cảm của Howe.

Tội ác bị phơi bày và hình phạt gây tranh cãi

Những hành vi kỳ quặc của Mary bắt đầu khiến nhiều người tỏ ra nghi ngờ, đó là khi quan tài của Brian Howe được khiêng ra, một viên cảnh sát đã nhìn thấy gương mặt của cô bé đang mỉm cười. Ngay sau đó, cô bạn Norma đã thú nhận trước cảnh sát, nhưng Mary thì không hề dễ dàng nhận tội dù đã có bằng chứng rõ ràng là những bức vẽ và chữ viết của chính cô.

Theo lời của bà June Richardson, Mary không hề sợ hãi hay tỏ ra hối lỗi khi hầu tòa.

"Con bé ngồi đó và cười, múa may, rồi quay ra hỏi xin mọi người kẹo ngọt. Tôi không thể tưởng tượng được một kẻ đã phá hủy cuộc đời tôi lại có thể cười khoái trá đến vậy."

Cuối cùng, Mary Bell bị tuyên án phạt giam, nhưng vì tuổi còn quá nhỏ, quan tòa đã yêu cầu cân nhắc hình phạt này khi cô bé lớn hơn. Câu hỏi lớn được đặt ra là tại sao người mẹ đã khiến cô bé trở thành con quái vật lại không bị pháp luật trừng phạt.

Vào ngày 17 tháng 12 năm 1968, tại Newcastle Assizes, Norma Bell đã được tha bổng nhưng Mary Bell bị kết tội ngộ sát, quan tòa đã đưa ra quyết định từ chẩn đoán của các bác sĩ tâm thần do tòa án chỉ định. Thẩm phán Justice Cusack cho rằng Mary là một kẻ nguy hiểm và cần được cách ly khỏi những đứa trẻ khác.

Sát nhân 11 tuổi với án tù vô thời hạn được chuyển đến Red Bank ở Newton-Le-Willows. Đây cũng là nơi mà 25 năm sau, Jon Venables - một trong hai đứa trẻ đã sát hại dã man cậu bé James Bulger bị quản thúc.

Cái kết có hậu của một sát nhân nhí

Ngày 17 tháng 12 năm 1986, Norma được ra tù nhưng không được xóa bỏ danh tính cũ. Còn về phần Mary, sau khi được trả tự do vào năm 23 tuổi, cô đã được trao một danh tính mới để bắt đầu lại cuộc đời. 4 năm sau đó, Mary hạ sinh một bé gái ngày 25 tháng 5 năm 1984. Con gái cô không hề biết gì quá khứ của mẹ mình. Chỉ khi báo chí khui ra danh tính của họ vào năm 1998, hai mẹ con đã phải trốn giới truyền thông mỗi khi rời khỏi nhà với khăn trùm kín mít.

Vụ án đã lắng xuống sau hàng chục năm, nhưng mỗi khi nhắc đến cái tên Mary Bell, mọi người đều kinh hãi về những gì cô bé 11 tuổi đã làm và hành vi phạm tội ấy đã để lại nhiều đau thương cho những người ở lại.
 

hoahongden12

Active Member

Carl Panzram là một kẻ giết người hàng loạt hung ác vào bậc nhất ở Mỹ. Ở nơi nào Panzram đặt chân đến là nơi đó hắn phạm pháp.

Cay đắng vì những năm tháng ở tù, Panzram trở thành một con người quái dị. Hắn ghét mọi thứ, thậm chí cả chính bản thân hắn. Panzram đi lang thang khắp nơi từ Châu Âu sang Nam Mỹ. Ở nơi nào Panzram đặt chân đến là nơi đó hắn phạm pháp.

Panzram sinh ngày 28/6/1891, tại một trang trại hoang vu ở phía bắc Minnesota, quận Hennepin, Mỹ. Cha mẹ Panzram là người gốc Đức, làm việc chăm chỉ, nghiêm khắc. Giống như hầu hết những người nhập cư khác của thời đại đó, cuộc sống của họ vô cùng nghèo đói. Panzram có năm anh em trai và một em gái.

Khi Panzram 7 tuổi, cha mẹ hắn ly hôn. Cha hắn bỏ đi và để lại toàn bộ trang trại. Kết quả là, cả gia đình Panzram phải đối mặt với một tương lai ảm đạm. Họ làm việc trong trang trại từ sáng sớm đến lúc mặt trời lặn. Panzram liên tục bị anh chị em đánh đập không rõ nguyên nhân.

Đến năm 11 tuổi, Panzram đột nhập vào nhà người hàng xóm và lấy trộm tất cả những thứ có thể, kể cả một khẩu súng ngắn. Sau đó, cảnh sát đã phát hiện ra vụ việc và bắt Panzram. Hắn bị gửi đến Trường Đào tạo Minnesota State dành cho vị thành niên năm 1903.

Tọa lạc tại thị trấn Red Wing trên sông Mississippi, phía nam của St. Paul, Trường Đào tạo Minnesota State có khoảng 300 bé trai từ 10 đến 20 tuổi.

Khi đến Minnesota State, một nhân viên nam làm việc trong văn phòng tiếp nhận của nhà trường đã khám sức khỏe cho Panzram. Hắn sợ hãi khi bị lột trần truồng và trả lời các câu hỏi về hành vi tình dục của bản thân. “Ông ta kiểm tra dương v*t của tôi, hỏi tôi đã từng gian dâm, thủ dâm chưa”, Panzram kể lại.

Carl Panzram bị đánh đập thường xuyên trong trường Minnesota State. Càng đánh đập, hắn càng chịu đựng và tích tụ thù hận. Hắn bị đánh bằng ván gỗ, dây da, đòn roi và những mái chèo nặng. Trong suốt thời gian đó, Panzram đã lên kế hoạch trả thù.

Hắn chuẩn bị một thiết bị đơn giản đốt cháy trường Minnesota State khi hắn rời khỏi tòa nhà vào đêm ngày 7/7/1905. Ngọn lửa nhanh chóng được thiêu trụi hội trường của ngôi trường trong khi Panzram nằm trên giường và tự hào về sự trả thù ngọt ngào của mình.

Cuối năm 1905, mẹ của Panzram đến trường Minnesota State và mang hắn về nhà. Panzram đã thay đổi. Hăn trở nên yên tĩnh và thu mình hơn.

Năm 1922, Panzram đã hãm hiếp và giết hại một cậu bé 12 tuổi. Hắn vui vẻ kể lại việc giết hại: “Tiếng kêu của cậu bé thật ngọt ngào... Tôi không cảm thấy có lỗi chút nào”.

Hắn sống theo lối sống du mục và liên tiếp phạm tội ở châu Âu, Scotland, Mỹ và Nam Mỹ. Hắn đã giết chết 6 người đàn ông trong một ngày ở châu Phi, sau đó ném xác họ cho cá sấu ăn thịt. Phần lớn thời gian hắn sống trong nhà tù, nơi diễn ra các phương thức tra tấn và đàn áp cổ xưa.

Sau khi ra tù, Panzram tiếp tục sát hại, hãm hiếp và thiêu chết các nạn nhân trên khắp nước Mỹ. Để giải thích cho hành động đồi trụy của bản thân, hắn nói bố mẹ mình “thiếu hiểu biết, và thông qua phương pháp dạy không đúng cách cũng như môi trường sống không phù hợp, tôi đã dần đi vào con đường sai trái”.

Bị 4 người đàn ông cưỡng hiếp

Ở tuổi 14, Carl Panzram đã làm việc trong nông trại của mẹ. Hắn phác thảo một tương lai ảm đạm của những công việc lao nặng nhọc mà thu nhập không cao, rồi thuyết phục mẹ hắn chuyển hắn đến một ngôi trường khác.

Tại trường mới, Panzram nhanh chóng tham gia vào một vụ tranh chấp với giáo viên đã nhiều lần dùng roi đánh hắn. Panzram tìm được một khẩu súng lục và mang đến trường để có thể giết cô giáo ngay trước cửa lớp học.

Tuy nhiên, âm mưu giết người đã thất bại khi hắn vô tình làm rơi khẩu súng trên sàn lớp học. Panzram bị đuổi khỏi trường và trở về trang trại. Hai tuần sau đó, hắn nhảy lên một tàu chở hàng và rời khỏi trang trại Minnesota mãi mãi.

Trong vài năm sau, Panzram lang thang khắp nơi, ngủ trong xe chở hàng, đi theo các đoàn tàu và chạy trốn khỏi cảnh sát đường sắt. Hắn xin đồ ăn và lấy trộm nó bất cứ khi nào có thể.

Sau đó, Panzram đã theo 4 người lạ đến Montana. Họ mua cho hắn quần áo đẹp và cung cấp một chỗ ngủ ấm áp.

“Nhưng trước tiên, họ muốn tôi làm một chút việc cho họ”, Panzram viết trong nhật ký những năm sau đó.

Hắn đã bị 4 người đàn ông đó hãm hiếp. “Tôi đã khóc, cầu xin họ tha cho... nhưng chúng vẫn tiếp tục...”, Panzram kể lại.

Hắn đã trốn thoát nhưng lòng nhân từ còn sót lại của hắn đã hoàn toàn biến mất. Một thời gian ngắn sau đó, Panzram bị nhốt ở Butte, Montana vì tội ăn trộm và bị kết án một năm tại Trung tâm cải tạo bang Montana ở thành phố Miles.

Cuộc sống trôi dạt

Năm 1907, Panzram và một tù nhân - Jimmie Benson, trốn thoát khỏi Trung tâm cải tạo bangMontana. Hai người ăn cắp vài khẩu súng ngắn trong một thị trấn gần đó và đi về hướng thị trấn Terry.

Benson và Panzram đi dọc theo con đường qua các thị trấn của Glendive, Crane và Sidney, cướp của dọc đường đi. Khi đến miền tây Minnesota, mỗi người đã có hai khẩu súng và hàng trăm đô la tiền đánh cắp.

Họ quyết định chia tay trong thành phố Fargo và đi theo con đường riêng. Panzram đổi tên thành Jefferson Baldwin, và cuối cùng trôi dạt về vùng đồng bằng rộng lớn của Bắc Dakota.

Tòa án quân sự

Một đêm trong quán rượu địa phương, Panzram đã uống rượu một mình tại quầy bar và nghe một bài diễn văn của một nhà tuyển dụng quân đội địa phương. Sau đó, hắn nói dối về tuổi của mình và gia nhập vào quân đội Mỹ.

Vào ngày đầu tiên mặc quân phục, Panzram đã bị kỷ luật vì không phục tùng mệnh lệnh. Trong những tháng tiếp theo, hắn bị bắt giam nhiều lần vì những vi phạm khác nhau. Thường xuyên say rượu và mất kiểm soát, Panzram đã không thể tuân theo kỷ luật quân sự.

Tháng 4/1908, hắn đột nhập vào một tòa nhà của quân nhu và lấy trộm số quần áo trị giá 88,24 USD. Tuy nhiên, cảnh sát quân sự đã bắt Panzram khi hắn cố gắng bán số quần áo đó. Trong phiên tòa xét xử, hắn bị kết án tù 3 năm tại nhà tù liên bang và bị mất tấy cả các khoản tiền lương, phụ cấp.

Tù nhân liên bang tại thời điểm đó thường được gửi đến Fort Leavenworth, Kansas. Panzram đã bị xích lên và đưa đến trạm xe lửa địa phương với một số tù nhân bị quân sự khác.

Họ bị xích vào bên trong một chiếc xe được bảo vệ vũ trang, không được ăn và uống nước trong suốt chuyến đi hơn 1.600 km. Trong nhà tù, Panzram bị đánh đập nhiều lần và sớm trở nên tuyệt vọng khi cố gắn trốn thoát.

Tại Leavenworth, mọi hy vọng trở thành một công dân trưởng thành của Panzram đã bị dập tắt hoàn toàn.

Sau khi được thả từ nhà tù Fort Leavenworth năm 1910, Carl Panzram không có nơi nào để đi. Hắn dành phần lớn thời gian của mình trong các trường giáo dưỡng và nhà tù.

Vài năm sau, Panzram Kansas, Texas, qua vùng Tây Nam và vào California. Trong thời gian này, hắn sử dụng tên “Jeff Baldwin” và bị bắt vài lần do trộm cắp, đốt phá và cướp tài sản.

Sau đó, hắn đã trốn thoát khỏi nhà tù ở Rusk, Texas, và The Dalles, Oregon. “Tôi đốt chuồng trại, hàng rào hoặc bất cứ điều gì tôi có thể. Khi không có gì để đốt, tôi sẽ đốt cỏ trên thảo nguyên, rừng…”, Panzram kể lại.

Mùa hè năm 1911, với tên gọi “Jefferson Davis”, hắn bị bắt tại Fresno, California vì tội ăn cắp một chiếc xe đạp. Hắn ngồi tù 6 tháng nhưng đã trốn thoát chỉ sau 30 ngày.

Hắn nhảy lên một tàu chở hàng, đi về hướng Tây Bắc và mang theo một số khẩu súng đánh cắp. Hắn đã chôn những khẩu súng này bên ngoài thị trấn trước khi bị bắt. Trên toa tàu, hắn đã tiến hành hiếp dâm một cậu bé hơn 10 tuổi. Sau đó, hắn ném cậu bé xuống tàu và tiếp tục cuộc hành trình đến Oregon. Tại đây, hắn trở thành một người khai thác gỗ.

Đến năm 1913, Panzram trở thành một tên tội phạm “cứng”, uống rượu, hành hung và sống lang thang như một con vật.

Vẻ ngoài của hắn đã thu hút nhiều phụ nữ, nhưng không bao giờ Panzram quan tâm đến người khác giới. Hắn tiếp tục bị bắt tại một số bang dưới tên “Jack Allen”.

Đêm đầu tiên trong nhà tù ở Harrison, Idaho, hắn đã đốt cháy một tòa nhà và cùng một số tù nhân trốn thoát. Sau khi trốn khỏi tù, Panzram nhanh chóng chạy lên phía Bắc, qua các Grove of Ancient Cedars, trên dãy núi Bitterroot và thành tây Montana.

Ở bất cứ nơi nào, Panzram đều lấy trộm thức ăn, quần áo, tiền bạc và súng. Năm 1915, hắn đột nhập vào một ngôi nhà ở thị trấn Astoria, Oregon, lấy một bộ quần áo và các vật phẩm khác trị giá không quá 20 USD. Ngay sau đó, hắn bị bắt khi cố gắng bán một chiếc đồng hồ ăn cắp. Hắn bị kết án 7 năm tù tại nhà tù Oregon State Penitentiary ở Salem.

Ngày 24/6/1915, hắn đến nhà tù và trở thành tù nhân mang số 7390. Trong hồ sơ, hắn ghi nơi sinh của mình như Alabama và nghề nghiệp là “kẻ trộm”. Trên cùng một trang, hắn sử dụng hai tên khác nhau: Jefferson Davis và Jeff Rhodes.

Các cai ngục tỏ ra khó chịu về thái độ bất hợp tác của Panzram. Nhà tù ở Salem nổi tiếng với việc trừng phạt tù nhân bằng các phương pháp lạm dụng và tra tấn. Các tù nhân thường xuyên bị xích vào tường và treo lên trần nhà. Họ bị đánh đập một cách khủng khiếp bằng một thiết bị có khả năng gây chấn thương kinh hoàng.

Panzram đã lập kỷ lục sau khi bị treo “10 giờ/ngày trong hai ngày liên tiếp cùng với những hình thức tra tấn dã man”. Một tháng sau, hắn tiếp tục bị ném vào “ngục tối” trong ba tuần chỉ với bánh mì và nước. “Họ lột trần truồng và xích tôi vào một cánh cửa”, Panzram kể lại.

Tuy nhiên, ngay sau đó, hắn đã thực hiện một vụ hỏa hoạn, thiêu rụi ba tòa nhà và trốn thoát khỏi nhà tù. Trong 61 ngày tiếp theo, Panzram dò dẫm sống trong bóng tối và thực phẩm chính của hắn là gián.
 

hoahongden12

Active Member

Vào mùa hè năm 1920, Panzram dành rất nhiều thời gian ở thành phố New Haven, Connecticut. Hắn thích những nơi nhộn nhịp và đông người. Nhiều người có nghĩa là mục tiêu nhiều hơn, nhiều tiền hơn và nhiều nạn nhân hơn. Điều này cũng có nghĩa cảnh sát sẽ phải làm việc bận rộn hơn và có lẽ sẽ quá bận rộn để bận tâm đến hắn.

Panzram thường ra ngoài vào ban đêm, lang thang trên đường phố để tìm kiếm mục tiêu. Hắn sẽ ăn cắp mọi thứ có thể, hãm hiếp một cậu bé hoặc tìm kiếm một ngôi nhà để ăn trộm.

Tháng 8/1920, hắn tìm thấy một ngôi nhà nằm trên Đại lộ Whitney. Panzram đập vỡ cửa sổ, đột nhập vào nhà, lục soát các phòng ngủ và tìm thấy một số lượng lớn trang sức trái phiếu kèm một khẩu súng lục. Sau khi ăn cắp tất cả mọi thứ có thể mang theo, Panzram trốn thoát qua cửa sổ và đạt hòa vào đường phố.

Hắn bán hầu hết các đồ trang sức và trái phiếu ăn cắp. Trong nhật kí, Panzram viết rằng “từ vụ cướp này, tôi kiếm được khoảng 3.000 USD tiền mặt và giữ một khẩu súng lục. Với số tiền đó tôi mua một chiếc du thuyền mang tên Akista”. Hắn đăng ký thuyền dưới tên John O’Leary, bí danh hắn sử dụng khi sống ở khu vực New York.

Hắn chạy thuyền lên sông Đông, về phía đông thông qua thành phố Rye và lên bờ biển đá của Connecticut. Trên đường đi, ông đã phá vỡ thành hàng chục tàu thuyền vào neo đậu, ăn cắp rượu, súng, vật tư, bất cứ thứ gì hắn có thể lấy. Cuối cùng, Panzram thả neo thuyền Akista ở câu lạc bộ du thuyền New Haven, nơi hắn định cư một thời gian, uống rượu và suy nghĩ về những nạn nhân tiếp theo của mình.

Khi đi dọc theo sông Đông, hắn nhận ra rằng nhiều người đang tìm kiếm công việc trên tàu vận tải địa phương. Panzram bắt đầu nghĩ ra một kế hoạch cướp và giết người.

“Tôi đã lên kế hoạch để thuê một vài thủy thủ làm việc cho tôi, đưa những người này lên du thuyền Akista, chuốc họ say rượu và giết chết họ”, Panzram kể lại.

Hắn đã giết nhiều nạn nhân sau đó chở xác của họ ra xa và đổ xuống biển. Các cơ quan chức năng tại thành phố bắt đầu nghi ngờ thuyền Akista và thuyền trưởng của nó. Panzram nhận ra rằng hắn phải thay đổi địa điểm. Hắn đi thuyền xuống bờ biển New Jersey với hai hành khách cuối cùng và giết họ ở đảo Long Beach.

Vào cuối tháng 8/1920, một cơn gió lớn đã khiến thuyền Akista bị đập vỡ ra từng mảnh do va vào bờ đá. Panzram bơi vào bờ và trốn thoát.

Năm 1921, Panzram ngồi tù 6 tháng trong nhà tù ở Bridgeport, Connecticut, do trộm cắp và sở hữu súng trái phép. Sau khi tại ngoại, hắn bỏ trốn khỏi tiểu bang Connecticut và đến Angola, một thuộc địa của Bồ Đào Nha trên bờ biển phía tây châu Phi.

Tại đây, hắn làm quản đốc một giàn khoan dầu tại Công ty Dầu Sinclair. Vào thời điểm đó, các ngành công nghiệp dầu khí Mỹ đã tham gia vào một cuộc thám hiểm thăm dò để tìm kiếm nguồn dầu mới ở châu Phi. Tại thị trấn ven biển của Luanda, Panzram hãm hiếp và giết chết một bé trai 11 tuổi.

Sau đó, Panzram trở lại Lobito Bay trên bờ biển Đại Tây Dương và sống vài tuần trong một làng chài. Những người dân địa phương nghi ngờ hắn về tội giết người nhưng họ không có bằng chứng chứng minh. Hắn ngạc nhiên trước việc hắn có thể giết người dễ dàng như vậy.

Sau một vài ngày trở lại tại Mỹ, Carl Panzram đến văn phòng Hải quan Mỹ tại thành phố New York để gia hạn giấy phép thuyền trưởng và lấy lại giấy tờ du thuyền Akista bị đắm trên bãi cát ngầm Jersey hai năm trước.

Hắn lên kế hoạch để ăn cắp một chiếc thuyền khác và tái trang bị dưới tên Akista. Ban đầu, hắn tìm kiếm tại các bãi neo đậu thuyền địa phương trong khu vực New York và lang thang bên bờ biển Connecticut.

Sau đó, hắn trôi dạt đến các cảng biển của Providence, Rhode Island, nhưng vẫn không thể tìm thấy một chiếc thuyền cùng loại với Akista. Panzram tiếp tục về phía bắc dọc Boston và cuối cùng đã đến ở thị trấn Salem, Massachusetts, nổi tiếng với những phù thủy thế kỷ 17.

Ở đó, vào một chiều ngày hè nóng nực ngày 18/7/1922, hắn đã gặp cậu bé 12 tuổi đi bộ một mình ở phía tây của thị trấn.Tên của cậu bé là George Henry McMahon, sống tại số 65 đường Boston ở Salem cùng bà Margaret Lyons.

Khoảng 2h15 chiều ngày 18/7/1922, bà Margaret nhờ George đến cửa hàng sữa A amp;. Sau khi rời khỏi nhà hàng, George đi lên đường Boston. 1 giờ sau, bà Margaret Crean, một người hàng xóm của George, nhìn thấy cậu đi cùng một người lạ.

'Chiều ngày 18/7, tôi thấy một cậu bé và một người đàn ông đi bộ lên con đường. Người đàn ông mặc bộ đồ màu xanh và đội một chiếc mũ', bà nói. Người đàn ông đó là Carl Panzram.

'Tên của cậu bé tôi không biết”, Panzram nói, 'cậu bé nói với tôi rằng cậu 11 tuổi, và đang mang theo một giỏ hay một túi gì đó. Tôi hỏi cậu bé có muốn kiếm được 50 xu và cậu nói có”.

Panzram đi với George đến cửa hàng gần đó. Một vài phút sau, Panzram thuyết phục đứa trẻ để đi xe cùng lên xe hàng rồi đi đến một nơi hoang vắng trong thị trấn.

'Tôi túm lấy cánh tay và nói với cậu bé rằng tôi sẽ giết cậu', Panzram nói trong lời thú tội của mình. 'Tôi ở lại với cậu bé khoảng ba giờ. Trong thời gian đó, tôi đã hãm hiếp cậu bé sáu lần, và sau đó tôi đã cầm đá đập vào đầu cậu bé”.

Sau khi giết chết George, Panzram vội vàng ra khỏi thị trấn, quay trở lại hướng về phía New York. Tuy nhiên, hai cư dân của Salem đã bắt gặp hắn. Họ thấy một người đàn ông có vẻ lo lắng, và một chút điên cuồng, vội vã ra khỏi thị trấn.

Ba ngày sau, cảnh sát Salem phát hiện ra xác của George và tiến hành truy tìm hung thủ. Tuy nhiên, Panzram vẫn trốn thoát và trở lại khu vực Westchester County để tiếp tục tìm kiếm một chiếc thuyền phù hợp.

Đầu năm 1923, hắn thuê một căn hộ tại Yonkers, New York, sử dụng bí danh là John O'Leary. Hắn làm bảo vệ tại Công ty Abeeco Mill tại 220 Yonkers Avenue và đã gặp một chàng trai tên George Walosin, 15 tuổi.

Trong mùa hè năm 1923, Panzram đánh cắp một chiếc thuyền cập cảng ở New Haven. Tại đây, hắn hứa với George Walosin sẽ cho anh làm việc trên du thuyền.

Hai người đi 50 dặm đến một vịnh nhở ở Kingston. Panzram nhanh chóng sơn lại vỏ thuyền và thay đổi tên trên đuôi thuyền. Sau đó, hắn mạo hiểm tìm một người mua thuyền.

Đêm ngày 27/6/1923, một người đàn ông trẻ đồng ý đi lên xem thuyền. Người đàn ông này đã không may mắn khi Panzram dùng một khẩu súng bắn vào đầu anh ta rồi vứt xuống biển.

George Walsoin chứng kiến toàn bộ sự việc. Anh cố gắng trốn thoát và quay về Yonkers. Ngay sau đó, George Walsoin đã trình báo cảnh sát về vụ giết người của Panzram.

Sáng ngày 29/6/1923, cảnh sát bắt ngờ bước lên du thuyền để bắt Panzram. Hắn đã khai toàn bộ quá trình cướp của cũng như cưỡng hiếp, giết người của mình.

Đây là một câu trích dẫn từ lời nói của Carl Panzam: "Tôi xin lỗi, trong đời tôi đã làm sai 2 việc, thứ nhất là tôi đã ngược đãi một số động vật khi còn trẻ và điều thứ 2 là, rất tiếc là tôi đã không thể giết hết tất cả những con súc vật trong cuộc sống này (ám chỉ những nạn nhân của mình)".
 

hoahongden12

Active Member

Trong con mắt của người dân vùng Norwood, thành phố Chicago, John Wayne Gacy là một người hàng xóm thân thiện. Gacy rất sẵn lòng giúp đỡ mọi người và đặc biệt là thích chơi với trẻ con. Anh ta thường mặc những bộ quần áo của những chú hề để vui chơi với chúng.

Tuy nhiên, sự thật về con người John Wayne Gacy chỉ được hé lộ khi cảnh sát tới khám xét nhà riêng của Gacy, phát hiện thi thể của 28 đàn ông, hầu hết họ đều rất trẻ và ở độ tuổi vị thành niên. Đến lúc này, người dân Norwood mới hiểu rằng, hóa ra cái vẻ bề ngoài thân thiện và tính cách thích chơi đùa với trẻ con chỉ nhằm phục vụ mục đích cuối cùng của hắn là dụ dỗ và bắt cóc chúng càng nhiều càng tốt.

Ghê rợn hơn, nạn nhân của kẻ giết người máu lạnh lại chỉ là những bé trai. Hắn bắt cóc, hãm hiếp và cuối cùng là giết chết rồi quăng xác bên dưới nhà và ga-ra. Ngoài 28 thi thể được tìm thấy ở nhà riêng, Gacy còn khai hắn đã vứt 5 xác nữa xuống sông Chicago.

Phiên tòa xét xử John Wayne Gacy bắt đầu vào ngày 6/2/1980 trước sự căm phẫn của người thân các nạn nhân và toàn thể nhân dân Mỹ nói chung. Họ đua nhau tới tòa án để theo dõi phiên xét xử tên giết người bệnh hoạn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Ngày 10/5/1994, Gacy đã nhận án tử hình bằng thuốc độc. Thực đơn bữa ăn cuối cùng của John Way Gacy có tôm, gà rán, khoai tây chiên và dâu tây. Tuy nhiên, hắn không thể nào nuốt nổi khi nghĩ tới liều thuốc độc đang chờ đợi ở phía trước.

Ngày 22/5/1978, Jefferey Ringall đang dạo bước trên khu phố New Town (Chicago) sau một chuyến đi nghỉ mùa đông dài ngày tại Florida, bất ngờ, một chiếc Oldsmobile đen bóng chặn ngang trước mặt anh. Tên lái xe người rắn chắc ló đầu ra khỏi cửa khen anh có một nước da bánh mật thật đẹp. Gã tiếp tục trò chuyện và mời anh lên xe để hàn huyên khi cho xe chạy vòng quanh khu phố. Đang muốn thoát khỏi cái lạnh lẽo của kỳ nghỉ, Ringall không chần chừ chui tọt lên xe, bắt đầu hút thuốc với ông bạn quen tình cờ và rất "thân thiện".

Gần nửa quãng đường, tên lạ mặt bất thình lình chụp mảnh giẻ có tẩm thuốc mê lên mặt Ringall. Anh gục xuống bất tỉnh. Trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê, anh thấy mình được đưa đến một ngôi nhà, còn gã bạn tình cờ kia thì đang "trần như nhộng" đứng trước anh. Đêm đó, anh bị con quái vật bệnh hoạn kia hãm hiếp, hành hạ và sau đó bị đánh thuốc mê bất tỉnh. Sáng sớm hôm sau, Ringall tỉnh dậy thấy mình đang nằm dưới chân tượng đài trong khu Công viên Lin-coln ở Chicago.

Ngạc nhiên thấy mình còn sống sót sau vụ bạo hành, anh cố sức tìm đến nhà của người bạn gái. Ngay sau đó, anh được đưa vào bệnh viện để điều trị mất 6 ngày. Theo bản kết luận của bác sĩ, anh bị rách nhiều chỗ ở da và bị bỏng, thần kinh bị hoảng loạn nghiêm trọng. Sau đó, anh đã báo cáo cho cảnh sát toàn bộ sự việc trên.

Ringall quả thực đã thoát chết, và anh chỉ là một trường hợp hiếm hoi trong số các nạn nhân đã bỏ mạng dưới bàn tay của "con quái vật" John Wayne Gacy.

John Wayne Gacy là người thứ hai trong số ba anh chị em sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp trung lưu, luôn bận rộn với những công việc sau giờ học như bán báo, giữ đồ tại cửa hàng tạp phẩm và coi nhà kho. Năm lên 7 tuổi, hắn bị va đầu vào cái đu quay và tai nạn này tạo ra cục máu đông trong não. Sau nhiều năm bị mất trí nhớ, vết thương này mãi mới được phát hiện khi hắn lên 16 tuổi, và bác sĩ đã giúp hắn chữa trị một phần. Năm 19 tuổi, hắn luôn luôn đối đầu với cha mình, trong khi mối quan hệ với mẹ và chị thì vẫn bền chặt.

Tháng 9/1964, Gacy gặp và cưới người làm việc cùng với mình tên là Mariyan Myers, cha mẹ cô ta làm chủ một loạt nhà hàng gà rán Ken-tucky ở Waterloo-Iowa. Bố vợ hắn đã dành cho hắn một vị trí trong cửa hàng của mình. Ngay sau đó, Gacy và vợ chuyển đến Iowa. Cuộc sống trở nên đầy hứa hẹn khi vợ hắn sinh cho hắn hai đứa con: một trai, một gái. Thế nhưng, những lời đồn đại đã lan đi khắp thành phố Jaycee về cuộc sống tình dục quái đản của hắn.

Những cậu bé vị thành niên luôn là đối tượng của hắn. Mọi người được nghe rất nhiều câu chuyện nói về Gacy rằng gã là một kẻ đồng tính luyến ái, và thường qua đêm với những cậu bé làm việc tại cửa hàng thức ăn nhanh của hắn. Cuối năm 1968, hắn bị bồi thẩm đoàn của hạt Black Hawk kết tội là có quan hệ tình dục sai trái với cậu bé Mark Miller. Bốn tháng sau, Gacy bị kết tội là đã thuê người đánh Miller. Trước khi ra vành móng ngựa, tòa đã yêu cầu kiểm tra thần kinh đối với Gacy. Kết quả cho thấy thần kinh hắn có vấn đề. Hắn bị lãnh án 10 năm tù cùng với bản cam kết người bị kết án lâu nhất với tội danh này.

Ngay sau khi vào tù, vợ hắn đã đâm đơn ly dị với lý do hắn đã phản bội lời thề hôn nhân. Trong tù hắn là một người mẫu mực. Hắn ra khỏi trại giam ngày 18/6/1970 và quay về quê ở Chicago.

Sau khi ra tù, Gacy về làm bếp trưởng tại một nhà hàng của mẹ hắn ở Chicago. Hắn làm việc say mê và nhiệt tình. Bốn tháng sau, hắn quyết định ở riêng, mẹ hắn tưởng hắn chí thú cải tà quy chính nên giúp hắn mua một ngôi nhà tại 8213 Summerdale.

Ngày 1/6/1972, hắn cưới Caroll Hoff, người phụ nữ mới ly dị và có hai đứa con gái. Tại nơi ở mới, Gacy nhanh chóng làm quen với gia đình hàng xóm là Edward và Lillie Graxas. Họ thường tụ tập để đánh bài và uống rượu. Graxas thường được mời tham gia các bữa tiệc ngoài trời với các món nướng. Tuy nhiên, cứ mỗi lần sang nhà của Gacy, họ đều thấy có mùi khó chịu. Graxas khẳng định đó là mùi chuột chết và đã yêu cầu Gacy xử lý. Còn Gacy thì cho rằng đó là mùi ẩm mốc từ khoảng trống dưới sàn nhà bốc lên.

Năm 1974, hắn quyết định đi vào nghề kinh doanh, ban đầu bằng nghề sơn, trang trí và bảo dưỡng sản phẩm, gọi tắt là Công ty thầu PDM. Hắn thuê các cậu bé tới để làm việc vì cho rằng như thế là tiết kiệm được các chi phí. Vợ hắn cũng dần phát hiện ra sự ham muốn bệnh hoạn của hắn. Ngày 2/3/1976, bà ta đã ra tòa xin ly dị.

Nạn nhân đầu tiên là Johny Butkovich, 17 tuổi, người đã từng làm tại công ty thầu của Gacy. Một lần, Gacy từ chối trả tiền công hai tuần làm việc cho Johny. Bực tức, Johny cùng hai người bạn tới nhà của Gacy để đòi. Sau một hồi cãi vã, biết không thể nào làm gì được Gacy, cả bọn kéo nhau về. Johny đã để những người bạn của mình ở nhà họ và lái xe đi, rồi từ đó không ai nhìn thấy cậu ta nữa.

Nạn nhân thứ hai là Michael Bonnin cũng 17 tuổi. Anh rất thích thú với công việc làm đồ mộc tại Công ty thầu PMD của Gacy. Tháng 6/1976, Bonnin hoàn thành công việc sửa chữa chiếc máy hát tự động bằng gỗ, và trên chuyến tàu Bonnin về thăm người anh trai, con của dượng, Bonnin không bao giờ quay trở lại nữa.

Nạn nhân trẻ tuổi nhất có lẽ là Robert Riest mới 15 tuổi. Số là mẹ cậu đợi mãi không thấy cậu đi làm về, liền đến chỗ con làm việc để tìm kiếm, nhưng vẫn không thấy, liền báo cảnh sát. Chỉ ba giờ sau khi Robert mất tích, văn phòng cảnh sát Des Plaines đã bắt tay vào cuộc. Trung úy Joseph Kozenczak dẫn đầu cuộc điều tra. Điều tra về lai lịch của Gacy, cảnh sát vô cùng kinh ngạc khi biết người đàn ông này đã từng có tiền án về tội hiếp dâm trẻ em.

Cuộc đột kích vào nhà Gacy

Nghi ngờ Gacy chính là hung thủ bắt cóc Robert Piest, Trung uý Kantz thụ lý vụ án chịu trách nhiệm thu thập bất kỳ chứng cứ nào tìm được ở trong nhà. Ngày 13/12/1978, cảnh sát ập vào nhà John Wayne Gacy trên đại lộ Summerdale để thực hiện lệnh khám nhà nhưng Gacy không có ở nhà lúc đó.

Tuy nhiên, họ đã thu được những tang vật đáng ngờ, bao gồm: 1 chiếc hộp kim hoàn, bên trong có 2 bằng lái xe và một vài chiếc nhẫn; 1 hộp đựng cần sa và các tờ giấy được cuộn lại; 7 bộ phim người lớn do Thụy Điển sản xuất; vài vỉ thuốc trị bệnh đau thắt ngực và an thần; 1 con dao bấm tự động; 1 vỉ thuốc có dính vết bẩn; các bức ảnh chụp những hiệu thuốc lớn; 1 cuốn sổ địa chỉ; các cuốn sách giới tính dành cho thiếu niên, sách về quyền của người đồng tính, về các tư thế quan hệ giữa đàn ông và các cậu bé…; 1 cặp còng số 8, kèm theo các chìa khóa; 1 tấm ván bằng gỗ dài khoảng gần 1m, có 2 lỗ; 1 khẩu súng lục đã lên nòng; những đồ chơi người lớn bằng cao su; nhiều kim tiêm; nhiều bộ quần áo kích cỡ rất nhỏ so với Gacy; 1 đơn thuốc từ hiệu thuốc Nisson; những cuộn dây ni lông.

3 chiếc xe ô tô của Gacy cũng bị tịch thu, trong đó có chiếc xe tải nhỏ hiệu Chevrolet 1978 với nhãn Công ty PDM, một chiếc Delta 88 và một chiếc xe tải cũng mang nhãn Công ty PDM. Đặc biệt, trên chiếc xe tải nhỏ có vài mẫu tóc và sau này được xác định là của Robert Piest.

Điều tra kỹ hơn, cảnh sát vào khu tầng hầm của nhà Gacy. Điều đầu tiên khiến các nhân viên điều tra vô cùng sốc là mùi hôi nồng nặc như mùi của cống rãnh. Tuy nhiên, trong lần tìm kiếm đầu tiên tại căn hầm này, cảnh sát không tìm được manh mối gì và cuối cùng phải quay ra để tiếp tục điều tra những chứng cớ họ vừa thu được.

Gacy ngay sau đó bị triệu tập tới cục cảnh sát để lý giải về những “tang vật” mà các nhân viên điều tra mới thu thập được trong nhà hắn. Khi biết tin, hắn đã vô cùng giận dữ và gọi cho luật sư riêng của mình. Hắn tự tin từ chối ký tất cả những giấy tờ cần thiết. Và mặc dù cảnh sát có trong tay những chứng cớ khá nhạy cảm về đời sống tình dục của Gacy nhưng chẳng có gì có thể kết tội được hắn. Thế là cảnh sát đã phải thả tự do cho hắn. Điều duy nhất họ có thể làm là giám sát Gacy 24/24 giờ.

Xâu chuỗi bằng chứng

Sau một phen bẽ bàng, cảnh sát quyết theo dõi sát sao nhất cử nhất động của Gacy. Một số bạn bè của Gacy cũng được gọi tới sở cảnh sát để thẩm vấn. Tuy nhiên, cảnh sát không moi thêm được thông tin gì bất lợi cho Gacy, bởi những người bạn của hắn đều không thể tin một người tốt, nhiệt tình với cộng đồng như bạn mình lại có những hành động hiếp và giết bé trai dã man như vậy. Rốt cuộc, vụ mất tích bí ẩn của Robert Piest đi vào ngõ cụt.

Nản lòng vì thiếu chứng cứ liên quan tới vụ Piest, các nhân viên cảnh sát đã quyết định bắt Gacy về tội tàng trữ và sử dụng cần sa cùng một số thuốc kích thích khác. Một ngày trước khi bị bắt, Gacy vẫn đang thỏa mãn với thành công của mình và đã giễu cợt kể đùa với bạn bè của mình rằng hắn đã giết nhiều người, con số lên tới 30 kẻ xấu xa vì chúng đã dám tống tiền y.

Đây cũng là thời gian xảy ra vụ việc Gacy cưỡng hiếp một thanh niên tên là Ringall. Trong một buổi tối đang đi bộ về sau khi rời quán bar, Ringall đã bị một người lạ mặt mời hút xì gà và dụ lên xe, cuối cùng bị hắn khống chế và tiêm một mũi thuốc mê.

Thức dậy với đầy đủ quần áo trên người và nằm dưới chân tượng ngoài công viên, Ringall không chỉ bị rách da, bỏng và tổn thương gan vĩnh viễn do thuốc mê Chloroform gây nên mà còn bị tổn thương nghiêm trọng về mặt tinh thần. Anh nhanh chóng báo tin cho cảnh sát và cái tên Gacy được đặt lên hàng đầu trong danh sách tình nghi.

Sau một thời gian khá dài điều tra căng thẳng và cẩn trọng, cùng với những kết quả tại phòng thí nghiệm về những tang chứng đã tìm được trong nhà Gacy, cảnh sát đã tìm ra được manh mối quan trọng, đủ để làm bằng chứng chống lại hắn.

Một trong những chiếc nhẫn tìm được trong nhà Gacy đã được cảnh sát phát hiện ra là của 1 nạn nhân đã bị mất tích cách đây 1 năm tên là John Szyc. Họ cũng phát hiện ra rằng 3 người từng là nhân viên của Công ty PDM do Gacy làm chủ đã bị mất tích một cách bí ẩn.

Hơn nữa, tấm biên lai cho cuộn phim đã tìm thấy ở nhà Gacy được cho là thuộc về đồng nghiệp của Robert Piest, người đã đưa cho Robert vào trước ngày cậu bé bị mất tích. Với thông tin mới này, các nhân viên điều tra bắt đầu nhận ra đây là một vụ việc vô cùng man rợ, liên quan tới cái chết và mất tích của rất nhiều nạn nhân trước đó.

Với những phát hiện trên của cảnh sát, cuối cùng Gacy cũng phải thú nhận rằng hắn đã giết một số người nhưng với lý do tự vệ. Hắn cho biết đã chôn xác nạn nhân ở dưới gara. Tuy vậy, cảnh sát không ngay lập tức cho đào lên. Trước tiên, họ muốn tìm kiếm căn hầm dưới nhà Gacy. Không lâu sau đó họ phát hiện ra một mô đất nhỏ nhô lên khá tình nghi. Chỉ sau vài phút đào xới, các nhân viên điều tra đã tìm ra nhiều phần thi thể, ghê tởm đến lạnh người.

Nghĩa địa dưới tầng hầm

Thứ Sáu ngày 22/12/1978, Gacy cuối cùng đã phải thú tội với cảnh sát rằng hắn đã sát hại ít nhất 30 người và chôn phần lớn số nạn nhân trong căn hầm dưới nhà. Lần đầu tiên hắn gây tội ác là vào tháng 1/1972, rồi 2 năm sau đó hắn mới tiếp tục phạm tội, lúc này đã kết hôn được 1,5 năm.

Gacy còn thú nhận việc dụ các nạn nhân và khóa tay bằng còng số 8 rồi sau đó ung dung cưỡng hiếp họ. Để tránh bị phát hiện hay nạn nhân la hét, tên sát nhân nhét bít tất hay đồ lót và miệng họ và sát hại họ bằng siết chặt dây thừng hoặc vừa cưỡng hiếp, vừa bóp cổ họ tới chết.

Thậm chí hắn còn thú nhận đôi khi còn táo tợn để xác nạn nhân lại hàng giờ trên giường hoặc trên gác mái trước khi đưa họ xuống hầm và chôn giấu.

Vào ngày đầu tiên cảnh sát bắt đầu công việc khai quật các thi thể nạn nhân của vụ án, họ đã tìm được 2 xác chết. Một trong hai được xác định là John Butkovich, bị Gacy chôn dưới gara, còn cái xác còn lại tìm thấy dưới hầm.

Nhiều ngày trôi qua, con số xác chết được tìm thấy ngày càng nhiều. Ghê rợn hơn, một số nạn nhân được tìm thấy trong tình trạng đồ lót đã lọt sâu xuống cổ họng. Nhiều nạn nhân khác được chôn cùng chỗ khiến cảnh sát đặt ra giả định rằng có lẽ họ bị giết hoặc chôn cùng một lúc.

Ngày 28/12, cảnh sát di dời toàn bộ 27 thi thể nạn nhân tìm được ra khỏi nhà Gacy. Không chỉ có thể, vài tuần sau họ còn phát hiện một xác chết khác không ở trong căn hầm. Đó là một tử thi trong tình trạng lõa thể được xác định là Frank Wayne “Dale” Landingin ở bờ sông Des Plaines. Cái chết của Frank được liên kết với Gacy nhờ trước đó các nhân viên điều tra đã tìm thấy bằng lái của Landingin trong vụ khám nhà.

Ngày 28/12, cảnh sát tìm thấy thi thể của James “mojo” Mazzara trong tình trạng đồ lót đã bị trôi xuống họng bên bờ sông Des Plaines. Các nhân viên điều tra cho biết nguyên nhân gây tử vong không phải vì bị đánh đập mà do chiếc quần lót trong miệng quá chặt, trôi dần xuống khiến nạn nhân ngạt thở. Mazzara là nạn nhân thứ 29 của Gacy được tìm thấy.

Ngày 28/12/1978, cảnh sát đã chuyển toàn bộ 27 xác chết ra khỏi nhà của Gacy cùng với một số xác, theo lời thú nhận của Gacy, là đã vứt xuống sông. Tổng cộng, Gacy đã sát hại 32 người.

Ngày 6/2/1980, vụ án giết người John Wayne Gacy được tiến hành tại Tòa án hình sự Cook, Chicago Illi-nois. Sau một loạt các chứng cứ và hàng trăm nhân chứng, được nghe công tố viên Bob Egan nói về cuộc đời và tội ác giết người kinh khủng của Gacy, bồi thẩm đoàn phải mất 5 tuần mới đi đến kết luận cuối cùng. Gacy đã bị kết tội và chịu trách nhiệm trước cái chết của 32 nạn nhân và được coi là tên giết người bệnh hoạn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Gacy đã nhận bản án tử hình.
 

hoahongden12

Active Member

Nạn nhân đầu tiên

Ngày 21/05/1960, Jeffrey Dahmer chào đời trong sự yêu thương của ông Lionel Dahmer và bà Joyce Dahmer - một cặp vợ chồng hiền lành ở Milwaukee. Cuộc sống trong những năm đầu đời của Jeffrey Dahmer trôi đi rất êm ả và hạnh phúc, cho đến khi người em trai kém 6 tuổi của cậu ra đời. Sự xuất hiện của đứa em trai, cộng với một số tiểu phẫu nhỏ mà Dahmer phải trải qua đã khiến cậu trở nên tự ti và hẹp hòi.

Cũng trong khoảng thời gian đó, cha cậu - một nhà hóa học đã quyết định dẫn gia đình chuyển từ bang Iowa tới bang Ohio để phục vụ công việc. Môi trường sống lạ lẫm khiến Dahmer càng thu mình lại. Trong suốt những năm tháng thiếu niên của mình, Dahmer không có nổi một người bạn. Điều đó khiến tâm lý của cậu dần hình thành những biến đổi kỳ lạ.

Năm 14 tuổi, Dahmer đã bắt đầu phát triển những huyễn tưởng về việc giết người và quan hệ tình dục với xác chết. Song có lẽ cuộc hôn nhân tan vỡ của cha mẹ hắn, cộng với những căng thẳng tâm lý vốn có chính là những chất xúc tác khiến hắn biến những huyễn tưởng ấy thành hành động. Quá trình hiện thực hóa của Dahmer bắt đầu ngay sau khi hắn tốt nghiệp trung học vào tháng 6/1978. Steven Hicks chính là người tình đồng tính và cũng là nạn nhân đầu tiên của hắn.

Thời điểm đó, Dahmer sống với cha và mẹ kế tại khu thượng lưu ở Bath, bang Ohio. Hắn đưa Hicks về nhà, uống bia và quan hệ tình dục. Đến khi Hicks đòi về, Dahmer cảm thấy tức giận. Mất tự chủ trong cơn say, Dahmer vơ lấy một thanh tạ và phang vào đầu Hicks. Để phi tang, Dahmer chặt thi thể nạn nhân thành nhiều phần, nhét vào một túi ni-lông và đem chôn ở khu rừng phía sau nhà.

Trong khoảng thời gian sau đó, Jeffrey Dahmer vùi mình vào bia rượu và bỏ bê việc học hành tại đại học bang Ohio. Tháng 1/1979, cha của Dahmer ép hắn nhập ngũ và chuyển hắn đến Đức. Chỉ 2 năm sau, quân đội Đức trục xuất hắn ra khỏi quân đội vì thói nghiện rượu. Trở về nhà, Dahmer khai quật hài cốt đã phân hủy của Hicks lên, dùng búa nghiền nát nó và đem rải khắp nơi trong rừng.

Phanh thây và quan hệ với xác chết

Tháng 10/1981, Dahmer bị bắt vì tội vì tội gây rối trật tự công cộng. Điều này đã khiến cha hắn rất tức giận và gửi hắn đến sống với ông bà ngoại ở Wisconsin. Mọi chuyện đều ổn thỏa trong 4 năm sau cho đến khi hắn bị bắt lại vào tháng 9/1986 vì tội thủ dâm trước mặt 2 cậu bé và phải chịu 1 năm tù treo.

Tháng 9/1987, Dahmer ra tay với nạn nhân thứ 2 của mình - Steven Toumi, người mà hắn quen trong một quán bar đồng tính. Hai người vào một khách sạn và uống say khướt. Sáng hôm sau, chỉ có mình Dahmer tỉnh dậy. Hắn không nhớ đã giết Toumi như thế nào, chỉ biết rằng khi thức dậy đã thấy Toumi tắt thở, máu trào ở miệng.

Dahmer mua một chiếc vali lớn và nhét xác của Toumi vào trong. Sau đó, hắn chở cái vali đến tầng hầm nhà ông bà ngoại, nơi hắn quan hệ tình dục và thủ dâm với thi thể Toumi, trước khi chặt đứt tay chân cái xác và phi tang phần còn lại.

Theo thời gian, phương pháp dụ dỗ nạn nhân và giết người của Dahmer ngày càng hoàn thiện. Trước tiên, hắn lựa chọn con mồi tại những quán bar dành cho dân đồng tính hoặc nhà tắm công cộng. Sau đó, hắn kiếm cớ làm quen với họ bằng cách mời bia, rượu, hay thuê họ làm người mẫu chụp ảnh. Nạn nhân sẽ bị đánh thuốc mê, rồi bị xiết cổ đến chết. Thi thể của họ tiếp tục bị cưỡng bức, bị cắt xẻ và phi tang ở bãi rác. Đôi lúc Dahmer cũng giữ đầu nạn nhân lại như chiến lợi phẩm.

Cái chết tức tưởi của cậu bé người Lào

Một đêm tháng 5/1991, Dahmer đã gặp Konerak Sinthasomphone - một cậu bé người Lào 14 tuổi. Sau khi chuốc mê dược Konerak, hắn đưa cậu đến một căn hộ bốc mùi và cưỡng bức cậu.

Khoảng 2h sáng, Konerak tỉnh lại và phát hiện một người đàn ông tóc vàng đang nằm đè lên người mình. Bằng tất cả sức mạnh, Konerak đã đứng dậy và mò được ra cửa. Cậu bé hoảng loạn đến mức không nhận ra mình đang trần truồng. Đây là cơ hội duy nhất để có thể sống sót.

Sandra Smith – một nhân chứng gần đó đã nhìn thấy cậu chạy rất nhanh trong tình trạng khỏa thân nên đã gọi 911. Smith không biết cậu bé là ai, song chắc chắn cậu bé bị thương và đang hoảng loạn. Các nhân viên y tế tới trước tiên và sau đó ít phút là cảnh sát. Họ đang cố tìm hiểu điều gì đã xảy ra với cậu bé gốc Á này thì một gã đàn ông cao lớn, tóc vàng tiến đến chỗ cậu bé.

Gã tóc vàng khai rằng, Konerak là người tình của hắn và đang say rượu. Trong cơn hoảng loạn và bị ảnh hưởng bởi thuốc mê, Konerak không thể thuyết phục được cảnh sát tin mình đang bị hại. Gã tóc vàng thậm chí còn đưa cảnh sát thẻ căn cước của hắn. Nhìn thấy Konerak đã hoảng loạn chống cự gã tóc vàng trước khi cảnh sát tới, Sandra Smith ra sức can thiệp. Tuy nhiên, cảnh sát vẫn bỏ ngoài tai và lắng nghe gã đàn ông da trắng.

Để xác minh lời khai, hai viên cảnh sát đã cùng cậu bé và gã tóc vàng quay trở lại căn hộ. Nó bốc mùi dù khá ngăn nắp. Quần áo Konerak được gấp và đặt trên ghế sofa. Ngoài ra, còn có 2 tấm ảnh cậu bé mặc quần bơi màu đen. Konerak ngồi lặng trên ghế và không thể nói chuyện rành mạnh. Thậm chí, dường như cậu còn không hiểu rõ giải trình của gã đàn ông tóc vàng với cảnh sát. Hắn xin lỗi cảnh sát vì đã để người tình gây náo loạn và hứa sẽ không để chuyện như thế tái diễn.

Cảnh sát tin vào gã tóc vàng. Không có lí do nào để nghi ngờ cả. Hắn trình bày rõ ràng, rành mạch và vô cùng điềm tĩnh, trong khi cậu bé gốc Á rõ ràng đang say và mất bĩnh tĩnh. Bản thân họ cũng chẳng muốn xen vào chuyện nội bộ của những người đồng tính luyến ái. Vì thế, họ rời căn hộ và để mặc Konerak ngồi im trên ghế.

Tuy nhiên, cảnh sát đã bỏ qua không kiểm tra phòng ngủ trong căn hộ đó. Trên giường, thi thể Tony Hughes – một nạn nhân trước đó của Dahmer đã bắt đầu phân hủy. Họ không ngờ là ngay khi họ vừa đi, Dahmer đã xiết cổ cậu bé gốc Á và quan hệ tình dục với xác chết. Họ đã bỏ qua cơ hội kiểm tra hồ sơ về cái tên Jeffrey Dahmer trên tấm căn cước. Nếu làm điều đó, có thể Konerak đã không phải chết.

Thế nhưng, câu chuyện dã man này không dừng lại ở đó. Mẹ của Sandra Smith - bà Glenda Cleveland, 36 tuổi, sống ngay cạnh khu căn hộ Oxford mà Jeffrey Dahmer sinh sống. Bà đã gọi cho cảnh sát để tìm hiểu điều gì đã xảy ra với cậu bé người gốc Á. Viên cảnh sát khẳng định đó là một người trưởng thành và mọi chuyện vẫn ổn. Tuy nhiên, vài ngày sau đó, Cleveland đã gọi lại để thông báo rằng, bà đã đọc được thông tin cậu bé người Lào có tên Konerak Sinthasomphone đã mất tích, trông rất giống với cậu bé đã chạy trốn từ nhà Dahmer....

Sống ở nhà ông bà ngoại được 1 năm, Dahmer buộc phải chuyển đi do ông bà của hắn không chịu được cảnh đàn đúm, rượu chè thâu đêm suốt sáng của cháu trai và những gã đàn ông khác. Được tự do tự tại, Dahmer bắt đầu giết người không phanh.

Căn phòng rùng rợn

Đêm 22/7/1991, hai cảnh sát vùng Milwaukee đang lái xe tuần tra quanh Trường Đại học Marquette thì nhìn thấy một người đàn ông bị còng tay đang chạy hớt ha hớt hải. Tưởng rằng người này là một tên tội phạm bỏ trốn, hai cảnh sát đã tra hỏi anh ta thì được biết anh ta tên là Tracy Edwards. Edwards khai rằng mình vừa bị một người đàn ông tóc vàng hành hung và dẫn cảnh sát đến căn hộ ở khu chung cư Oxford, phố 924 North 25 th – nơi kẻ đó đang sống.

Họ gõ cửa căn hộ số 213, một người đàn ông tóc vàng khoảng 30 tuổi ló đầu ra. Sau một hồi tra hỏi và thấy nhiều điểm đáng ngờ, cảnh sát quyết định xông vào phòng ngủ của gã tóc vàng.

Bước vào phòng, hai viên cảnh sát không khỏi ngỡ ngàng trước những bức ảnh treo đầy xung quanh: Chặt tay chân, đầu người trong tủ lạnh, phanh thây, mổ bụng... Không chần chừ, hai cảnh sát còng tay gã tóc vàng và định đưa hắn về đồn cảnh sát.

Lúc một trong hai viên cảnh sát tiến về phía chiếc tủ lạnh, gã tóc vàng vội vùng vẫy và lao vào viên cảnh sát đang khống chế mình. Tuy nhiên, hắn đã không kịp ngăn viên cảnh sát nọ mở chiếc tủ lạnh ra. Đột nhiên, đóng sầm cánh cửa lại và la lớn: “Có một cái đầu ở trong tủ lạnh”. Đội tiếp viện và pháp y nhanh chóng được gọi đến để khám xét ngôi nhà. Họ không khỏi rùng mình trước mùi hôi thối bao phủ quanh căn nhà và máu me trong tủ lạnh - một cái đầu đang phân hủy.

Không dừng lại ở đó, khi mở ngăn đá phía trên ra, họ còn phát hiện thêm 3 cái đầu nữa được gói gọn gàng bên trong các túi nylon. Trong chiếc nồi áp suất góc nhà là một vài bàn tay và một dương v*t đang bị phân hủy. Cái giá phía trên chiếc nồi còn có 2 chiếc đầu lâu nữa. Ngoài ra, cảnh sát còn tìm thấy nhiều chai thuỷ tinh đựng cồn êtylic, thuốc gây mê và chất formaldehyt (dùng để bảo quản bộ phận sinh dục nam).

Những bức ảnh Dahmer chụp thi thể các nạn nhân cũng được tìm ra, trong đó có bức ảnh chụp đầu của một người đàn ông trong bồn rửa bát; cái khác lại chụp nạn nhân bị mổ phanh dọc từ cổ xuống đến háng, vết cắt rất ngọt và lộ rõ cả xương chậu. Một vài bức ảnh nữa chụp những nạn nhân trước khi bị giết trong tư thế nô lệ tình dục.

Sau khi vụ việc của Dahmer được công bố, cả thế giới rơi vào cơn chấn động. Ai cũng cố hiểu xem chuyện gì đã xảy ra trong căn hộ số 213. Không ít giả thuyết được các nhà điều tra đặt ra. Tuy nhiên, ngoài Dahmer chỉ có mình thám tử Patrick Kennedy biết, bởi ông là người duy nhất Dahmer kể cho nghe về 13 năm cuộc đời đen tối của mình.
 
Bên trên