Ngày 20 tháng 11 năm 1985, câu chuyện hàng đầu trên tờ The New York Times đó là việc cơn bão Hurricane Kate đã đi qua Florida Keys và bắc Cuba trước khi đe dọa vịnh Mexico. Tuy nhiên, cũng vào ngày hôm đó, đối với giới công nghệ, một câu chuyện lớn hơn lại diễn ra cách Hurricane Kate hàng ngàn dặm: triển lãm Comdex Las Vegas - nơi Microsoft ra mắt Windows 1.0, và bắt đầu thống trị thị trường máy tính cá nhân.
Nếu như cách đó một năm, Apple đã trở thành kẻ tiên phong bằng chiếc máy tính Macintosh với giao diện đồ họa vượt trội so với giao diện dòng lệnh, thì ở bên kia chiến tuyến, Microsoft đã ra mắt nền tảng Windows mới sau khi bị trì hoãn tới 24 tháng.
Sứ mệnh của nền tảng Microsoft Windows đó là tạo ra một hệ điều hành cho máy tính với giá phải chăng. Ở thời điểm đó, khái niệm máy tính vô cùng xa xỉ, và tệ hơn nữa - cách tương tác chủ yếu là thông qua dòng lệnh. Cụ thể như Apple Lisa được bán với giá gần 10.000 USD, hay với Visi On - một nền tảng yêu cầu người dùng phải sở hữu một hệ thống phần cứng "khủng", bao gồm ổ cứng có dung lượng trống 2,2MB và bộ nhớ RAM lên tới 512KB.
Tháng 11 năm 1983, Microsoft chính thức tiết lộ dự án Windows với giao diện đồ họa thân thiện, tích hợp menu dạng xổ xuống, các cửa số có thể sắp xếp, hỗ trợ chuột, thiết bị đồ họa rời, đa nhiệm và thậm chí các tác vụ có thể tương tác được với nhau. Bill Gates dự định sẽ tung ra nền tảng đầy hứa hẹn này vào tháng 4 năm 1984 và kỳ vọng nó sẽ có mặt trên 90% máy tính IBM vào cuối năm đó.
Tuy nhiên, Windows 1.0 phải mất tới 2 năm để hoàn thiện.
Ngày 20 tháng 11 năm 1985, Windows 1.0 được tung ra với gói ứng dụng có sẵn đầy hấp dẫn, bao gồm MS-DOS Executive, Calendar, Cardfile, Notepad, Terminal, Calculator, Clock, Reversi, Control Panel, PIF (Program Information File) Editor, Print Spooler, Clipboard, RAMDrive, Windows Write và Windows Paint.
Hai năm trời trì hoãn sản phẩm là một khoảng thời gian đủ lâu để ngành công nghiệp máy tính coi Windows 1.0 của Bill Gates là "vaporware" (bánh vẽ), thuật ngữ mỉa mai được khai sinh bởi chính từ miệng của một kỹ sư Microsoft.
Thậm chí vào tối ngày 20/11/1985 hôm đó, sự kiện ra mắt Windows 1.0 của Microsoft tại Comdex đã trở thành trung tâm của sự chế giễu. Biên tập viên Stewart Alsop của InfoWorld đã trêu Bill Gates rằng sản phẩm của Microsoft xứng đáng với giải thưởng Golden Vaporware. Còn John C. Dvorak lại trở nên nổi tiếng với phát biểu: khi Microsoft giới thiệu Windows, Steve Ballmer vẫn còn tóc.
John C. Dvorak trở nên nổi tiếng với phát biểu: khi Microsoft giới thiệu Windows, Steve Ballmer vẫn còn tóc.
Mặc dù số liệu kinh doanh không đạt như mong đợi, thế nhưng sự ra mắt của Windows 1.0 đã khiến công nghệ thay đổi một cách nhanh chóng, và biến hệ điều hành Windows trở thành đế chế thống trị thị trường máy tính cá nhân sau đó hàng chục năm. Có lẽ cách đây 30 năm, không ai có thể tiên đoán được điều đó.
"Nhớ lại thật buồn cười, chúng tôi chế giễu họ khắp nơi. Bởi vì lúc đó chúng tôi đã có một chương trình quản lý cửa sổ cao cấp hơn hẳn, còn mấy anh chàng này lại đem tới một hệ thống cực kỳ ngây thơ và thảm hại. Chúng tôi không biết họ đã tạo ra thứ quái quỷ gì nữa", Nathaniel Borenstein, hiện đang làm việc cho Trung tâm IT của ĐH Carnegie Mellon nhớ lại.
Nathaniel Borenstein là một trong những người đã tạo ra MIME - chuẩn Internet dùng để nhận và gửi dữ liệu đa phương tiện.
Bài học rút ra ở đây chính là - ngay cả nhận định của những chuyên gia hoàn hảo nhất đều có thể sai. Và với sự thành công của Windows hiện nay, Borenstein cho rằng "đừng bao giờ đánh giá thấp sự kiên trì".
Windows 8 và Windows 1.0
Có một sự giống nhau đến lạ kỳ giữa Windows 1.0 và Windows 8.0 đó là cố gắng đơn giản hóa máy tính mà không phí phạm những phần mềm cũ. Windows 8 (và 8.1) sở hữu giao diện Metro (vốn gây nhiều tranh cãi), còn Windows 1.0 lại chạy trên nền tảng MS-DOS. Trong thực tế, nếu muốn sử dụng Windows thế hệ đầu tiên, bạn sẽ phải cài đặt nó trên một chiếc máy tính đã có sẵn MS-DOS 2.0.
Cũng như Windows 8, phiên bản đầu tiên của hệ điều hành này khiến các nhà phát triển phần mềm gặp nhiều khó khăn trong khâu phát triển dựa trên mô hình giao diện mới. Tháng 11 năm 1983, ngay sau khi Microsoft tiết lộ dự án, InfoWorld đã chỉ ra ngay gốc rễ của vấn đề. Đó là một số lượng lớn các phần mềm sẽ hoạt động không hiệu quả ở chế độ cửa sổ, và có nguy cơ chiếm hết màn hình.
Trong những năm tháng đó, và cả hiện tại, Microsoft dường như đang đi đúng hướng và tận hưởng thành quả mà họ đã tạo ra. Windows 8 có thể khiến nhiều người cảm thấy khó chịu, tuy nhiên sự ra đời của phiên bản 8.1 đã thay đổi dần quan niệm của đa số người dùng. Metro và cách tiếp cận giao diện ngày càng hợp lý đã mở ra một hướng đi mới đầy hứa hẹn.
Tất nhiên, trong những năm thuộc tập kỷ 80, ngành công nghiệp máy tính của thế giới là một vùng đất hoang dại, và mọi chuyện đã xảy ra quá lâu. Dù sao đi nữa, bài học về sự thay đổi và tính kiên trì vẫn còn nguyên giá trị.
Một số hình ảnh về sự tiến hóa của hệ điều hành Windows qua thời gian
Nếu như cách đó một năm, Apple đã trở thành kẻ tiên phong bằng chiếc máy tính Macintosh với giao diện đồ họa vượt trội so với giao diện dòng lệnh, thì ở bên kia chiến tuyến, Microsoft đã ra mắt nền tảng Windows mới sau khi bị trì hoãn tới 24 tháng.
Sứ mệnh của nền tảng Microsoft Windows đó là tạo ra một hệ điều hành cho máy tính với giá phải chăng. Ở thời điểm đó, khái niệm máy tính vô cùng xa xỉ, và tệ hơn nữa - cách tương tác chủ yếu là thông qua dòng lệnh. Cụ thể như Apple Lisa được bán với giá gần 10.000 USD, hay với Visi On - một nền tảng yêu cầu người dùng phải sở hữu một hệ thống phần cứng "khủng", bao gồm ổ cứng có dung lượng trống 2,2MB và bộ nhớ RAM lên tới 512KB.
Tháng 11 năm 1983, Microsoft chính thức tiết lộ dự án Windows với giao diện đồ họa thân thiện, tích hợp menu dạng xổ xuống, các cửa số có thể sắp xếp, hỗ trợ chuột, thiết bị đồ họa rời, đa nhiệm và thậm chí các tác vụ có thể tương tác được với nhau. Bill Gates dự định sẽ tung ra nền tảng đầy hứa hẹn này vào tháng 4 năm 1984 và kỳ vọng nó sẽ có mặt trên 90% máy tính IBM vào cuối năm đó.
Tuy nhiên, Windows 1.0 phải mất tới 2 năm để hoàn thiện.
Ngày 20 tháng 11 năm 1985, Windows 1.0 được tung ra với gói ứng dụng có sẵn đầy hấp dẫn, bao gồm MS-DOS Executive, Calendar, Cardfile, Notepad, Terminal, Calculator, Clock, Reversi, Control Panel, PIF (Program Information File) Editor, Print Spooler, Clipboard, RAMDrive, Windows Write và Windows Paint.
Hai năm trời trì hoãn sản phẩm là một khoảng thời gian đủ lâu để ngành công nghiệp máy tính coi Windows 1.0 của Bill Gates là "vaporware" (bánh vẽ), thuật ngữ mỉa mai được khai sinh bởi chính từ miệng của một kỹ sư Microsoft.
Thậm chí vào tối ngày 20/11/1985 hôm đó, sự kiện ra mắt Windows 1.0 của Microsoft tại Comdex đã trở thành trung tâm của sự chế giễu. Biên tập viên Stewart Alsop của InfoWorld đã trêu Bill Gates rằng sản phẩm của Microsoft xứng đáng với giải thưởng Golden Vaporware. Còn John C. Dvorak lại trở nên nổi tiếng với phát biểu: khi Microsoft giới thiệu Windows, Steve Ballmer vẫn còn tóc.
John C. Dvorak trở nên nổi tiếng với phát biểu: khi Microsoft giới thiệu Windows, Steve Ballmer vẫn còn tóc.
Mặc dù số liệu kinh doanh không đạt như mong đợi, thế nhưng sự ra mắt của Windows 1.0 đã khiến công nghệ thay đổi một cách nhanh chóng, và biến hệ điều hành Windows trở thành đế chế thống trị thị trường máy tính cá nhân sau đó hàng chục năm. Có lẽ cách đây 30 năm, không ai có thể tiên đoán được điều đó.
"Nhớ lại thật buồn cười, chúng tôi chế giễu họ khắp nơi. Bởi vì lúc đó chúng tôi đã có một chương trình quản lý cửa sổ cao cấp hơn hẳn, còn mấy anh chàng này lại đem tới một hệ thống cực kỳ ngây thơ và thảm hại. Chúng tôi không biết họ đã tạo ra thứ quái quỷ gì nữa", Nathaniel Borenstein, hiện đang làm việc cho Trung tâm IT của ĐH Carnegie Mellon nhớ lại.
Nathaniel Borenstein là một trong những người đã tạo ra MIME - chuẩn Internet dùng để nhận và gửi dữ liệu đa phương tiện.
Bài học rút ra ở đây chính là - ngay cả nhận định của những chuyên gia hoàn hảo nhất đều có thể sai. Và với sự thành công của Windows hiện nay, Borenstein cho rằng "đừng bao giờ đánh giá thấp sự kiên trì".
Windows 8 và Windows 1.0
Có một sự giống nhau đến lạ kỳ giữa Windows 1.0 và Windows 8.0 đó là cố gắng đơn giản hóa máy tính mà không phí phạm những phần mềm cũ. Windows 8 (và 8.1) sở hữu giao diện Metro (vốn gây nhiều tranh cãi), còn Windows 1.0 lại chạy trên nền tảng MS-DOS. Trong thực tế, nếu muốn sử dụng Windows thế hệ đầu tiên, bạn sẽ phải cài đặt nó trên một chiếc máy tính đã có sẵn MS-DOS 2.0.
Cũng như Windows 8, phiên bản đầu tiên của hệ điều hành này khiến các nhà phát triển phần mềm gặp nhiều khó khăn trong khâu phát triển dựa trên mô hình giao diện mới. Tháng 11 năm 1983, ngay sau khi Microsoft tiết lộ dự án, InfoWorld đã chỉ ra ngay gốc rễ của vấn đề. Đó là một số lượng lớn các phần mềm sẽ hoạt động không hiệu quả ở chế độ cửa sổ, và có nguy cơ chiếm hết màn hình.
Trong những năm tháng đó, và cả hiện tại, Microsoft dường như đang đi đúng hướng và tận hưởng thành quả mà họ đã tạo ra. Windows 8 có thể khiến nhiều người cảm thấy khó chịu, tuy nhiên sự ra đời của phiên bản 8.1 đã thay đổi dần quan niệm của đa số người dùng. Metro và cách tiếp cận giao diện ngày càng hợp lý đã mở ra một hướng đi mới đầy hứa hẹn.
Tất nhiên, trong những năm thuộc tập kỷ 80, ngành công nghiệp máy tính của thế giới là một vùng đất hoang dại, và mọi chuyện đã xảy ra quá lâu. Dù sao đi nữa, bài học về sự thay đổi và tính kiên trì vẫn còn nguyên giá trị.
Một số hình ảnh về sự tiến hóa của hệ điều hành Windows qua thời gian
Windows 1.0 được phát hành vào năm 1985. Thật không may cho Microsoft bởi nó không thể truyền cảm hứng tới người dùng - đặc biệt là khi so sánh với giao diện đồ họa thân thiện trên Macintosh của Apple. Windows 2.0 được phát hành sau đó 2 năm, vào tháng 12/1987. Điều tốt nhất có thể nói về hệ điều hành này là Microsoft vẫn đang làm việc. Năm 1990, Windows 3.0 xuất hiện. Chắc chắn đây là một hệ điều hành đầy quyến rũ vào thời điểm đó. Nó mang đến khả năng xử lý đa nhiệm tốt hơn dựa trên bộ nhớ ảo. Đặc biệt, đây là lần đầu tiên Microsoft thu hút được sự quan tâm đến từ cộng đồng phát triển phần mềm. Nút Start xuất hiện trên Windows 95 và tiếp tục hiện diện trong suốt nhiều năm sau đó. Windows NT - phiên bản 32-bit đầu tiên của Windows. Phát hành vào ngày 25 tháng 6 năm 1998, Microsoft gọi Windows 98 là phiên bản Windows đầu tiên được thiết kế đặc biệt cho người tiêu dùng. Ngoài ra, nó cũng là phiên bản cuối cùng hoạt động dựa trên MS-DOS. Windows 2000 là biến thể của Windows NT với những cải thiện về tốc độ và tính ổn định. Nó được thiết kế hướng đến môi trường doanh nghiệp. Windows Millennium Edition, hoặc Windows ME. Hệ điều hành này được xem là bước chuyển tiếp giữa Windows 98 và Windows XP. Windows XP, một trong những phiên bản phổ biến nhất của Windows với màu xanh đặc trưng thay thế cho màu xám. Windows Vista mang đến nhiều cải tiến, nhưng lại yêu cầu cao về phần cứng và đi kèm với một số tính năng bảo mật "quá tay" khiến người dùng thông thường lẫn doanh nghiệp ngán ngẩn. Windows 7 trông tinh tế hơn nhờ thiết kế tối giản. Microsoft thể hiện động thái tích cực với hệ điều hành Windows 8 ra mắt vào tháng 10 năm 2012. Giao diện mới và màn hình Start theo kiểu lát gạch đã nhận được không ít chỉ trích từ một bộ phận nhỏ người dùng. Windows 8.1 mang đến một số tính năng mới, hỗ trợ tốt hơn cho máy tính bảng và cho phép người dùng vào thẳng Desktop ngay sau khi khởi động. |
Tổng hợp
Chỉnh sửa lần cuối: