Những Vụ Án Trên Thế Giới

hoahongden12

Active Member

Vào ngày 2/9/1999, gia đình ông Ronald Cohen sống tại Jericho, Mỹ, bắt đầu thu dọn đồ đạc để chuyển đi nơi khác. Khi xuống khu vực tầng hầm, ông Ronald Cohen đặc biệt chú ý đến chiếc thùng sắt nằm ở một góc tối.

Kể từ ngày ông chuyển đến đây vào 9 năm trước, chiếc thùng sắt đã có ở đó, nhưng ông chưa bao giờ tìm hiểu xem nó là gì.

Ông quyết định sẽ dọn chiếc thùng đó đi giúp chủ nhà mới sắp chuyển đến. Tuy nhiên, nhân viên dọn nhà đã từ chối di chuyển chiếc thùng vì nó quá nặng.

Ông Ronald Cohen quyết định mở nắp thùng ra xem và kinh hãi khi nhìn thấy bên trong là xác một phụ nữ, chưa phân hủy hết.

Cảnh sát ngay lập tức được gọi đến hiện trường vụ việc. Sau khi kiểm tra, họ xác định thi thể được nhúng trong chất dịch màu xanh, có vẻ là chất dùng để "ướp xác".

Ngoài ra, ví và đồ dùng cá nhân của người phụ nữ cũng được tìm thấy, cùng với đó là những hạt nhựa nhỏ và lá cây bằng vải nhựa.

Qua khám nghiệm tử thi, cảnh sát xác định cô gái tử vong do chấn thương não bởi một vật cùn. Phía sau đầu có những vết rách, xương sọ vỡ vụn ở một số vị trí, vết máu quanh các vết thương.

Điều này chứng tỏ một điều chắc chắn rằng nạn nhân đã bị tấn công khi còn sống.

Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, thi thể nạn nhân đã được ngâm hóa chất nên quá trình phân hủy diễn ra chậm, trên thực tế người phụ nữ đã qua đời hơn 30 năm trước.

Các nhà phân tích cho hay, nạn nhân là người da trắng, có thể là gốc Tây Ban Nha, tuổi từ 20 đến 30.

Đặc biệt, người phụ nữ còn đang mang một bào thai đã phát triển gần như đầy đủ. Từ những thông tin ít ỏi ấy, cảnh sát chuyển hướng điều tra về chiếc thùng sắt.

Theo số hiệu bên ngoài, chiếc thùng sản xuất vào năm 1965 tại một công ty sản xuất hóa chất tại Liden, New Jersey.

Chiếc thùng chứa một số giấy tờ đi kèm, trong đó có quyển sổ danh bạ nhưng do đã quá lâu nên toàn bộ thông tin trên giấy tờ đều biến mất.

Các nhà giám định phải sử dụng máy chuyên dụng để chiếu các giấy tờ bằng ánh sáng hồng ngoại và may mắn lấy được một số thông tin về tên, địa chỉ và số điện thoại của những người trong danh bạ.

Tuy nhiên khi liên lạc, phần lớn số điện thoại đã không còn hữu dụng, hoặc chủ nhân chuyển đi nơi khác.

Vụ án gần như đi vào ngõ cụt. Các điều tra viên lại chuyển hướng tập trung vào chủ nhân của căn hộ, nơi phát hiện ra thi thể, đã sống vào những năm 1960.

Qua thông tin từ những cư dân sống lâu năm tại khu vực đó, họ tìm được chủ nhân căn hộ là ông Howard Elkins, giờ đã nghỉ hưu và sống tại Boca Raton, Florida.

Vào thời gian đó, Howard Elkins là một trong những cổ đông lớn của Melrose – công ty chuyên sản xuất hoa nhựa tại Manhattan.

Theo thông tin từ nhà sản xuất hóa chất, chất lỏng "ướp xác" kia chính là hóa chất chuyên dùng để nhuộm màu hoa giả.

Sau khi thông tin về vụ án được đăng tải trên các phương tiện thông tin, cảnh sát đã nhận được một cuộc gọi nặc danh.

Người này tố cáo với cảnh sát rằng ông Howard Elkins từng có quan hệ tình cảm với một nữ công nhân gốc Tây Ban Nha làm việc trong nhà máy của ông ta.

Nữ công nhân ấy tên là Reyna Marroquin, sinh năm 1941, quốc tịch El Salvado. Vào năm 1969, có lần Reyna đã gọi cho cô cầu cứu vì lo sợ bị người tình giết chết.

Người này sau đó đã báo cảnh sát nhưng những gì cô cung cấp không đủ để cảnh sát có thể lập hồ sơ. Kể từ đó người phụ nữ cũng không còn được nghe thấy tin tức từ Reyna nữa.

Vào năm 1972, Howard bán toàn bộ công ty sản xuất hoa giả cùng căn nhà ở Jericho rồi dọn đến Florida sinh sống. Cảnh sát đến Florida tìm gặp ông Howard Elkins lúc này đã hơn 70 tuổi.

Khi bị thẩm vấn, người đàn ông phủ nhận có liên quan đến thi thể xấu số và cũng không đồng ý lấy mẫu máu để đối chiếu ADN với bào thai được tìm thấy.

Không còn cách nào khác, cảnh sát đã rời đi với lời cảnh báo rằng họ sẽ xin phán quyết từ tòa và quay lại lấy mẫu máu.

Ngay sau khi cảnh sát rời đi, ông Howard Elkins đã ra ngoài mua một khẩu súng. Cảnh sát và con trai phát hiện ông ta đã tự vẫn trong gara vào chiều hôm đó.

Mẫu máu thu được tại hiện trường cũng hoàn toàn trùng khớp với mẫu ADN của thai nhi trong bụng nạn nhân.

Theo điều tra của nhà chức trách sau đó, vào năm 1966, cô Reyna Angelica Marroquin, đến từ El Salvador đã đến Mỹ với mơ ước được trở thành công dân của miền đất hứa.

Khi làm việc trong một xưởng sản xuất hoa nhựa, Reyna đã quan hệ bất chính với ông chủ của mình là Howard Elkins, người đã có vợ con.

Sau khi biết được mình đã mang thai, Reyna nhanh chóng báo với người tình và yêu cầu ông ta có trách nhiệm với cô cùng đứa con trong bụng nhưng người phụ nữ không nhận được sự đồng ý.

Các công tố viên cho rằng Howard Elkins đã dụ Reyna đến nhà máy nơi cô làm việc vào buổi tối và đánh cô đến chết. Sau đó, ông ta cho xác vào một thùng hóa chất và chuyển về nhà mình tại Long Island với ý định sẽ ném xuống biển.

Tại nhà mình, ông ta đã nhồi đống hạt nhựa vào thùng chứa với hy vọng sẽ làm tăng cân nặng, giúp chiếc thùng dễ chìm xuống biển.

Tuy nhiên sau đó, chiếc thùng đã nặng tới hơn 100kg nên ông ta không thể di chuyển đi đâu. Vì vậy, ông ta quyết định cho chiếc thùng vào một góc kín ở trong tầng hầm.

Tiếp đó Howard Elkins bán nhà và cùng gia đình chuyển tới nơi ở mới tại bang Florida, sống yên ổn hơn 30 năm sau đó với tội ác ghê rợn được che giấu của mình.

Vụ án khép lại với việc Howard Elkins tự trả giá cho tội lỗi của bản thân ở tuổi 70.

Tuy quá trình tìm ra thủ phạm không quá phức tạp nhưng vụ án vẫn để lại ấn tượng sâu đậm trong giới điều tra vì nơi cất giấu thi thể tưởng chừng như là nguy hiểm nhất, lại là nơi an toàn nhất.

Chiếc thùng đã nằm yên trong tầng hầm của ngôi nhà hơn 30 năm sau khi trải qua nhiều đời chủ nhân.
 

hoahongden12

Active Member

Trước báo giới, nhà văn nổi tiếng Michael Peterson khẳng định ông yêu bà Kathleen tha thiết và không bao giờ giết vợ. Song cảnh sát phát hiện hàng loạt điều bất thường. Khi kiểm tra máy tính của Kathleen, nhóm điều tra thấy bà gửi một thư điện tử cho đồng nghiệp vào khoảng 24h, nghĩa là thời điểm nạn nhân sử dụng máy tính sớm hơn rất nhiều so với câu chuyện của người chồng. Ngoài ra, Michael lưu rất nhiều ảnh nam giới đồng tính trong máy tính. Nhóm điều tra thấy một thư điện tử nhà văn gửi tới một trai bán dâm với nội dung gặp nhau để quan hệ tình dục.

Các thư điện tử khác của Michael cho thấy ông ta có quan hệ tình cảm với một người cùng giới. Nhóm điều tra nhận định rất có thể Kathleen phát giác mối quan hệ ngang trái và Michael tức giận hoặc xấu hổ nên đã giết bà. Một điều bất ngờ nữa là, dù khá nổi tiếng, Michael không hề tạo ra thu nhập trong hơn 2 năm gần nhất, nghĩa là cả nhà sống nhờ lương của Kathleen. Ngoài ra, Michael là người thừa hưởng tiền bồi thường trên hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có mệnh giá 2 triệu USD của vợ. Đây cũng có thể là một động cơ giết người nữa.

Để có chứng cứ đáng thuyết phục, nhóm điều tra xem kỹ quần soóc Michael mặc vào đêm án mạng xảy ra. Hàng loạt dấu vết trên quần cho thấy ai đó cố rửa sạch những vệt máu ở mặt trước. Nhưng khi quan sát mặt trong của quần, họ thấy vài vết máu nhỏ ở vùng đũng.

Sự xuất hiện của những vết máu ở mặt trong của đũng quần cho thấy, rất có thể Michael đứng ở phía trên cơ thể vợ và đánh bà bằng vật cứng khiến máu văng qua ống quần và bám vào mặt trong. Khi dùng nước để rửa vết máu, những kẻ giết người chỉ chú ý tới máu ở phần bên ngoài quần, chứ hiếm khi nghĩ tới khả năng máu bám ở mặt trong.

Một dấu giày dính máu tồn tại trên quần của nạn nhân. Nó trùng khớp với đế giày của Michael. Rất có thể Michael vô tình giẫm lên chân của vợ sau khi đánh bà và máu nạn nhân dính vào đế giày của ông ta.

Trong quá trình điều tra vụ án, cảnh sát phát hiện một sự việc bất thường khác. 16 năm trước, Michael và người vợ đầu sống ở Đức. Họ chơi thân với Liz Ratlift, một phụ nữ rất giàu. Quan hệ của họ thân thiết tới mức Liz viết trong di chúc rằng Michael sẽ thừa hưởng một phần tài sản của bà và nuôi hai cô con gái nếu chẳng may người phụ nữ này qua đời. Vào một ngày nọ, người thân phát hiện xác của Liz ở chân cầu thang.

Hồi đó, cảnh sát Đức kết luận cái chết của Liz là một tai nạn. Nhưng khi cảnh sát Mỹ sang Đức để khai quật tử thi Liz và khám nghiệm, họ phát hiện 7 vết nứt trên hộp sọ - một tình tiết giống hệt vụ án mạng của Kathleen.

Những vết nứt trên sọ Kathleen cho thấy một vật dài và hẹp đập vào đầu bà. Trong nhiều ảnh gia đình nạn nhân, cảnh sát thấy một ống thổi được dựng sát lò sưởi. Nhưng sau vụ án mạng, nó đã biến mất.

Nhóm điều tra tin rằng Kathleen chết vài giờ trước khi Michael gọi 911 vào sáng sớm ngày 9/12/2001. Hôm ấy, Kathleen lên gác, bật máy tính của chồng để gửi thư điện tử cho đồng nghiệp. Bà vô tình phát hiện bằng chứng về việc Michael là người đồng tính và có quan hệ vụng trộm với một người đàn ông khác, cũng như thường xuyên quan hệ tình dục với trai bán dâm. Quá sửng sốt, Kathleen bước xuống tầng trệt để chất vấn chồng.

Nổi giận và xấu hổ vì bí mật bại lộ, nhà văn cầm ống thổi lò sưởi đập vào đầu vợ nhiều nhát khi bà bước lên cầu thang để trở lại tầng 2. Sau đó ông ta vô tình giẫm lên chân của vợ, để lại dấu giày dính máu trên quần của bà. Trong lúc người phụ nữ bất tỉnh, Michael tháo đôi giày rồi dàn dựng hiện trường.

Trong lúc cố gắng sắp xếp hiện trường giả và lau máu trên tường, đột nhiên Michael nhận thấy Kathleen cử động. Bà đứng dậy và giẫm lên máu. Ngay lập tức nhà văn đẩy vợ ngã xuống rồi vớ ống thổi lò và tiếp tục đánh khiến máu văng vào phía trong quần soóc ông ta mặc. Máu nạn nhân cũng văng lên khoảng tường mà Michael vừa lau.

Sau khi gây án, Michael cầm ống thổi lò, mở cửa sau và bước ra ngoài để ném hung khí. Máu trên tay nhà văn dính vào cửa và rơi xuống lối đi ở sân sau. Giấu xong hung khí, ông ta cố gắng rửa sạch máu ở bên ngoài quần soóc, nhưng không hề biết máu cũng văng vào bên trong quần. Xong xuôi mọi việc, Michael gọi 911.

Với những bằng chứng chắc chắn, cảnh sát bắt Michael Peterson vì tội sát hại vợ. Trong phiên xử tại tòa án sơ thẩm thành phố Durham, bang North Carolina vào tháng 6/2003, bồi thẩm đoàn gồm 12 người kết luận bị cáo phạm tội cố ý giết người. Bị cáo lãnh án chung thân.

Các con gái của nạn nhân Kathleen bật khóc khi tòa tuyên án cha dượng. Cảnh sát tin rằng Michael Peterson cũng là kẻ gây nên cái chết của bà Liz Ratlift bên Đức. Song với bản án chung thân dành cho bị cáo, các công tố viên nhận thấy họ không cần điều tra cái chết của Liz Ratlift.
 

hoahongden12

Active Member

Ngày 18/9/1999, vợ cũ của Patrick McRea (43 tuổi, sống tại thành phố Des Moines, bang Iowa, Mỹ) phát hiện chồng chết trong nhà riêng với nhiều vết đâm trên cơ thể. Dấu vết tại hiện trường cho thấy nạn nhân mở cửa để hung thủ vào nhà. Vụ tấn công bắt đầu từ phòng khách và nạn nhân gục ngã ở cửa trước của ngôi nhà. Hung thủ vào buồng tắm sau khi sát hại Patrick.

Patrick McRea là một kỹ thuật viên video của Đài truyền hình. Anh ly hôn vợ năm 1997, rất quan tâm tới hai con.

Có vẻ như cướp tài sản là động cơ của vụ án mạng, bởi hung thủ cắt túi quần của Patrick để lấy ví. Ngoài ra nhiều quần, áo của nạn nhân cũng bị lôi ra khỏi tủ và vứt khắp nơi trong nhà. Cảnh sát thấy một số vết máu trên tấm rèm - dấu hiệu của việc hung thủ vén rèm để nhìn ra ngoài sau khi đâm nạn nhân.

Nhóm điều tra lấy hơn 70 mẫu vật dính máu trong nhà Patrick để xét nghiệm DNA, song vết máu đáng chú ý nhất xuất hiện trên một vỏ chăn trên giường. Vì nạn nhân chỉ di chuyển từ phòng khách ra cửa trước, rất có thể đây là máu của hung thủ.

Sau khi phân tích DNA, chuyên gia kết luận vết máu trên vỏ chăn là hỗn hợp máu của 2 người. Một người chính là Patrick, còn người kia là một phụ nữ. Như vậy, rất có thể hung thủ là nữ giới và tự gây thương tích trong quá trình gây án.

Cảnh sát thấy khá nhiều dấu giày chồng lên nhau ở bên ngoài ngôi nhà. Vị trí của và hướng của mũi giày cho thấy hung thủ đã rời khỏi ngôi nhà rồi quay trở lại vì một lý do nào đó. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy Patrick chết khoảng 48 giờ trước khi vợ anh phát hiện xác, tức là vào tối 16/10/1999.

Một số người cho biết, vào tối hôm ấy Patrick tới một câu lạc bộ múa thoát y mang tên Outer Limits trong thành phố Des Moines.

Một người quản lý câu lạc bộ xác nhận Patrick thường đến đây khoảng 1-2 lần mỗi tuần. Vào đêm án mạng xảy ra, anh đến sớm hơn so với thường lệ và cũng thực hiện một hành động lạ: Anh yêu cầu một nữ vũ công có tên Laura England phục vụ riêng. Sau cuộc gặp đó, Patrick chết và Laura cũng biến mất.

Cuối cùng cảnh sát tìm ra Laura England. Song nữ vũ công khẳng định cô ta không hề phục vụ riêng Patrick và cáo buộc người quản lý của cô ta nhầm lẫn. DNA của Laura cũng không khớp với DNA từ vết máu trên vỏ chăn. Vì thế cảnh sát thả cô ta.

Trong vòng 5 năm tiếp theo họ không thu thêm được manh mối đáng giá nào và vụ án rơi vào thế bế tắc.

Thế rồi vào một ngày trong năm 2004, nhóm điều tra nhận cú điện thoại từ Sở Cảnh sát thành phố Lincoln, bang Nebraska, Mỹ. Cảnh sát thành phố Lincoln cho biết, họ bắt một người đàn ông mang tên Mars Davis vì tội tàng trữ ma túy. Mars Davis đưa ra một điều kiện: Anh ta sẽ cung cấp thông tin về vụ án mạng của Patrick McRea để đổi lấy mức án nhẹ hơn.

Mars Davis khai rằng anh ta từng cặp kè với Andrea Morris - một nữ vũ công khỏa thân làm việc cho câu lạc bộ Outer Limits. Vào đêm 16/10/1999, Mars đón Andrea sau khi câu lạc bộ đóng cửa. Andrea nói với bạn trai rằng một khách hàng thuê cô ta biểu diễn tại nhà riêng. Sau khi chở người tình tới nhà của khách hàng, Mars nói anh ta sẽ quay lại sau một giờ rồi tới một cơ sở rửa xe để vệ sinh ôtô.

Khi Mars trở lại nhà của khách hàng để đón Andrea, anh ta thấy máu trên áo, đồ lót, tất và tóc của nữ vũ công. Vẻ mặt thất thần cùng những lời nói bấn loạn của người tình khiến Mars nghi cô ta đã thực hiện hành vi mờ ám nào đó. Trước thái độ cương quyết của Mars, nữ vũ công thừa nhận cô ta giết vị khách hàng và tên của nạn nhân là Patrick McRea.

Cặp tình nhân sau đó vào một nhà trọ ven đường để nghỉ ngơi. Vài giờ sau, Andrea phát hiện cô ta quên ví ở nhà Patrick. Mars đưa nữ vũ công trở lại nhà nạn nhân để lấy ví. Anh ta thấy mọi thứ trong ví đều dính máu.

Cảnh sát thành phố Des Moines có rất nhiều thông tin nhờ lời khai của Mars Davis, song anh ta nói thật hay không? Liệu anh ta có tham gia vào quá trình gây án hay không? Việc đầu tiên mà cảnh sát cần thực hiện là tìm tung tích của Andrea Morris. Họ phát hiện cô ta vừa ra khỏi trại giam ở bang Nebraska sau khi thực hiện án tù 2 năm vì tội tàng trữ ma túy.

Trước khi trả tự do cho Andrea, ban quản lý nhà tù phải lưu lại DNA của cô ta. Vì thế cảnh sát thành phố Des Moines yêu cầu nhà tù cung cấp mẫu DNA. Kết quả đối chiếu cho thấy nó trùng khớp với DNA từ giọt máu trên vỏ chăn tại hiện trường

Cảnh sát bắt Andrea tại nhà ở thành phố Lincoln vào năm 2005 vì tội sát hại Patrick. Nhưng bất ngờ thay, Andrea tuyên bố cô ta vô tội và Mars - người tố cáo cô ta mới là hung thủ.

Theo lời khai của cựu vũ công, cô ta phục vụ Patrick tại nhà riêng và người đàn ông ly hôn vợ muốn quan hệ tình dục. Phát hiện hành vi sàm sỡ của Patrick, Mars xông vào nhà và đâm người đàn ông trung niên.

Song những vết giày bên trong và bên ngoài ngôi nhà trùng khớp với đế giày mà Andrea sử dụng, trong khi chúng nhỏ hơn nhiều so với cỡ giày của Mars. Ngoài ra các điều tra viên cũng không thấy bất kỳ vết máu nào của Mars tại hiện trường vụ án mạng.

Các công tố viên tin rằng ngay từ khi bước vào nhà của Patrick, Andrea đã nảy ý định giết khách hàng để cướp tài sản. Trong lúc chiều chuộng người đàn ông trung niên, cô ta rút con dao trong giày rồi đâm Patrick. Theo bản năng, nạn nhân đấm vào mũi Andrea rồi chạy ra phòng khách. Cú đấm khiến Andrea nổi đóa. Cô ta đuổi theo Patrick rồi đâm tổng cộng 6 nhát khiến nạn nhân chết vì mất nhiều máu.

Sau khi đoạt mạng khách hàng, Andrea cắt túi sau của nạn nhân để lấy ví rồi lục tung đồ đạc để tìm tài sản quý. Cô ta cũng cố gắng xóa những vết máu trong nhà. Trong quá trình xóa dấu vết, một giọt máu mũi của nữ vũ công rơi xuống tấm vỏ chăn trên giường. Đó chính là thứ giúp cảnh sát xác định danh tính hung thủ. Vết máu trên tấm rèm cửa sổ cho thấy cô ta vén rèm để xem người tình đã tới đón hay chưa.

Khi Andrea rời khỏi ngôi nhà rồi quay trở lại để lấy ví, cô ta để lại những dấu giày theo chiều trái ngược bên ngoài ngôi nhà.

Trong phiên tòa vào năm 2007, Andrea Morris vẫn khẳng định cô ta vô tội. Song tòa tuyên bị cáo án tù chung thân không ân xá vì tội giết anh Patrick McRea.
 

hoahongden12

Active Member

Ngày 13/5/2003, một vụ án mạng xảy ra trên con đường trong khu rừng ở thành phố Concord, bang California, Mỹ. Vụ án gây chấn động cả thành phố, hung thủ ra tay trên đoạn đường rất nhiều người đi qua vào ban ngày.

Nạn nhân là Kathleen Aiello-Loreck (49 tuổi) đã kết hôn, có 3 con. Là thư ký của một công ty, Kathleen thường xuyên rời khỏi văn phòng, đi bộ qua đoạn đường mòn để về nhà vào buổi trưa. Trong quá trình đi bộ, cô hay tranh thủ gọi điện thoại cho bạn bè hoặc người thân.

Hôm án mạng xảy ra, Kathleen nói chuyện với chồng đang công tác ở châu Âu trong lúc bước trong rừng. Đột nhiên người chồng không thấy cô nói gì nữa. Linh tính chuyện chẳng lành, người chồng gọi điện thoại cho một đồng nghiệp của Kathleen rồi báo cảnh sát. Trong quá trình tìm kiếm manh mối trong rừng, một cảnh sát thấy vết máu mới trên đường.

Sau đó viên cảnh sát thấy thi thể Kathleen trong một khu vực có nhiều bụi rậm. Quần, áo của cô vương vãi xung quanh thi thể, dấu hiệu cho thấy hung thủ cưỡng hiếp nạn nhân trước khi chết. Tuy nhiên, các nhà điều tra không thấy điện thoại của người phụ nữ. Xe cứu thương tới hiện trường để đưa Kathleen tới bệnh viện, song cô tử vong trên đường.

Khi kiểm tra dữ liệu cuộc gọi của nhà mạng, cảnh sát phát hiện ai đó đã sử dụng điện thoại của Kathleen sau khi án mạng xảy ra. Lần theo dấu vết các cuộc gọi, họ xác định người sử dụng điện thoại là Juan Sanchez, một thanh niên 23 tuổi.

Juan Sanchez khẳng định anh ta nhặt được chiếc điện thoại khi đạp xe trong rừng. Thanh niên 23 tuổi cũng nói anh ta không tấn công Kathleen và cũng không thấy vết máu trên đường.

Nhóm điều tra tìm thấy một thanh sắt hình chữ V với những lỗ xếp thành hai hàng gần vị trí thi thể Kathleen. Nó là một phần của hàng rào gần đường. Cảnh sát thấy máu của nạn nhân trên thanh sắt, song hung thủ không để lại dấu vân tay. Chuyên gia pháp y cũng thấy nhiều vết thương do vật cứng gây nên trên đầu và cơ thể nạn nhân. Bộ phận sinh dục của người phụ nữ xấu số chứa tinh dịch.

DNA từ tinh dịch trên cơ thể Kathleen không khớp với kho dữ liệu DNA của tội phạm trên toàn nước Mỹ và cũng không khớp với DNA của Juan Sanchez.

Để có thêm manh mối, nhóm điều tra thẩm vấn tất cả những người từng di chuyển qua đoạn đường trong rừng quanh thời điểm án mạng xảy ra. Qua lời khai của nhiều người, họ nhận thấy một câu chuyện đáng chú ý nhất, theo đó một người đàn ông da trắng, tóc vàng, trạc 30-35 tuổi và chiều cao khoảng 1,8 m đứng bên cạnh hàng rào sắt. Anh ta béo nhưng không có cơ bắp.

Một họa sĩ giúp nhóm điều tra phác thảo chân dung của người đàn ông đáng ngờ từ lời kể của hai nhân chứng nhớ rõ mặt nghi phạm nhất. Hai nhân chứng này không biết nhau.

Từ thông tin do hai nhân chứng cung cấp, họa sĩ vẽ hai chân dung. Ngoại trừ cặp kính, khuôn mặt của người đàn ông trong hai bức vẽ giống hệt nhau. Điều đó chứng tỏ hai nhân chứng cùng gặp một người.

Bằng cách sử dụng chó nghiệp vụ và khoanh vùng kẻ nghi vấn, cảnh sát nhận thấy một người đàn ông sống gần khu rừng có khuôn mặt giống chân dung nghi phạm. Mark Fisher, tên người đàn ông, từng có tiền án và thường xuyên thực hiện hành vi bạo lực với người thân, cảnh sát.

Nhưng khi cảnh sát tới nhà Mark, họ nhận tin sốc: Anh ta đã tự sát bằng cách nhảy xuống sông đúng một ngày sau khi Kathleen chết. Khi chuyên gia pháp y so sánh DNA của Mark với DNA từ t*ng trùng trên cơ thể Kathleen, họ thấy chúng không khớp.

Sau khi Mark Fisher tự sát, tiến trình điều tra cái chết của nạn nhân Kathleen Aiello-Loreck rơi vào trạng thái bế tắc vì kết quả xét nghiệm DNA cho thấy người đàn ông này không phải hung thủ.

9 ngày sau vụ án mạng, một người dân gọi điện thoại tới trụ sở cảnh sát và nói rằng anh nhận ra người đàn ông trong bức vẽ chân dung mà cảnh sát công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Theo lời người này, vào ngày án mạng xảy ra, anh đạp xe vào rừng để tập thể dục và gặp nhân vật giống trong hình vẽ. Nhân vật này có xin anh một điếu thuốc và họ nói với nhau vài câu.

Khi nhóm điều tra tới vị trí người đàn ông cung cấp thông tin, họ thấy vài mẩu đầu lọc thuốc lá. Dù 9 ngày đã trôi qua nhưng cảnh sát vẫn lấy những đầu lọc trên mang đi giám định với hy vọng DNA vẫn còn tồn tại trên đó. Người đàn ông cung cấp thêm một thông tin quan trọng: Trong lúc nói chuyện, người xin thuốc tiết lộ anh ta là nhân viên bán hàng qua điện thoại và làm việc ở thành phố Walnut Creek gần đó. Thời gian đó, chỉ một công ty bán hàng qua điện thoại hoạt động tại thành phố Walnut Creek.

Khi cảnh sát tới công ty bán hàng qua điện thoại, người quản lý nói một nhân viên của công ty có khuôn mặt giống bức vẽ mà cảnh sát cung cấp. Đó là Robert Ward Frazier. Tuy nhiên, Robert đã thôi việc ngay sau cái chết của cô Kathleen.

Khi cảnh sát tới địa chỉ cuối cùng mà Robert sống trước lúc thôi việc, họ gặp bạn gái cũ của anh ta. Người phụ nữ này cho biết, Robert đã rời khỏi thành phố. Bạn gái cũ của Robert trao cho cảnh sát một bàn chải đánh răng mà anh ta để lại. Đây là vật có thể giúp nhóm điều tra lấy DNA của Robert.

Chuyên gia pháp y phân tích DNA từ nước bọt trên bàn chải đánh răng rồi đối chiếu với mẫu tinh dịch trên cơ thể nạn nhân và những tế bào da trên thanh sắt tại hiện trường. Kết quả cho thấy chúng trùng khớp. Nhóm điều tra đã có bằng chứng để bắt Robert, song giờ đây họ phải trả lời câu hỏi: Nghi phạm đang ở đâu?

Sau khi nhóm điều tra đưa tên Robert Ward Frazier lên hệ thống dữ liệu của cảnh sát để tìm, họ nhận được một tin bất ngờ: Cảnh sát ở bang Indiana đang tạm giữ Robert vài ngày do gã vi phạm lỗi giao thông nghiêm trọng. Ngay lập tức họ đáp chuyến bay tới bang Indiana để gặp nghi phạm. Robert tỏ ra rất cởi mở khi nói chuyện với nhóm điều tra và xác nhận gã biết tin về cái chết của Kathleen trên đài truyền hình.

Nhưng vì nói chuyện quá thoải mái, Robert vô tình nói ra một thông tin mà chỉ hung thủ mới biết. Theo gã, Kathleen có tàn nhang trên mặt. Đây là thông tin cảnh sát không công bố cho giới truyền thông. Sau khi biết thêm những chứng cứ DNA từ bàn chải đánh răng, cọc sắt ở hiện trường, Robert phải theo nhóm điều tra về bang California. Cảnh sát tin rằng Robert tình cờ thấy Kathleen bước trên đường trong rừng khi cô mải nói chuyện với chồng. Không thấy người nào xung quanh, gã nổi thú tính nên bám theo cô.

Thấy cọc sắt ở hàng rào ven đường, gã nhổ lên rồi đuổi theo người phụ nữ, đánh vào đầu rồi kéo nạn nhân tới một bụi rậm. Sau khi thực hiện hành vi hiếp dâm với Kathleen trong tình trạng bất tỉnh, Robert dùng cọc sắt đánh hơn 10 nhát vào đầu cô rồi rời khỏi hiện trường. Những cú đánh ấy khiến nạn nhân tử vong.

Trong phiên xử sơ thẩm hồi tháng 6/2006, thẩm phán kết luận Robert Ward Frazier phạm tội giết người và tuyên án tử hình. Bị cáo kháng án nên tòa thượng thẩm hạt Contra Costa, bang California mở phiên xử lần thứ hai, song vẫn giữ nguyên bản án của tòa sơ thẩm.
 

hoahongden12

Active Member

Đối với cử tri bang Nevada, Mỹ, có lẽ nữ nghị sĩ Kathy Augustine (sống ở thành phố Reno, bang Nevada) là một trong những phụ nữ đáng nhớ nhất trên chính trường. Làm việc ở Hạ viện bang Nevada từ năm 1993 tới 1995, rồi giữ ghế thượng nghị sĩ từ năm 1995 tới 1999, bà là phụ nữ đầu tiên làm thủ lĩnh phe đa số trong Thượng viện của bang. Kathy cũng từng lọt vào danh sách những ứng cử viên cho chức Bộ trưởng Tài chính dưới thời cựu tổng thống George W. Bush.

Nhưng sự nghiệp chính trị của người phụ nữ sinh năm 1956 lao đao khi các đối thủ chính trị cáo buộc bà vi phạm luật bầu cử. Năm 2004, khi Kathy đang giữ chức Ủy viên Thuế vụ bang Nevada, Thượng viện bang quyết định điều tra những cáo buộc đối với bà. Tòa án kết luận Kathy sử dụng trái phép nhân lực và tiền của bang Nevada vào chiến dịch vận động bầu cử và buộc bà nộp khoản tiền phạt 15.000 USD.

Đầu năm 2006, khi nhiệm kỳ Ủy viên Thuế vụ sắp kết thúc, Kathy chạy đua chức Bộ trưởng Tài chính bang Nevada. Sáng 8/7/2006, phát hiện vợ nằm bất tỉnh trên giường tại nhà riêng, người chồng gọi số 911. Khi xe cứu thương đến nơi, nữ chính trị gia chỉ thở thoi thóp.

Ban đầu các bác sĩ chẩn đoán Kathy trải qua cơn đau tim, nhưng sau đó họ nhận thấy đau tim không phải là nguyên nhân. Tình trạng của nữ Ủy viên Thuế vụ xấu dần và bà rơi vào trạng thái hôn mê. Ba ngày sau, gia đình quyết định rút ống thở khỏi cơ thể Kathy vì các bác sĩ thừa nhận bà không thể tỉnh lại.

Sau khi Kathy tử vong, chồng và những người thân của nữ chính trị gia đều khẳng định bà khỏe mạnh trong những ngày cuối đời. Kết quả khám nghiệm tử thi cũng không giúp cảnh sát có thêm manh mối đáng giá nào.

Vài ngày sau cái chết của Kathy, ông Chaz Higgs, chồng của bà, tự sát bằng cách cắt cổ tay. Trong thư tuyệt mệnh, Chaz cáo buộc các đối thủ chính trị của vợ gây nên cái chết của bà. May mắn, các bác sĩ đã cứu sống Chaz.

Chaz là chồng thứ tư của Kathy. Charles Augustine, người chồng thứ ba của bà là một phi công dân sự. Sau một cơn đột quỵ, ông phải vào bệnh viện để điều trị và Chaz là y tá chăm sóc ông. Trong quá trình điều trị cho Charles, Kathy và Chaz phát sinh tình cảm. Đúng 3 tuần sau khi Charles qua đời, Kathy kết hôn với Chaz, đồng thời hưởng một triệu USD từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của người chồng xấu số.

Vì Kathy và người chồng thứ ba đã thảo luận vấn đề ly hôn trước khi ông đột quỵ nên cảnh sát nghi ngờ Kathy hoặc Chaz đã thực hiện hành vi nào đó mờ ám trong cái chết của ông. Sau khi xem lại những ảnh liên quan tới tử thi Kathy, chuyên gia pháp y phát hiện một vết thâm nhỏ như đầu tăm ở mông. Đó là một vết tiêm. Các bác sĩ đều khẳng định họ không tiêm vào mông Kathy trong quá trình điều trị cho bà.

Các nhà điều tra không loại trừ khả năng Chaz, một y tá chuyên nghiệp, đã giết vợ bằng thuốc độc. Một số đồng nghiệp kể rằng Chaz hay phàn nàn về cuộc sống gia đình. Kết quả kiểm tra máy tính của nam y tá cho thấy ông ta chán vợ vì bà quyết định mọi việc trong nhà, kiểm soát cuộc sống của chồng và nhiều vấn đề khác. Vào đêm trước khi Kathy bất tỉnh trên giường, nữ quan chức gọi điện cho một người bạn và kể rằng cuộc hôn nhân sắp chấm dứt vì Chaz muốn ly hôn.

Một nữ đồng nghiệp của Chaz cung cấp cho cảnh sát thông tin quan trọng. Theo cô, đúng một ngày trước khi Kathy bất tỉnh, Chaz từng nói với cô rằng succinylcholine, một loại thuốc gây liệt cơ, có thể khiến con người tử vong mà chuyên gia pháp y không thể tìm ra trong quá trình khám nghiệm tử thi. Phải chăng lỗ nhỏ ở mông Kathy là dấu vết của việc Chaz tiêm succinylcholine vào cơ thể vợ?

Bác sĩ thường tiêm lượng rất nhỏ succinylcholine vào cơ thể bệnh nhân trước ca phẫu thuật để gây mê. Succinylcholine gây tác động nhanh, nhưng cũng tan biến nhanh (sau khoảng một phút từ khi xâm nhập vào cơ thể người). Nếu cơ thể con người tiếp nhận một lượng lớn succinylcholine, hiện tượng tử vong sẽ xảy ra.

Là y tá chuyên chăm sóc những ca bệnh nặng, Chaz có quyền tiếp cận succinylcholine trong bệnh viện. Tuy nhiên, chứng minh ông ta tiêm succinylcholine vào cơ thể Kathy là việc cực khó, bởi nó biến mất quá nhanh.

May mắn thay, hai y tá làm việc trong phòng cấp cứu của Trung tâm Y tế Washoe (nơi điều trị cho Kathy) đã gọi nhóm điều tra để cung cấp thông tin quan trọng. Khi Kathy vào bệnh viện, hai y tá này đã nghi ngờ bà bị đầu độc. Vì thế họ lấy mẫu nước tiểu và máu của nữ quan chức rồi cho vào kho lạnh để cảnh sát có thể phân tích trong tương lai.

Tầm nhìn xa của hai y tá tạo nên bước ngoặt trong quá trình điều tra. Nếu cảnh sát không có mẫu nước tiểu và máu đông lạnh của Kathy, họ sẽ không thể kết luận nữ chính trị gia bị đầu độc hay không. Succinylcholine tồn tại lâu trong nước tiểu vì nước tiểu không có enzyme – loại chất có khả năng phân hủy succinylcholine.

Nhóm điều tra gửi máu và nước tiểu của Kathy tới Phòng thí nghiệm của Cục Điều tra Liên bang Mỹ ở bang Virginia – một trong hai cơ sở có khả năng phát hiện succinylcholine trong chất lỏng ở Mỹ. Các chuyên gia cho nước tiểu vào máy sắc ký lỏng ghép khối phổ để xác định chính xác từng thành phần dựa vào chuyển động của các ion nguyên tử hay ion phân tử trong một điện trường hoặc từ trường.

Kết quả phân tích cho thấy nước tiểu của Kathy chứa succinylcholine. Nếu hai y tá không đông lạnh mẫu nước tiểu ngay lập tức, các chuyên gia không thể phát hiện succinylcholine trong đó.

Sau khi nhận kết quả xét nghiệm, cảnh sát bắt Chaz vì tội giết vợ. Họ phát hiện những tờ giấy với nội dung hướng dẫn sử dụng succinylcholine trong xe hơi của ông ta. Mặc dù vậy, nam y tá khẳng định ông ta không lấy cắp succinylcholine của bệnh viện.

Các công tố viên tin rằng vào sáng 8/7/2006, Chaz dậy sớm hơn vợ. Nam y tá cho dung dịch succinylcholine vào xi lanh rồi tiêm vào mông của Kathy trước khi gọi xe cứu thương. Khi tiếp nhận Kathy, hai y tá trong phòng cấp cứu của bệnh viện Washoe nghi bà bị đầu độc nên đã lấy mẫu nước tiểu và máu rồi cho vào kho lạnh để cảnh sát có vật chứng trong quá trình điều tra.

Trước khi phiên tòa diễn ra vào tháng 6/2007, Chaz tự sát băng cách cắt cổ tay, song nhân viên y tế lại cứu sống nghi phạm. Khi sức khỏe người đàn ông này phục hồi, ông ta tự bào chữa trước tòa. Sau quá trình xét xử 10 ngày, bồi thẩm đoàn kết luận Chaz Higgs phạm tội giết vợ. Thẩm phán tuyên ông ta án tù chung thân.

Nghi ngờ Charles Augustine, chồng thứ ba của Kathy, cũng chết vì thuốc gây mê succinylcholine, cảnh sát khai quật tử thi của ông để xét nghiệm. Họ phát hiện chất succinylmonocholine - một sản phẩm phụ của succinylcholine - trong hài cốt của viên phi công. Mặc dù vậy, họ không kết luận cái chết của ông là kết quả của một vụ án mạng.
 

hoahongden12

Active Member

Với tay nghề cao, thợ sửa máy điều hòa nhiệt độ David Castor ở thành phố Clay, bang New York, Mỹ có cuộc sống khá sung túc. Nhưng cuộc đời David rẽ sang hướng khác khi người cha của anh qua đời năm 2005. Cái chết của ông khiến David trở nên trầm uất, chán nản và uống nhiều rượu.

Ngày 22/8/2005, vợ của David gọi điện thoại tới đồn cảnh sát báo rằng anh không chịu rời phòng ngủ trong một ngày và khóa cửa bên trong. Cảnh sát tới nhà David và quyết định đạp cửa buồng ngủ.

Cảnh tượng kinh hoàng trong buồng ngủ đập vào mắt viên cảnh sát. David nằm sấp trên giường với lượng lớn chất nhầy từ dạ dày. Nhiều đồ đạc rơi dưới đất bao gồm hộp dung dịch chống đông và khẩu súng ngắn dưới gầm giường.

Chuyên gia pháp y kết luận David tử vọng tại hiện trường. Trên nóc tủ nhỏ gần giường, cảnh sát thấy một cốc chứa dung dịch màu xanh lục và một cốc chứa chút dung dịch màu vàng. Kết quả phân tích cho thấy dung dịch màu xanh lục chứa ethylene glycol, thành phần chính của chất chống đông. Nếu một người uống lượng lớn ethylene glycol vào cơ thể, chất này có thể gây tử vong.

Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy nạn nhân tử vong do tác động ethylene glycol trong dạ dày. Trong giấy chứng tử, cảnh sát ghi rằng David tự sát bằng cách uống thuốc chống đông. Song một số thám tử đặt câu hỏi: Tại sao nạn nhân không tự sát bằng súng để chết nhanh mà lại uống chất chống đông để vật vã trong 72 giờ trước khi lìa đời?

Lúc kiểm tra thùng rác trong bếp, nhóm điều tra phát hiện một ống bơm mà dân Mỹ thường dùng để bơm mỡ khi chế biến gà tây. Họ thấy một chút dung dịch chống đông trong ống.

Chuyên gia pháp y cũng phát hiện DNA ở đầu miệng ống bơm. Kết quả phân tích cho thấy đó là DNA của David Castor. Như vậy, có lẽ David hoặc ai đó đã dùng ống bơm để đưa chất chống đông vào dạ dày? Cảnh sát không tin vào giả thuyết ấy.

Hàng loạt manh mối đáng ngờ khiến cảnh sát bắt đầu nghi cái chết của David Castor có thể là vụ giết người. Nghi pham hàng đầu là Stacey Castor, vợ của nạn nhân. David là chồng thứ hai của Stacey và cô ta có một con gái riêng từ cuộc hôn nhân đầu tiên.

Nhiều lời khai của Stacey mâu thuẫn với thực tế. Chẳng hạn, cô ta nói với nhân viên tổng đài 911 rằng David uống nhiều rượu trước khi tự nhốt trong phòng, song chuyên gia pháp y không thấy chất cồn trong dạ dày người đàn ông 48 tuổi. Khi cảnh sát thẩm vấn, Stacey buột miệng nói chồng cô ta uống thuốc chống đông. Đây là thông tin mà chỉ cảnh sát biết. "Tôi và chồng từng xem một phim tài liệu về việc một phụ nữ đầu độc chồng bằng thuốc chống đông", Stacey kể.

Nhóm điều tra chỉ thấy dấu vân tay của Stacey xuất hiện trên cốc thủy tinh chứa dung dịch chống đông. Nếu David uống chất chống đông để tự sát, tại sao anh không để lại dấu vân tay trên cốc?

Vị trí của hộp dung dịch chống đông cũng khiến cảnh sát phải đặt ra vài câu hỏi. Chất nhầy mà David nôn ra chảy từ giường xuống sàn nhà, song nhóm điều tra chỉ thấy chất nhầy bên dưới hộp, chứ không thấy chất nhầy ở phía trên hộp - một hiện tượng trái với logic thông thường. Chắc chắn ai đó đã đặt hộp dưới gầm giường sau khi chất nhầy chảy xuống sàn.

Sự nghi ngờ của nhóm điều tra tăng lên sau khi họ biết Mike Wallace, người chồng đầu của Stacey, cũng chết một cách bí ẩn. Bác sĩ kết luận Mike tử vong vì đau tim. Người nhà của Mike yêu cầu khám nghiệm tử thi, song Stacey bác bỏ đề xuất này. Từ đó tới nay người thân của Mike luôn nghi ngờ hành động khó hiểu của Stacey.

Khi kiểm tra hồ sơ y tế của Mike Wallace, người chồng đầu tiên của Stacey, cảnh sát nhận thấy ông không hề mắc bệnh tim. Vì thế khả năng ông tử vong vì đau tim rất thấp.

Nghi ngờ cái chết của Mike là kết quả của một vụ án mạng, cảnh sát yêu cầu tòa án cho phép họ khai quật mộ của nạn nhân để khám nghiệm tử thi. Tòa án chấp thuận yêu cầu.

Nếu Mike tử vong do chất chống đông xâm nhập hệ tiêu hóa, chất ethylene glycol trong chất chống đông sẽ tạo ra tinh thể. Sau khi tinh thể hình thành, chúng cản trở hoạt động của thận - nguyên nhân gây tử vong.

Dù thi thể Mike đã phân hủy, những tinh thể do ethylene glycol tạo ra vẫn còn nguyên vẹn. Các chuyên gia pháp y thấy chúng khi khám nghiệm xác người đàn ông xấu số - chứng cứ cho thấy Stacey đã sát hại Mike bằng dung dịch chống đông.

Song đúng lúc cảnh sát chuẩn bị bắt Stacey thì cô ta lại gọi dịch vụ cấp cứu để báo rằng Ashley, con gái của cô ta với chồng đầu tiên, tự sát bằng thuốc ngủ. Khi xe cứu thương tới nhà Stacey, các nhân viên y tế thấy Ashley thở thoi thóp. Một lọ thuốc ngủ và một lá thư tuyệt mệnh bên cạnh cơ thể cô gái. Theo nội dung của lá thư, Ashley thú nhận giết cha ruột vì ông quá ích kỷ và tàn nhẫn. Nhưng giờ đây cảm giác tội lỗi dày vò nên cô gái muốn chết để chuộc tội tày đình.

Nhóm điều tra đối mặt với câu hỏi khó: Phải chăng Ashley hạ sát Mike để bảo vệ mẹ? Vì lá thư tuyệt mệnh được đánh máy nên họ không thể xác định Ashley là tác giả của nó hay không. Hy vọng duy nhất của cảnh sát là Ashley sẽ sống sót để khai sự thật.

May mắn thay, Ashley thoát chết. Khi tỉnh táo, cô kể rằng Stacey đưa cốc nước và bảo cô uống. Ashley cũng khẳng định cô không viết lá thư tuyệt mệnh và không giết cha ruột.

Để xác định người soạn thảo lá thư tuyệt mệnh, nhóm điều tra tịch thu máy tính trong nhà Stacey và kiểm tra. Họ phát hiện lá thư được tạo ra lúc 14h27 hôm 12/9/2005 - thời điểm Ashley học ở trường. Vì thế chắc chắn nữ sinh không phải là người soạn thảo thư. Ngoài ra, chuyên gia máy tính phát hiện Ashley và Stacey dùng tài khoản riêng trên máy tính. Phần mềm Word tồn tại trên cả hai tài khoản, song Ashley chưa bao giờ sử dụng nó, còn Stacey đã sử dung nhiều lần.

Bất chấp những chứng cứ cảnh sát tìm ra, Stacey vẫn một mực khẳng định con gái cô ta giết Mike và David. Lúc này, các công tố viên và những người quan tâm tới vụ án đặt câu hỏi: Động cơ giết hai chồng của Stacey là gì?

Về nhân cách, các nhà tâm lý tội phạm nhận định Stacey là kẻ ích kỷ và yêu bản thân thái quá. Những người như cô ta sẵn sàng giết người khác để bảo vệ lợi ích của bản thân. Về phương diện tài chính, Stacey hưởng 50.000 USD từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của người chồng thứ nhất. Số tiền bồi thường bảo hiểm tăng lên 200.000 USD với cái chết của người chồng thứ hai.

Các công tố viên tin rằng Stacey nảy ra ý định giết David Castor khi cảm thấy chán chồng. Vì người phụ nữ từng giết chồng thứ nhất mà không bị trừng phạt, cô ta áp dụng thủ đoạn cũ với David. Sau khi lừa chồng uống nước chứa chất chống đông, Stacey thấy chồng bất tỉnh nhưng vẫn thở. Vì thế cô ta dùng ống bơm để tống thêm dung dịch chống đông vào dạ dày David. Đó là nguyên nhân khiến DNA của David xuất hiện ở miệng ống bơm.

Khi cảnh sát khai quật mộ người chồng đầu để khám nghiệm tử thi, Stacey hiểu rằng tội ác của cô ta sắp bại lộ. Vì thế, cô ta nghĩ ra cách vô cùng bất nhân: Đổ tội cho con gái Ashley. Nhân lúc Ashley tới trường vào ngày 12/9/2005, cô ta soạn thảo lá thư tuyệt mệnh rồi in ra giấy.

Vào tối 22/9/2005, Stacey nghiền nhiều viên thuốc ngủ thành bột rồi đổ vào cốc nước để đầu độc Ashley. Nếu Bree Castor, con gái của Stacey và David, không phát hiện Ashley bất tỉnh trên giường vào buổi sáng hôm sau, có lẽ cô gái đã lìa đời và có thể người mẹ vô nhân tính sẽ thoát tội.

Trước tòa, Stacey vẫn khẳng định con gái là thủ phạm giết hai người chồng của cô ta. Nhưng bồi thẩm đoàn không tin. Họ kết luận Stacey phạm tội giết David Castor. Thẩm phán tuyên bị cáo án tù 50 năm. Giới truyền thông Mỹ sốc khi đưa tin về việc Stacey giết hai chồng và âm mưu giết con ruột. Họ gọi cô ta là "Góa phụ đen".

Ashley Wallace và Bree Castor ôm nhau và khóc khi tòa tuyên án. Nỗi đau của hai cô quá lớn. Người mẹ của họ giết hai chồng và âm mưu giết con ruột để trốn tội. Sau khi Stacey vào tù, Ashley cắt đứt quan hệ với người mẹ tàn nhẫn. Ngày 11/6/2016, phạm nhân Stacey Castor đột tử trong trại giam ở tuổi 48.
 

hoahongden12

Active Member

Để thỏa mãn nhục dục đê hèn của mình, ngoài việc hãm hiếp 11 phụ nữ, người đàn ông bệnh hoạn còn bắt cóc, đào hầm trong nhà, giam giữ 2 thiếu nữ làm nô lệ tình dục cho hắn trong 590 ngày...

Địa ngục trần gian của hai thiếu nữ

Tăng Cường Bảo, một công nhân tại Thanh Sơn, Vũ Hán, Hà Bắc, Trung Quốc đã đào hầm, giam cầm hai thiếu nữ để thỏa mãn dục vọng. Hắn dùng đủ mọi bạo hình để hành hạ hai cô gái như bóp cổ, xịt hơi cay vào mắt nạn nhân, tra tấn bằng gậy điện...

Theo đó, cô gái đầu tiên bị người đàn ông hơn 40 tuổi này bắt cóc tên là Lệ Lệ, 16 tuổi. Vào ngày 16/9/2008, vào lúc 22h, khi Lệ Lệ đang đi bộ về nhà một mình thì bị Tăng Cường Bảo bắt cóc. Hắn đưa cô về nhà của hắn rồi ra tay cưỡng hiếp. Sau đó, hắn bắt trói và giam giữ thiếu nữ vào trong căn hầm mà hắn đã đào trong nhà của mình.

Để thỏa mãn dục vọng, từ đầu năm 2008, Tăng Cường Bảo tiến hành đào hầm ngầm trong nhà mình nhằm bắt thiếu nữ về phục vụ tình dục. Hầm ngầm được đào giữa nhà, ngụy trang bằng một cái hố ximăng. Căn hầm cao 2,5m, dài 4m, rộng 1,5m theo cấu trúc chữ S. Hầm được xây chắc chắn có hệ thống cách âm rất tốt. Vách hầm thiết kế song sắt dài 2m rất chắc chắn để cùm nạn nhân.

Vào ngày 2/7/2009, hắn tiếp tục tìm kiếm con mồi khác. Lần này hắn ra tay bắt cóc một cô gái 19 tuổi, tên Hồng Hồng và tấn công tình dục cô. Cũng giống như Lệ Lệ, Hồng Hồng bị tống vào ngục tối. Hai thiếu nữ nhiều lần bị Cường Bảo đánh đập và hãm hiếp.

Ngoài tội ác khủng khiếp với hai thiếu nữ trên, người đàn ông thú tính này còn hãm hiếp 11 phụ nữ khác từ tháng 7/2007 tới tháng 5/2011 mà không một ai dám lên tiếng tố cáo hắn.

Cuộc giải cứu ngoạn mục

Cả hai thiếu nữ được giải cứu vào ngày 14/5/2010, sau khi một người đàn ông tên Du đã đến thăm cửa hàng sửa chữa điện tử của bạn mình. Anh Du đã phát hiện một tờ giấy được nhét vào trong linh kiện của một chiếc tivi với lời lẽ kêu cứu thống thiết: "Hãy giúp tôi. Tôi bị giam giữ dưới lòng đất hơn một năm", đi kèm với đó là một bản đồ vẽ tay cho thấy nơi cô gái bị giam giữ cũng như có cả số điện thoại và địa chỉ của gia đình Hồng Hồng.

Du gọi đến số điện thoại và thông báo cho cha của Hồng Hồng, người chỉ cách nơi con gái ông bị giam giữ khoảng 200 mét. Người cha nhanh chóng báo cho cảnh sát và chỉ một vài giờ sau đó, cảnh sát đã tìm thấy hai cô gái trong tình trạng khỏa thân và thoi thóp thở.

Bác sĩ Từ Lập Hoa, người đi cùng lực lượng giải cứu cho biết, hai nạn nhân trong tình trạng suy kiệt, khắp người có nhiều vết thương lở loét, nếu chỉ trễ vài ngày nữa thì có thể các cô sẽ chết. Như vậy, Lệ Lệ bị giam cầm 590 ngày còn Hồng Hồng bị giam 317 ngày mới được giải thoát. Họ đều bị cùm chân vào vách rất chắc, xung quanh đầy vỏ mì ăn liền và đồ hộp.

Cái giá phải trả của tên bệnh hoạn

Một tuần trước khi giải cứu hai thiếu nữ, Cường Bảo đã bị cảnh sát địa phương bắt giữ vì bị cáo buộc cưỡng hiếp một phụ nữ khác. Tuy nhiên, Cường Bảo đã không hề khai với cảnh sát việc mình giam giữ 2 thiếu nữ. Cảnh sát cũng đã điều tra tên này đã từng hãm hiếp 11 phụ nữ khác.

Sau khi sự việc bị phát giác, nó đã khiến dư luận và truyền thông Trung Quốc rúng động trong thời gian dài. Và mọi người gọi Tăng Cường Bảo là "con quỷ đội lốt người".

Tại phiên toàn xét xử, Tăng Cường Bảo nhận mức án tử hình. Người đàn ông này kháng cáo vì cho rằng bản án quá nặng khi ông ta không hề khiến các nạn nhân tử vong hoặc mang thai. Ông ta còn biện minh rằng mình có vấn đề về tâm thần nên cần được xem xét.

Tuy nhiên, tòa án đã bác bỏ đơn kháng cáo và y án đối với Tăng Cường Bảo. "Bị cáo đã tàn phá sức khỏe thể chất cũng như tinh thần cho hai thiếu nữ, gây ra ảnh hưởng rất tiêu cực đối với xã hội nên cần bị trừng phạt nghiêm khắc", tòa án cho biết.

Người dân sống xung quanh Tăng Cường Bảo vô cùng sốc khi biết tin về sự việc chấn động này. Một người hàng xóm cho biết, Tăng Cường Bảo là người hướng nội, ít nói.
 

hoahongden12

Active Member

Sự biến mất của người phụ nữ 69 tuổi

Một ngày đẹp trời năm 1969, Olivia Durand-Deacon - một người phụ nữ 69 tuổi với khối tài sản kếch xù gặp gỡ đối tác làm ăn tên John George Haigh (40 tuổi).

Cuộc gặp mặt này được Haigh sắp xếp với lý do dẫn bà Olivia đến thăm công xưởng của mình tại West Sussex (Anh quốc), cách London 45 dặm (khoảng 72km) về hướng Nam. Công xưởng này được cả hai dự tính sử dụng để sản xuất móng tay giả nhân tạo.

Tuy nhiên, đó cũng là lần cuối cùng bà Olivia xuất hiện dưới ánh mặt trời.

Người phụ nữ 69 tuổi này sau đó bặt vô âm tín, khiến cho bạn bè của bà rất lo lắng và tức tốc đi báo cảnh sát. Với tư cách là người cuối cùng gặp gỡ bà Olivia, Haigh cũng sốt sắng tham gia vào công tác tìm kiếm người mất tích. Tuy nhiên, ngay từ khi bắt đầu điều tra, cảnh sát đã có những nghi ngờ về gã đàn ông ít nhiều mờ ám này.

Sau khi lục soát phòng khách sạn mà Haigh ở, cảnh sát tìm thấy một chiếc áo khoác lông thú và một ít giấy tờ được cho là thuộc về bà Olivia. Ở khu xưởng của gã, người ta chỉ tìm thấy một thùng chứa axit - thứ sẽ mở ra một chương đen tối trong lịch sử tội phạm nước Anh - gã sát nhân phi tang xác người bằng axit.

Cách thức thủ tiêu xác người của gã sát nhân máu lạnh

Điều bất ngờ là khi bị thẩm vấn tại đồn, John Geogre Haigh đã khai tuốt tuồn tuột mọi thứ, từ việc sát hại bà Olivia cho tới phương thức thủ tiêu xác nạn nhân. Gã liên tục làm nhảm rằng: "Bà Olivia đã biến mất rồi, các người sẽ không bao giờ tìm thấy bà ta nữa đâu." Gã cho rằng, chỉ cần không tìm thấy xác nạn nhân thì không ai có thể kết tội được hắn.

Tuy nhiên, có người đã không chịu thua Haigh, đó là bác sĩ pháp y Keith Simpson.

Trong công xưởng tội ác nơi phi tang xác bà Olivia của John, bác sĩ Keith đã tỉ mẩn tìm kiếm các bằng chứng và dừng lại trước một:"vũng nước màu vàng - trắng ở bên cạnh tòa nhà." Sau khi xem xét kỹ khu vực đó, ông nhận thấy có một số viên sỏi có hình dạng và độ bóng khác hẳn với sỏi thường trên nền đất.

Lập tức cho rằng đó là sỏi sinh ra từ cơ thể người, Keith Simpson đã thu nhặt lại và tiếp tục đào bới quanh vũng nước khả nghi kia để kiếm tìm bằng chứng.

Những nỗ lực này đã có kết quả khi đội pháp y tìm thấy hơn 12kg mỡ người, một phần của chiếc chân trái, 18 mẩu xương vụn từ chân và đốt sống cùng hàm răng còn nguyên vẹn của bà Olivia. Quan trọng hơn, chiếc túi xách của người phụ nữ xấu số cũng được tìm thấy ở cùng địa điểm này.

Haigh ngay lập tức bị cáo buộc tội giết người. Tuy nhiên điều kinh khủng là, bà Olivia không phải nạn nhân đầu tiên, hay thứ 2, thứ 3 của gã. Trước người đàn bà giàu có xấu số, đã có tới 5 người bị Haigh sát hại và phi tang theo cùng cách thức tàn nhẫn này trong khoảng thời gian từ năm 1944 tới 1949.

Các nạn nhân của Haigh đều bị phi tang trong axit Sulphuric - một loại axit cực mạnh có thể sử dụng để phân rã chất hữu cơ. Về lý thuyết, chỉ cần qua vài ngày ngâm trong chất ăn mòn cực mạnh này, một người trưởng thành có thể biến mất không còn lại dấu vết. Hàm răng của bà Olivia còn tồn tại là do chúng là răng giả - một chi tiết không ngờ đã tố cáo tội ác của Haigh.

Công xưởng ác mộng của John Geogre Haigh

Sau khi bị kết án, cảnh sát nhanh chóng phát hiện ra Haigh đã có tiền án tiền sự về tội lừa đảo và ăn trộm trong suốt 7 năm từ 1947 tới 1943. Điều kỳ lạ là, một vài người bạn của Haigh đã biến mất cũng trong khoảng thời gian từ năm 1944 tới 1949; trong đó phải kể tới William McSwan.

Haigh sau đó đã thú nhận rằng mình đã giết người bạn McSwan và thủ tiêu anh trong một thùng axit đậm đặc vào tháng 9 năm 1944. Sự biến mất của McSwan bị che mờ bởi màn kịch mà Haigh dựng nên, rằng anh đã trốn khỏi địa phương để tránh lệnh điều quân phục vụ thế chiến II.

Tuy nhiên, cha mẹ McSwan đã nghi ngờ câu chuyện của Haigh; gã sát nhân máu lạnh này sau đó đã giết luôn 2 người này rồi bỏ trốn tới London sau khi bán sạch gia sản nhà McSwan. Hai người này không bị phi tang bằng axit đậm đặc.

Tại London, Haigh xin vào làm ở một công xưởng tại West Sussex. Tại đây, gã được giao hẳn công xưởng để quản lý, gián tiếp biến nơi đây thành một lò sát sinh và phi tang xác chết.

Tháng 2 năm 1948, sau khi tiền của nhà McSwan đã bị tiêu hết, Haigh lại nảy ra ý định cướp của giết người. Gã dụ Tiến sĩ Archibald Henderson và vợ của ông tới xưởng của mình rồi ra tay sát hại bằng súng, sau đó phi tang xác bằng phương thức quen thuộc. Tiền của nhà Henderson cũng bị tiêu hết chỉ trong 1 năm, và bà Olivia trở thành nạn nhân kế tiếp.

Tại tòa, Haigh thú nhận đã giết 9 người, tuy nhiên chỉ có 6 nạn nhân kể trên được cảnh sát xác nhận. Dù được luật sư bào chữa có bệnh điên, thế nhưng Haigh vẫn bị kết án tử hình và treo cổ vào năm 1950, khép lại vụ án "sát nhân axit" kinh hoàng ám ảnh London một thời.
 

hoahongden12

Active Member

Mỹ chiếm tới 67,41% số kẻ giết người hàng loạt trong lịch sử thế giới, với hơn 2.700 sát thủ được ghi nhận. Nhưng phần lớn trong số đó chẳng thể so được với Javed Iqbal – sát nhân hàng loạt của Pakistan, ở cả số lượng nạn nhân lẫn cách thức giết người tàn độc.

Javed Iqbal, hầu như không thu hút được bất kỳ sự chú ý nào trên các phương tiện truyền thông hay Internet. Vì văn hóa Pakistan không “tôn sùng” những kẻ giết người như những nơi khác hoặc giả hắn ở quá xa so với “văn minh” phương Tây? Dù lý do là gì đi nữa, gã đặc biệt tàn bạo, vượt xa so với đa số kẻ giết người hàng loạt được ghi nhận trong Hồ sơ hình sự của Mỹ. Dưới đây là câu chuyện khủng khiếp của Javed Iqbal.

Giết CHÍNH XÁC 100 nạn nhân

Người ta biết rất ít về cuộc sống ban đầu của Javed Iqbal, kẻ giết người hàng loạt tàn bạo ở Pakistan. Đa số cho rằng Iqbal sinh năm 1956, nhưng một số nguồn khác lại nói năm 1961. Iqbal là đứa con thứ sáu trong gia đình có 7 người con. Cha của Iqbal, ông Mohammed Ali Mughal, là một thương nhân giàu có.

Năm 1978, Iqbal ghi danh theo học trường Cao đẳng Hồi giáo và bắt đầu kinh doanh riêng sau khi liên thông lên đại học. Người cha giàu có của Iqbal đã tặng gã một biệt thự, nơi Iqbal sở hữu và vận hành doanh nghiệp thép của mình. Ngoài điều này, rất ít thông tin về thuở thiếu thời của Iqbal, cái tên sẽ trở thành một trong những kẻ giết người khủng khiếp nhất lịch sử Thế giới thời hiện đại.

Điều khiến Javed Iqbal nổi bật trong số những kẻ giết người hàng loạt khác không chỉ là việc hắn phạm tội ở Pakistan, một quốc gia hầu như không có ghi chép nào về “sát nhân hàng loạt” trước đó, mà còn có số lượng nạn nhân của hắn rất lớn.

Javed Iqbal đã giết tổng cộng 100 trẻ em nam, không phải ít hơn hay nhiều hơn mà là CHÍNH XÁC 100 nạn nhân. Iqbal sau đó khoe khoang trong các phiên tòa xét xử, trong các cuộc phỏng vấn rằng hắn có thể dễ dàng giết tới 500 đứa trẻ hoặc hơn, nhưng hắn “thích” dừng lại ở con số 100.

Tại sao lại là 100? Vì đó là những gì Iqbal đã tự hứa với chính mình như thế. Sau nạn nhân thứ 100, hắn hoàn toàn từ bỏ việc giết chóc. Điều này có ý nghĩa như thế nào, ngoài việc chúng ta có thể nhận ra 1 sự thật rằng: Iqbal không phải là kẻ tâm thần, hắn thực hiện tội ác của mình với sự tính toán chính xác và hoàn toàn vô cảm.

Ra tù sau án hiếp dâm amp; tội ác hàng loạt bắt đầu

Những dấu hiệu cảnh báo về một tội phạm hàng loại ở Iqbal đã xuất hiện từ rất sớm, chỉ là không ai để ý chúng mà thôi. Khi sự nghiệp kinh doanh của Iqbal cất cánh, gã chịu nhiều cáo buộc về các tội ác liên quan đến tình dục, như hãm hiếp, lạm dụng… nhưng rốt cuộc hắn chỉ bị tù giam 3 năm sau khi bị kết án hiếp dâm một nhân viên nữ của công ty.

Javed Iqbal sau này kể rằng hắn đã mơ về những vụ giết người trong một thời gian dài, từ khi còn nhỏ. Tuy nhiên, thôi thúc về chuyện trở thành sát nhân hàng loạt chỉ thực sự mạnh mẽ sau khi hắn ra tù vì án hiếp dâm nêu trên. Với Iqbal, 3 năm trong tù, hắn coi như đã “chết”. Hay đúng hơn chút lương tri cuối cùng trong phần Người của hắn đã chết. Ra tù, Iqbal sẽ phải là là một “người” hoàn toàn khác.

Mẹ Iqbal, người hắn gắn bó nhất trong đời, đã chết trong thời gian hắn bị giam giữ. Và cái chết của bà đã khiến hắn nổi cơn thịnh nộ và trở thành kẻ căm hận Thế giới. Kế hoạch và mục tiêu giết CHÍNH XÁC 100 đứa trẻ của Iqbal khởi đi từ đó. Iqbal muốn được nhìn thấy… 100 người mẹ phải chịu cảnh đau đớn trước cái chết của con mình. Như mẹ gã!

Cách thức giết người của ác nhân có IQ hơn 130

Những nạn nhân của Iqbal có các điểm chung rõ ràng: tuổi từ 6-16, giới tính nam. Iqbal là một kẻ thông minh, với chỉ số IQ khoảng 130-135, nên kế hoạch giết người hàng loạt của gã cũng công phu vô cùng.

Đầu tiên, Iqbal thiết lập một doanh nghiệp nhỏ, chuyên về cung cấp trò chơi điện tử dành cho thanh thiếu niên, nhằm thu hút các nạn nhân trong “giới hạn ưa thích” của hắn.

Sau đó hắn tạo ra một trò chơi tìm kho báu ảo, những người tham gia trò chơi chỉ sử dụng “nick”ảo và kẻ thắng cuộc sẽ được đưa tới phòng riêng của gã, theo chỉ dẫn trên trò chơi. Tại đây, nạn nhân bị hãm hiếp và giết hại. Khoảng 50 cậu bé đã bị Iqbal giết theo cách này.

Iqbal cũng thường dùng học bổng như là cách để lôi kéo những mục tiêu mà gã chọn tới biệt thự của mình, nơi hắn sẽ chuốc thuốc mê nạn nhân, hiếp và xiết cổ nạn nhân tới chết. Một số trường hợp khác, Iqbal bắt gặp trên đường phố Lahore, thường là trẻ em vô gia cư hoặc “dạt nhà”.

Lời thú tội nặc danh

Đầu tháng 12 năm 1999, Iqbal đã quyết định viết một lá thư, gửi cho cảnh sát và vài tờ báo địa phương, kể về tội ác của mình. Giống như nhiều kẻ giết người hàng loạt, Iqbal luôn lưu giữ các bản ghi chép chi tiết về tất cả những vụ giết người của hắn. Việc tự thú theo kiểu này, của Igba, không phải tự phát mà được hắn tính toán từ trước. Chính xác và lạnh lùng.

Iqbal đã giết đủ 100 nạn nhân, đúng “lời hứa” với chính mình và hắn không muốn tiếp tục nữa. Với Iqbal, cách tốt nhất để không phá bỏ lời hứa là… công bố "thành quả" của mình. Sau nạn nhân thứ 100, hắn sẵn sàng để bị bắt. Nhưng muốn bắt được hắn để xét xử, thì cảnh sát và các nhà chức trách cũng phải dụng công khám phá và điều tra, chứ không có chuyện hắn tự ra mặt đầu thú.

Thế nên, trong lá thư gửi cảnh sát và báo chí địa phương, Iqbal không để lộ danh tính. Những bản ghi chép về các nạn nhân, cách hắn thủ ác, ngày tháng và (một phần) địa điểm chính là “dấu vết” Iqbal gợi ý cho đội điều tra. Một cuộc săn lùng kẻ sát nhân hàng loạt đã diễn ra ngay sau đó. 25 ngày sau lời tự thú, Iqbal chính thức bị bắt.

Tuy nhiên đến khi bị hỏi cung, Iqbal lại khẳng định mình… vô tội. Iqbal khai rằng rằng hắn chỉ tưởng tượng ra nội dung của bức thư và đó, với gã, là một sự kết hợp giữa tuyên bố chính trị và nghệ thuật, về tình trạng mất tích liên tếp của trẻ em tại Pakistan mà thôi.

Dùng Axit Clohydric để phi tang xác chết

Dĩ nhiên, lời phản bác của Iqbal chẳng thể “cứu” được gã. Có quá nhiều bằng chứng chống lại gã đã được cảnh sát thu thập. Các bản ghi chép được Iqbal lưu giữ trong căn hộ của hắn, liệt kê chi tiết quá trình tiếp cận mục tiêu, cách thức giết người và cả phi tang thi thể.

Phần khủng khiếp nhất trong câu chuyện đẫm máu của Igba chính là công đoạn phi tang xác chết. Axit clohydric, được gã sử dụng thường xuyên với mục đích ăn mòn thi thể nạn nhân, xóa dấu vết. Ngoài ra, hai thùng lớn chứa xác người đang bị phân hủy bởi Axit đã được cảnh sát tìm thấy trong nhà kho của Iqbal – như là bằng chứng đanh thép nhất để khẳng định tội ác khủng khiếp của hắn.

Nhưng Iqbal lại khác tuyệt đại đa số những “sát nhân hàng loạt” trước và sau hắn ở một chi tiết kì dị: hắn có đồng phạm. Chúng ta từng chứng kiến không ít “cặp đôi” hay “bộ ba”, thậm chí có cả “đại gia đình” giết người hàng loạt. Nhưng đấy là những trường hợp, mà chúng có chung “sở thích” giết người, và đều là những diễn viên chính.

Iqbal là 1 trường hợp hoàn toàn khác. Hắn là chủ mưu giết người, là đạo diễn kiêm diễn viên chính cho serie những tội ác khủng khiếp của mình. Nhưng hắn cần “diễn viên phụ” để làm nổi bật vai trò của mình. Đó chính là đồng phạm của Iqbal. Không phải một mà là ba đồng phạm giúp Iqbal thực hiện những vụ giết người của mình.

Không phải tất cả những mục tiêu thiếu niên của Igba đều trở thành nạn nhân bị giết hại. Trong số những đứa trẻ vô gia cư, sống va vật trên những con đường ở Lahore, Iqbal tìm được 3 chú nhóc, mà hắn tự cảm thấy là có gì đó giống mình, khiến hắn có sự đồng cảm với họ.

Sajid Ahmed, 17 tuổi, là đồng phạm số 1 của Iqbal, chịu án tử hình. Hai thiếu niên khác, Mamah Nadeem (15 tuổi) và Mamad Sabir (13 tuổi) là những đồng phạm còn lại. Cả ba đều bị đưa ra xét xử vì tội giết 100 trẻ em nam, cùng với Iqbal. Nadeem bị kết tội ở 13 vụ giết người, nhận bản án 14 năm cho mỗi vụ, tổng cộng là 182 năm tù. Sabir nhận tổng cộng 63 năm tù.

Tự sát chết trong trại giam?

Iqbal bị kết án tử hình, giống như đồng phạm số 1 của hắn. Theo luật sharia của Đạo Hồi ở Pakistan, thẩm phán trong vụ án đã phán quyết rằng Iqbal nên bị giết theo cách hắn đã “đối xử”với nạn nhân. Phán quyết nêu rõ: Iqbal sẽ bị xiết cổ tới chết và thi thể của hắn sẽ bị cắt thành 100 mảnh, một mảnh đại diện cho mỗi cậu bé mà hắn đã giết, và sau đó chúng được nhúng vào một thùng axit clohydric trước mặt cha mẹ, gia đình nạn nhân.

Nhưng đây là định mệnh mà Iqbal không bao giờ phải đối mặt và trải qua. Không phải vì chính quyền Pakistan đã ngăn chặn cách tử hình vô cùng kinh dị theo phán quyết của tòa án, mà vì chính Iqbal đã… tự xử trước.

Ngày 8 tháng 10 năm 2001, Javed Iqbal và Sajid Ahmed, đã cùng nhau tự sát trong phòng giam. Cho đến thời điểm hiện tại, cái chết của Iqbal (và đồng phạm số 1) vẫn là chi tiết gây tranh cãi tại Pakistan. Có thực Iqbal và Ahmed tự sát hay chúng đã bị giết hại bởi những tội phạm trong nhà giam, hoặc giả bị “hành quyết” bởi các nhân viên cai ngục?

Không ai biết cả, bởi giới chức và truyền thông Pakistan không hề đưa tin Iqbal-đã-chết-như-thế-nào sau sự kiện này. Chỉ 1 điều chắc chắn: Iqbal, kẻ giết người hàng loạt gây ám ảnh nhất lịch sử Pakistan, đã chết.
 

hoahongden12

Active Member

Những năm giữa thập niên 70 thế kỉ trước, cộng động LGBT, đặc biệt là nhóm đồng tính nam tại Mỹ rúng động vì một kẻ giết người hàng loạt có biệt danh “The Doodler”. Theo báo cáo từ cảnh sát San Francisco, tay sát thủ này chuyên nhằm vào mục tiêu là những người đàn ông da trắng thuộc giới tính thứ 3.

Trong khoảng thời gian từ 1/1974 đến 9/1975, “The Doodler” đã giết tổng cộng 5 người. Tuy nhiên, “The Doodler” cũng thất bại trong 2 vụ. Hai nạn nhân trốn thoát thành công, một người là nhân viên làm ở sở ngoại giao và một người là nghệ sĩ khá có tiếng những năm 1970, sau đó đã cung cấp cho cảnh sát San francisco những manh mối quan trọng về kẻ giết người bệnh hoạn này.

Theo mô tả, “The Doodler” là một người đàn ông da màu, người Mỹ gốc Phi, có chiều cao khoảng 1m80, dáng người gầy gò. Vào thời điểm gây ra hàng loạt vụ án mạng, “The Doodler” khoảng 20-23 tuổi.

“The Doodler” thường tiếp cận “con mồi” của hắn tại các CLB hoặc quán bar dành riêng cho đồng tính nam ở San Francisco. Gạ gẫm quan hệ tình dục đồng giới là chiêu quen thuộc để “The Doodler” đưa “con mồi” vào tròng.

Theo lời khai của một nạn nhân đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần “The Doodler” thì tên sát nhân hàng loạt, khoe mình là một họa sĩ truyện tranh, đã đề nghị phác thảo một bức chân dung của “con mồi” trước khi đôi bên quan hệ tình dục. Và sau cuộc mây mưa, “The Doodler” sẽ dùng sao cắt cổ “con mồi” tới chết.

Ngày 27/1/1974, sau khi một thi thể bị cắt cổ được tìm thấy ở gần khu nghỉ mát nổi tiếng Ocean Beach tại San Francisco, cảnh sát đã phát lệnh truy nã “The Doodler” đồng thời công bố mức thưởng 100 nghìn USD cho bất kì thông tin hữu ích nào có thể dẫn tới việc bắt giữ tên sát nhân.

Trong số 5 nạn nhân bị giết hại bởi “The Doodler” thì thi thể của 4 người được tìm thấy dọc bờ biển San Francisco, một bị tên này vứt ở trong công viên “Golden Gate”. Nạn nhân đầu tiên của “The Doodler” là Gerald Cavanaugh, một doanh nhân 50 tuổi.

Hồi năm 1976, cảnh sát San Francisco đã bắt giữ một người đàn ông da màu có nhiều điểm trùng khớp về nhân dạng với “The Doodler”. Tuy nhiên, do các nạn nhân từ chối ra tòa làm chứng vì không muốn để lộ thân phận và giới tính thứ ba của mình trong bối cảnh xã hội những năm 70 còn rất nhiều kì thị với cộng đồng LGBT, nên quá trình điều tra đi vào bế tắc.

Người đàn ông bị tình nghi nêu trên, không được cảnh sát tiết lộ tên tuổi, sau đó được thả và qua đời bởi một vụ tai nạn năm 1977. Tới tháng 9 năm 1978, San Francisco tiếp tục chứng kiến một vụ sát hại người đồng tính nam nữa với cách thức tương tự. Thực tế này loại trừ khả năng “kẻ tình nghi” đã qua đời vi tan nạn kể trên là “The Doodler”.

Hơn 45 năm đã qua kể từ khi thi thể nạn nhân đầu tiên của “The Doodler” được tìm thấy ở bãi biến Ocean Beach, tên sát nhân hàng loạt có sở thích vẽ chân dung nạn nhân trước khi xuống tay vẫn trong vòng bí ẩn.

Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ DNA, vụ án giết người hàng loạt “The Doodler” mới đây đã được cảnh sát San Francisco tiến hành điều tra lại. Cảnh sát San Francisco đã công bố bản phác thảo mới nhất về “The Doodler” cùng mức thưởng 500 nghìn USD cho bất kì thông tin quan trọng nào về kẻ sát nhân bệnh hoạn này.

Theo Greg McEachern, trưởng phòng cảnh sát San Francisco, thì “với sự hỗ trợ của công nghệ DAN, đặc biệt là sau vụ bắt giữ thành công tên sát nhân hàng loạt “Golden State Killer”, chúng tôi hi vọng sẽ đưa “The Doodler” ra trước vành móng ngựa, đem lại công bằng cho những nạn nhân xấu số của hắn”.
 

hoahongden12

Active Member

Huang Yong, bị xử tử hình tháng 12/2003, tức cách đây 15 năm, là một trong những tội phạm sát nhân hàng loạt gây ám ảnh bậc nhất Trung Quốc. Và tên giết người bệnh hoạn này có một sở thích kì dị…

Huang Yong, sinh năm 1974, người Hà Nam, Trung Quốc, sở hữu chiều cao khiêm tốn, để tóc húi cua, gương mặt khắc khổ, có vẻ già so với cái tuổi chưa đầy 30 của hắn. Vẻ ngoài của Huang không có gì đặc biệt. Nhưng chẳng ai ngờ được rằng, gã trai trông bình thường như hàng ngàn vạn người Trung Quốc ấy là một kẻ sát nhân hàng loạt.

Tháng 11/2003, một thiếu niên 16 tuổi tên Zhang Liang đã tới phòng cảnh sát Hà Nam để trình báo một vụ việc gây chấn động. Cậu bị một gã đàn ông lừa và bắt trói tại nhà của hắn. Zhang kể, cậu bị gã này bóp cổ và ngất đi vài lần. Khi tỉnh lại, gã nói với Zhang rằng: “Tao đã giết 25 người. Mày sẽ là nạn nhân thứ 26”.

Nhưng Zhang may mắn trốn thoát vì tên sát nhân trong một giây phút bất cẩn đã trói cậu không đủ chặt. Sau khi nghe được câu chuyện của Zhang, cảnh sát Hà Nam đã nhanh chóng tiếp cận mục tiêu và bắt giữ Huang. Tại nhà riêng của Huang, cảnh sát phát hiện được các phần thi thể của tổng cộng 12 thanh niên trẻ.

Đây là trong những lời khai của Huang khiến người nghe – những cảnh sát dạn dày kinh nghiệm của Hà Nam cũng phải lạnh gáy: “Từ khi còn là một đứa trẻ, tôi đã có một khát khao mãnh liệt trở thành sát thủ. Việc giết người cho tôi cái cảm giác tuyệt vời của một sát thủ”. Trước khi bắt đầu con đường trở thành một kẻ sát nhân hàng loạt, công việc chính của Huang là buôn bán phế liệu.

Các nạn nhân của Huang đều là những thanh niên trẻ, đang ở độ tuổi đi học. Zhang tránh xa các đối tượng là đàn ông trung niên, dù gã đã cố thử vài lần, vì đây là nhóm rất thận trọng, khó mà mắc phải các chiêu lừa tới nhà của gã. Zhang cũng không thích đối tượng phụ nữ vì nếu bắt và giết họ, với hắn chẳng có gì là “anh hùng” cả.

Thủ đoạn của Huang khi tiếp cận mục tiêu – những thanh thiếu niên khoảng 15-21 tuổi – là “sắm vai” một nhà bảo trợ sẵn sàng cung cấp việc làm thêm hoặc tài trợ giáo dục cho những chàng trai trẻ còn đang tuổi đi học này. Khi “con mồi” bắt đầu sập bẫy, hắn mời họ đến nhà riêng của mình. Tại đây Huang cho nạn nhân dùng thức uống có pha thuốc mê, sau đó trói họ và xiết cổ đến chết. Đa số nạn nhân đều bị cưỡng hiếp trước khi chết.

Giống như những kẻ sát nhân bệnh hoạn trong lịch sử Trung Quốc và Thế giới, Huang cũng có sở thích giữ lại một thứ của nạn nhân sau khi giết họ. Thắt lưng của nạn nhân là “món đồ đặc biệt” mà Huang giữ lại làm “kỉ niệm” dánh dấu mỗi phi vụ giết người thành công. Bộ sưu tập thắt lưng của Huang, theo điều tra của cảnh sát là 17 chiếc, được gã cất trong một chiếc hộp gỗ, đặt két sắt nhà gã.

Tháng 12/2003, Huang bị kết án tử hình vì 17 trong tổng số 25 vụ giết người trong quãng thời gian từ 2001-2003 mà hắn thừa nhận. Ngày 26/12 cùng năm, cuộc đời tội lỗi của kẻ sát nhân Huang Yong kết thúc bởi án từ hình bằng súng tại trường bắn Hà Nam.
 

hoahongden12

Active Member

Gao Chengyong - sát nhân hàng loạt người Trung Quốc, kẻ đã cưỡng hiếp và giết hại 11 phụ nữ trẻ trong quãng thời gian 1988-2002 đã chính thức bị xử tử hình. Nhưng so với sát nhân hàng loạt đời đầu được ghi nhận trong lịch sử Trung Quốc và Thế giới, thì “thành tích” của Gao vẫn còn kém xa nhân vật sinh trước hắn tới hơn 2000 năm sau đây...

Không phải Nam tước dâm loạn Gilles de Rais (thế kỉ 15), Quý tộc khát máu người Hugary Elizabeth Báthory (những năm 1600), Thug Behram – trùm giáo phái sát nhân tại Ấn Độ Thuggee (thế kỉ 19) hay Jack The Rippper – kẻ đã giết cả trăm gái mại dâm tại London những năm 1888, sát nhân hàng loạt đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử là một người Trung Quốc. Thậm chí còn là một thuộc hàng danh gia vọng tộc, quyền lực có thể nói chỉ kém duy nhất Hoàng đế.

Liu Pengli – Lưu Bằng Lệ là cháu của vua Hán Cảnh Đế, em họ của vua Hán Vũ Đế - một trong hai vị Hoàng đế vĩ đại nhất thời kì đầu Đế quốc Trung Hoa cùng với Tần thủy Hoàng. Bằng Lệ là con trai thứ ba của Lương Hữu Vương Lưu Vũ. Lưu Vũ là con trai thứ năm của Hán Văn Đế Lưu Hằng với Đậu Hoàng hậu, trên Vũ có anh trai Lưu Khải – người sau này lên ngôi vua – chính là Hán Cảnh Đế.

Cha của Bằng Lệ, Lương Hữu Vương Lưu Vũ, vua của Lương Quốc, là chư hầu vương có thế lực nhất thời Hàn Cảnh đế. Sử gia đời sau từng nhận xét Lưu Vũ “tuy là thần tử nhưng cũng chẳng khác gì thiên tử”, tức không hề kém xạnh so với anh trai Lưu Khải Hán Cảnh Đế.

Lưu Vũ đương thời lập được nhiều công lớn, đặc biệt là giúp Hán Cảnh Đế dẹp loạn bảy nước chư hầu. Ban đầu tình cảm anh em giữa Vũ và Cảnh Đế rất bền chặt nhưng về sau Vũ ngày càng lấn quyền vua, liên tục chiêu mộ tướng sĩ, làm loạn triều cương, giết cả đại thần Viên Áng.

Năm 144 TCN, Vũ bị Cảnh Đế trục xuất khỏi triều đình Trung ương Trường An rồi sinh bệnh mà chết tại Lương Quốc, thọ 41 tuổi. Sau khi Vũ chết, Cảnh Đế đã phân Lương Quốc thành 5 tiểu quốc, giao cho 5 con trai của Vũ làm vương cai quản (Lương, Tế Xuyên, Tế Đông, Sơn Đông, Tế Âm). Bằng Lệ, con trai thứ ba của Vũ là vua của Tế Đông – tức Tế Đông Vương.

Từ nhỏ, Bằng Lệ sớm đã không thích trau dồi việc học hành kinh sử mà chỉ mê luyện võ, bắn cung. Trong số 5 con trai của Lưu Vũ, Bằng Lệ là kẻ có võ nghệ và sức khỏe vô địch, thậm chí nức tiếng tại Lương Quốc. Nhưng Bằng Lệ là kẻ khát máu, luôn tìm kiếm sự khoái lạc qua việc giết chóc, tra tấn người khác. Chính vì lý do này mà Lệ rất không được lòng cha khi Lưu Vũ còn sống.

Tuy nhiên, sự phát triển lệch lạc về nhân cách và sự khát máu ở Bằng Lệ lỗi phần lớn là do cha hắn. Trong trận chiến dẹp loạn 7 nước chư hầu, khi Bằng Lệ mới 7-8 tuổi, Lưu Vũ đã đem con theo cùng. Và chính việc nhìn thấy cảnh cha mình cùng tướng sĩ giết chóc, máu chảy đầu rơi đã tạo ra một “vết hằn” lớn trong tâm sinh lý và sự phát triển của Bẳng Lệ sau này.

Có một giai thoại lưu truyền rằng, từ năm 15 tuổi, đã không có bất kì một binh lính nào trong quân của Lưu Vũ dám tập luyện hay song đấu với Bằng Lệ. Bởi cứ lần nào giao chiến là y như rằng Bằng Lệ sẽ giết chết người lính đó. Giết người rồi, hắn còn cắt tai, cắt ngón tay để làm chiến lợi phẩm với sự khoái trá rất bệnh hoạn.

Khi Bằng Lệ giữ ngôi Tế Đông Vương sau khi cha mất, cái sự khát máu đầy biến thái của hắn còn tăng lên theo cấp độ nhân. Giờ Bằng Lệ không giết người bằng việc song đấu nữa mà mỗi tuần hắn thường tổ chức các cuộc đi săn để thỏa mãn thú tính. “Đi săn” ở đây không phải săn thú trong rừng – chuyện vốn dĩ rất bình thường tại Trung Quốc thời đó mà là… săn người.

Những con mồi trong cuộc đi săn của Bằng Lệ thường là tù binh, tử tội, thậm chí là dân thường. Những người này sẽ phải khoác lên mình những bộ lông giả làm thú vật như hổ báo, cáo, hươu…, rồi được thả vào trong rừng tự tìm chỗ ẩn nấp khoảng nửa canh giờ trước khi Bằng Lệ cùng bộ hạ của hắn bắt đầu “cuộc săn”.

Chưa hết, phi đội sát thủ được cầm đầu bởi kẻ khát máu bệnh hoạn Bằng Lệ còn thường xuyên tổ chức những cuộc cướp bóc khách buôn hay dân thường tại các vùng núi ở Tế Đông để thỏa mãn thú vui giết chóc. Với một kẻ chẳng thiếu gì về vật chất như Bằng Lệ thì giết người là chính, cướp chỉ là phụ. Đồ cướp được hắn thường chia ra ban thưởng cho những bộ hạ có “thành tích” giết được nhiều người nhất trong mỗi lần “đi săn” như vậy.

Theo ghi chép của Sử kí Tư Mã Thiên, riêng Bằng Lệ đã giết không dưới 150 người, trong giai đoạn hắn giữ ngôi Tế Đông Vương. Phải tới năm 116 TCN, khi có quá nhiều người tố cáo những tội ác của Bằng Lệ, vua Hán Vũ Đế Lưu Triệt, cũng là anh họ của Lệ, mới tổ chức các cuộc điều tra xét hỏi.

Nhân chứng vật chứng không thiếu nhưng Hán Vũ Đế Lưu Triệt vì thương tình Hoàng thân quốc thích nên đã tha tội chết cho Bằng Lệ, chỉ tước ngôi Tế Đông Vương và đày hắn thành thứ dân, lưu ở Shangyong (nay là Trúc Sơn, Nam Đầu, Đài Loan). Ba năm sau, Bằng Lệ bị giết chết bởi con cháu của những nạn nhân từng bị hắn sát hại để mua vui trong quá khứ
 

hoahongden12

Active Member

Bỉ, quốc gia nhỏ bé và yên bình, nổi tiếng với Chocolate, Bia và Khoai tây chiên. Nhưng Bỉ cũng là nơi sản sinh ra một trong những “Sát nhân hàng loạt” gây ám ảnh nhất xưa nay. “Đồ tể phố Mons”, kẻ đã giết chết và cắt rời các bộ phân cơ thể của 5 người phụ nữ trong quãng thời gian 1996-1997. Và điều khủng khiếp hơn cả, chính là việc hơn 20 năm sau tội ác hàng loạt ấy, thân phận của “Đồ tể phố Mons” vẫn hoàn toàn bí ẩn…

Những bộ phận thi thể bị cắt rời

Tháng 3/1997, thành phố Mons, thủ phủ tỉnh Hainaut, gần biên giới Bỉ với Pháp, rung chuyển bởi tin tức một cảnh sát đã phát hiện ra các túi rác bằng nhựa có chứa nhiều bộ phận cơ thể người. Sĩ quan Olivier Motte đã tìm thấy những chiếc túi dọc theo đường phố Em Vandervelde ở Cuesmes, Mons.

Khám nghiệm tử thi cho thấy những chiếc túi chứa các bộ phận cơ thể của ba nạn nhân nữ khác nhau. Hai ngày sau phát hiện của sĩ quan Motte, một loạt túi khác đã được tìm thấy ở Mons. Lần này, những chiếc túi chứa các bộ phận bị cắt rời của một người phụ nữ, được cho là bị giết chỉ vài ngày trước đó.

Thêm 1 túi chứa các bộ phận bị cắt rời từ thi thể 1 nạn nhân nữ khác được tìm thấy trên dòng sông Haine khẳng định một sự thật khủng khiếp: Mons và khu vực lân cận thành phố này là nơi trú ẩn của một kẻ giết người hàng loạt đặc biệt tàn bạo.

Nghi phạm đầu tiên

Không mất nhiều thời gian để cảnh sát gọi tên nghi phạm số 1: Marc Dutroux. Năm 1996, Dutroux, sát nhân hàng loạt gốc Charleroi (Pháp), đã bị bỏ tù vì bắt cóc 6 cô gái và giết chết ít nhất 2 người trong số họ. Trong phiên tòa, Dutroux thừa nhận tội ác của hắn được ra lệnh bởi một nhóm bất chính bệnh hoạn trong giới thượng lưu Bỉ.

Không có bằng chứng cho thấy “nhóm đứng sau” Dutroux là ai nhưng không thể chối cãi rằng, Dutroux là một tên sát nhân độc ác, kẻ đã giam giữ và tra tấn các nạn nhân đến chết ở một phòng kín dưới lòng đất trong nhiều ngày.

Các tội ác của Dutroux được thực hiện chủ yếu ở các khu vực thuộc Hainaut khiến hắn trở thành nghi can số 1. Tuy nhiên, các “lỗ hổng” trong lập luận của ban điều tra sớm xuất hiện. Cụ thể: “Đồ tể xứ Mons” giết phụ nữ mà không phân biệt tuổi tác, xuất thân trong khi tất cả các “con mồi” của Dutroux đều là gái vị thành niên. Rõ ràng, ác nhân giết người và vứt các bộ phận cơ thể vào túi rác trên khắp Hainaut, là 1 cái tên khác.

Thân thế 4 nạn nhân đầu tiên dược xác định

Carmelina Russo, 42 tuổi, được báo cáo mất tích vào ngày 4/1/1996. Ngày 21/1, một số phần thi thể của Russo được phát hiện ở sát biên giới Bỉ - Pháp. Russo là một phụ nữ đã kết hôn và lịch trình hàng ngày của cô luôn bắt đầu từ nhà ga xe lửa tại Mons.

Martine Bohn, 43 tuổi, được tuyên bố mất tích vào ngày 21/7/1996. Martine, một người chuyển giới, từng làm việc tại các quán bar quanh biên giới Pháp và Bỉ. Khi tìm thấy các phần thi thể của Bohn trong túi rác trôi nổi trên sông Haine, các nhà điều tra đã suy luận rằng kẻ giết người đã cắt bỏ ngực của cô sau khi biết rằng Bohn là người chuyển giới. Điều này cung cấp thêm bằng chứng rằng: tội ác của tên sát nhân hàng loạt này được thúc đẩy bởi tình dục.

Jacqueline Leclercq, 33 tuổi, một phụ nữ đã li hồn vào thời điểm thi thể cô được tìm thấy. Leclercq, có 3 con với chồng cũ nhưng khi li hôn cô bị Tòa từ chối quyền nuôi con. Leclercq thường được trông thấy ở các khu vực gần nhà ga Mons cho đến khi cô mất tích vào ngày 23/1/1997. Tay và chân Leclercq đã được sĩ quan Motte tìm thấy vào ngày 22/3/1997, ngay ở đường Rue de Emile Vandervelde.

Nathalie Godart, 21 tuổi, là nạn nhân nhỏ tuổi nhất của “Đồ tể phố Mons”. Godart có một con gái gần 3 tuổi, nhưng đứa trẻ này đã được đưa vào Chương trình chăm sóc cộng đồng của Thành phố do một loại rắc rối trong cuộc sống của cô.

Vào thời điểm cô mất tích, Godart sống tại một căn phòng nhỏ ở Mons và thường xuyên lui tới các quan bar, tụ điểm ăn chơi như Intercity, Metropole và Cafe de la Gare. Godard, theo như nhiều nhân chứng cho biết, là một phụ nữ có đời sống tình dục phóng túng nhưng không phải gái mại dâm. Tương tự Bohn, thi thể bị cắt rời nhiều bộ phận của Godart được tìm thấy ở sông Haine.

Nạn nhân cuối cùng Begonia Valencia

Trong khi thân thế của các nạn nhân dần được xác định, cảnh sát Bỉ, trong cuộc họp báo chính thức đã đưa ra những phác thảo quan trọng về kẻ giết người hàng loạt. Giả thuyết đáng chú ý nhất: “Đổ tể xứ Mons” có thể đã được đào tạo về y tế, vì các bộ phân cơ thể của nạn nhân đều được cắt rời với độ chính xác rất cao.

Đặc phái viên của FBI, suy luận rằng kẻ giết người có một công việc ổn định dựa trên thực tế là tất cả các nạn nhân của hắn đều bị sát hại vào cuối tuần. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1997, một bản tin được phát trên Kênh truyền hình Quốc gia Bỉ cho biết cảnh sát đang điều tra khả năng có mối liên hệ tôn giáo hoặc huyền bí với các tội ác của “Đổ tể phố Mons”.

Nạn nhân cuối cùng được biết đến của “Đồ tể phố Mons” là Begonia Valencia, 37 tuổi, có báo cáo mất tích từ thị trấn Frameries vào mùa hè năm 1997. Một số bộ phận thi thể của Valencia được phát hiện tại khu rừng nhỏ, nằm giữa Bethleem và Hyon.

Một người hàng xóm của Valencia sau đó nói rằng cô thường đi xe buýt địa phương mỗi tối. Rất có thể tên "Đồ tể phố Mons" đã phát hiện được thói quen này của Valencia và “chờ sẵn” tại một trạm xe buýt hoặc nhà ga tại Mons, để thực hiện tội ác.

Nghi phạm thứ hai xuất hiện

Vào ngày 15/9/1990, một túi rác màu đen đã được tìm thấy gần Khu vực Hải quân Brooklyn cách, không xa New York. Túi rác chứa hai cánh tay và một chân bị cắt rời. Một chiếc túi khác được phát hiện vài giờ sau đó chứa các bộ phần còn lại của một người phụ nữ. Mười ngày sau, thân phận của nạn nhân được xác định: Mary Beal, 61 tuổi.

Beal, độc thân, sống trong 1 căn hộ nhỏ ở đường Mosholu Parkway với vài chú chó. Vụ mất tích của Beal đã được báo cáo bởi những người hàng xóm, sau khi họ không thấy Beal ra ngoài đi dạo vào buổi sáng. Cuộc điều tra cái chết của Beal, cho thấy cô làm việc bán thời gian với tư cách là phiên dịch viên của tòa án.

Vụ án cuối cùng của Beal trước khi cô mất tích, liên quan đến “cuộc chiến” giành quyền nuôi con của một cặp đôi li hôn người Nam Tư, Smajo Dzurlic và vợ anh ta. Hơn một thập kỷ sau, cảnh sát đã bắt giữ Smajo Dzurlic (còn có một cái tên khác- Smail Tulja) vì tội giết Beal. Theo điều tra của Sở cảnh sát New York, Tulja có mối quan hệ tình cảm với Beal vào thời điểm hắn ra tay với phụ nữ này.

Tulja đã bị bắt vào mùa đông năm 2009 tại Montenegro. Chính quyền Mỹ ban đầu muốn dẫn độ Tulja về Mỹ để xét xử vụ giết người Beal, nhưng bất thành vì Montenegro không cho phép dẫn độ công dân nước mình. Tulja sau đó bị Tòa án Montenegro xét xử về hàng loạt tội ác tại Mỹ, Montenegro, CH Séc và Albania.

Ngoài Beal, Tulja còn chịu cáo buộc liên quan đến việc giết vợ, người đã mất tích ở Albania vài năm trước năm 2009. Tulja cuối cùng đã bị kết án về vụ giết Beal, nhận án tù giam 12 năm tại Nhà tù Goth. Năm 2012, Tulja, tự sát chết trong nhà tù.

Giữa vụ Tulja giết bà Beal và “Đồ tể phố Mons” rõ ràng có rất nhiều điểm tương đồng. Và chi tiết đáng chú ý nhất chính là bằng chứng cho thấy Tulja từng sống ở Bỉ trong khoảng thời gian từ 1996 đến 1997, giai đoạn mà “Đồ tể phố Mons” thực hiện các tội ác khủng khiếp của hắn. Tất cả những điều đó khiến Tulja trở thành nghi phạm số 1.

Rốt cuộc, thân phận “Đồ tể phố Mons” vẫn trong vòng bí mật

Ngoài Tulja, một nghi phạm đáng chú ý khác trong vụ án “Đồ tể phố Mons” là Jacques Antoine. Antoine, hành nghề bác sĩ, bị bắt giữ vào năm 2012, sau vụ tấn công một phụ nữ ở thành phố Strasbourg.

Trước vụ bắt giữ này, con trai Antoine, đã viết thư cho cảnh sát Pháp cáo buộc cha mình là “Đồ tể phố Mons”. Trong lá thư này, con trai Antoine đưa ra những nghi ngờ của cậu như việc cha mình đã sống ở Mons trong quãng thời gian tội ác của “Đồ tể phố Mons” được thực hiện và cậu nhiều lần nhìn thấy cha mang theo những túi rác màu đen với hành vi khác thường.

Tuy nhiên, quá trình điều tra sau đó đã bác bỏ khả năng Antoine là “Đổ tể phố Mons”. Và cho đến thời điểm hiện tại, tên sát nhân hàng loạt gây ám ảnh nhất nước Bỉ vẫn chưa lộ diện trước ánh sáng của công lý. Hắn là Dutroux hay Tulja? Hắn đã chết hay vẫn đang ung dung săn tìm những “con mồi” mới ở Mons? Không ai biết…
 

hoahongden12

Active Member

Mỗi ngày Thế giới mà chúng ta đang sống chứng kiến biết bao tội ác. Lễ tình nhân Valentine hàng năm dĩ nhiên cũng chẳng phải ngoại lệ. Lịch sử đã chứng kiến nhiều vụ án mạng “kinh điển” trong ngày 14/2 này. Nhưng sát nhân hàng loạt, chỉ giết người trong ngày Valentine, thì trong hồ sơ lưu trữ tội phạm chỉ có duy nhất 1 cái tên.

Bartolomeo Gagliano, đã tự sát trong nhà tù dành cho những tội phạm nguy hiểm và có vấn đề về mặt tâm thần ở Sanremo, vùng Liguria miền bắc Italia, vào ngày 22/1/2015. Trước đó hàng chục năm, Gagliano bị Tòa án Italia tuyên án tù chung thân vì nhiều tội danh mà hắn phạm phải, đáng chú ý nhất trong số đó là giết chết 3 người phụ nữ.

Cuối năm 1981, Gagliano bị bắt lần đầu tiên sau khi Viện công tố Genoa thu thập được đầy đủ bằng chứng cho thấy hắn chính là kẻ đã giết chết một cô gái điếm vào đúng đêm 14/2 cùng năm.

Theo hồ sơ vụ án, Gagliano sau khi quan hệ tình dục với cô gái này đã đánh đập và bóp cổ nạn nhân tới chết. Gagliano không bị xử tử hình bởi những kiểm tra sau này cho thấy hắn là một kẻ có vấn đề lớn về mặt tinh thần. Hiểu đơn giản, Gagliano là một kẻ tâm thần và không hoàn toàn ý thức được về tội ác của mình.

Sau khi chính thức bị tuyên án, Gagliano bị giam ở nhà tù tại Genoa. Nhưng đến đầu tháng 2 năm 1981, bằng một cách nào đó, kẻ sát nhân tâm thần này đã vượt ngục thành công. Và không lâu sau khi trốn thoát khỏi nhà tù Marassi ở Genoa, Gagliano tiếp tục gây ra tội ác.

Lần này hắn thậm chí còn “nhân đôi” số nạn nhân của mình: một phụ nữ (cũng là gái bán hoa) và một người chuyển giới (nam sang nữ). Đáng nói vụ giết người kép này của Gagliano cũng được hắn thực hiện trong ngày Valentine 14/2, cũng với cách thức tương tự như năm 1981.

Chỉ giết người vào ngày Lễ tình nhân, nên Gagliano được giới truyền thông Italia và Thế giới đặt cho biệt danh “Quái vật ngày Valentine”. Gagliano sau đó bị bắt giam trở lại và hắn tiếp tục chịu án tù chung thân, với sự quản chế chặt chẽ hơn tại nhà giam Marassi.

Các chuyên gia tâm lý pháp y luôn bảo lưu quan điểm rằng Gagliano là một kẻ tâm thần, ý thức không đầy đủ. Nhưng tên sát nhân hàng loạt này, ngoài việc giết người không ghê tay và lại chỉ sát hại nạn nhân vào ngày Valentine, còn có biệt tài vượt ngục.

Bằng chứng là đến tháng 12/2013, thời điểm đó Gagliano đã 55 tuổi nhưng hắn lại tiếp tục thực hiện một vụ đào thoát ngoạn mục nữa. Tháng 12/2013, Gagliano sau một quãng thời gian dài được quản ngục đánh giá là cải tạo tốt đã nhận được đặc ân về quê nhà thăm mẹ già.

Theo kèm Gagliano trong chuyến về thăm nhà là 3 sĩ quan cảnh sát của nhà tù Marassi. Ấy vậy mà tên sát nhân hàng loạt Gagliano vẫn thoát khỏi sự kèm cặp của 3 sĩ quan này, thoát ra khỏi nhà mẹ hắn, sau đó chặn một xe chuyên vận chuyển bánh ngọt uy hiếp lái xe đưa hắn tới Genova.

Cú tẩu thoát ngoạn mục của Gagliano gây chấn động toàn Italia. Cảnh sát “đất nước hình chiếc ủng” đã phát lệnh truy nã quốc tế Gagliano. Cuộc truy lùng Gagliano cho thấy, từ Genova hắn đã vượt qua biên giới Italia – Pháp và hiện diện ở thành phố du lịch Menton.

Tuy nhiên, Gagliano không ẩn náu được lâu và lần này hắn chưa kịp gây ra bất kì một vụ sát nhân nào. Với sự hỗ trợ của cảnh sát Pháp, Gagliano bị bắt giữ tại Menton và dẫn độ trở về Italia.

Gagliano sau đó chuyển tới nhà giam tại Sanremo, vùng Liguria. Tới tháng 1/2015, Gagliano được phát hiện là đã tự sát bằng cách treo cổ trong phòng biệt giam của hắn. Kết thúc cuộc đời của “Quái vật ngày Valentine".
 

hoahongden12

Active Member

Tháng 4/1987, người dân Ma Dương, huyện tự trị dân tộc thuộc Hoài Hóa, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc xôn xao vì một sự kiện gây chấn động. Teng Xingshan (Đằng Hưng Thiện), gã trai bán thịt lợn hiền lành có tiếng trong vùng bị cảnh sát bắt vì tội giết người.

Hưng Thiện khi đó bị tình nghi là sát nhân đã giết hại một cô gái có tên Shi Xiaorong (Thi Tiêu Vinh). Tiêu Vinh là nhân viên phục vụ tại một khách sạn ở Ma Dương, một trong những mối quen mà Hưng Thiện thường cung cấp thịt lợn trong suốt 1 năm qua.

Một tháng trước ngày Hưng Thiện bị bắt, người nhà Tiêu Vinh có đơn trình báo về sự mất tích của cô lên chính quyền địa phương. Đầu tháng 4/1987, một thi thể phụ nữ bị chặt chân tay được tìm thấy ở sông Ma Dương.

Cảnh sát Ma Dương đã liên kết sự kiện Tiêu Vinh mất tích với xác chết trôi sông nêu trên và mời người nhà của Tiêu Vinh tới nhận dạng. Chị của Tiêu Vinh khẳng định đấy chính là thi thể của Tiêu Vinh. Ba ngày sau, Hưng Thiện bị bắt vì theo nhận định ban đầu của cảnh sát, anh là nghi can số 1.

Tại sao Hưng Thiện lại bị coi là kẻ tình nghi đầu tiên trong cái chết của Tiêu Vinh. Có hai lý do quan trọng, tất nhiên là dưới góc nhìn của cảnh sát. Thứ nhất, Thiện và Vinh có mối liên hệ nhất định, không chỉ xoay quanh công việc giữa một người cung cấp thịt lợn cho khách sạn lớn nhất trong vùng và một nhân viên tại khách sạn đó.

Thứ hai, Cơ quan điều tra sau khi khám nghiệm tử thi nhận định rằng, những vết cắt xẻ chân tay nạn nhân cho thấy kĩ thuật điêu luyện của một “tay dao” chuyên nghiệp. Hưng Thiện, trong khi đó, lại là một người bán thịt lợn, trong một gia đình có truyền thống nghề này từ đời ông cố nội, thậm chí còn nổi tiếng trong vùng nhờ kĩ năng xẻ thịt nhanh và đẹp.

Bằng một cách nào đó, không loại trừ khả năng dùng nhục hình, cảnh sát Ma Dương đã có được lời thú tội giết Tiêu Vinh của Hưng Thiện. Bản cáo trạng đọc trước toà nêu rõ Hưng Thiện sau khi quan hệ tình dục với Tiêu Vinh, giữa hai người đã xảy ra cãi vã vì Thiện nghi Vinh trộm tiền của anh. Trong lúc nóng giận, Thiện đã dùng dao đâm chết Vinh và cắt rời chân tay cô, rồi đem thi thể ném xuống dòng Ma Dương.

Hưng Thiện sau đó bị Tòa án nhân dân Hồ Nam kết án tử hình bất chấp đơn kháng cáo của anh cùng chiến dịch kêu oan có chữ kí của hơn 300 dân làng – những người không bao giờ tin chàng thanh niên dễ mến Hưng Thiện lại là kẻ sát nhân máu lạnh. Hưng Thiện chính thức bị xử tử hình tại trường bắn Hồ Nam vào năm 1989.

Vụ án khép lại. “Kẻ thủ ác” phải đền tội. Đa số các thành viên trong đội điều tra đã phá án thành công cái chết của Tiêu Vinh sau đó đều thăng quan tiến chức. Những người tin rằng Hưng Thiện bị oan, từ những người thân trong gia đình đến dân làng ở Ma Dương, dù không phục dù đau lòng nhưng thì khi thời gian qua đi, bi kịch năm nào cũng không còn được họ nhắc lại nữa.

Nhưng quả thực Hưng Thiện đã chết oan, đã bị xử tử hình vì một tội ác khủng khiếp mà anh ta không hề có một chút liên quan nào. Nếu như Số phận của Hưng Thiện khiến anh rơi vào vòng oan trái, khiến anh phải chết trong nỗi uất hận thì Ông Trời cũng đã mở ra một con đường để anh được giải oan.

Bởi thực tế, Tiêu Vinh không hề… chết. Thi thể bị cắt rời chân tay trôi trên dòng Ma Dương cuối Xuân năm 1987 hoàn toàn không phải là Tiêu Vinh. Cô gái có tên Tiêu Vinh – mà tất cả đều nghĩ là đã chết và không ít người tin rằng bị giết bởi Hưng Thiện – đúng là đã mất tích nhưng rốt cuộc vẫn sống sờ sờ.

Năm 1993, tức 4 năm sau khi Hưng Thiện bị tử hình, Tiêu Vinh bất ngờ xuất hiện, không phải ở Ma Dương – Hồ Nam, mà là quê gốc của cô Quý Châu. Tiêu Vinh, trong lời khai của mình với cơ quan điều tra sau này, kể rằng cô bị bắt cóc vào tháng 3/1987 và bị lừa bán làm vợ cho một người đàn ông ở Sơn Đông. Vinh cũng thừa nhận cô chẳng hề biết ai có tên là Hưng Thiện cả.

Tiêu Vinh và chồng sau đó có liên quan tới một đường dây buôn bán ma túy ở Sơn Đông. Cô bị bắt cùng chồng, chịu án tù giam 3 năm. Sau khi mãn hạn tù, Tiêu Vinh trở về quê nhà ở Quý Châu. Đấy chính là lý do Tiêu Vinh bặt vô âm tín từng ấy năm.

Điều đáng ngạc nhiên nhất là ở chỗ, một Tiêu Vinh bị bắt giam vì liên quan tới đường dân buôn ma túy và một Tiêu Vinh bị giết hại xác thả trôi sông, vẫn cùng tồn tại trong hồ sơ lưu của công an hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Nam, mà không nhân viên hữu trách nào phát hiện ra sự phi lý đó.

Phải tới năm 2004, những người thân của Hưng Thiện mới nghe phong thanh rằng Tiêu Vinh vẫn còn sống và đang ở Quý Châu. Vợ và con gái của Hưng Thiện – tên Đằng Yên sau đó đã đến nhà của Tiêu Vinh để về kể bi kịch mà gia đình họ phải gánh chịu bởi bản án tử hình oan nghiệt năm 1989.

Sau câu chuyện đẫm nước mắt giữa 3 người phụ nữ, cùng với lời hứa sẽ đứng ra làm chứng của Tiêu Vinh, cuối tháng 12/2004, Đằng Yên chính thức nộp đơn đề nghị Trung tâm hỗ trợ pháp lý thành phố Hoài Hóa, Hồ Nam nhờ giúp đỡ trong việc lật lại vụ án oan của Hưng Thiện.

Đúng nửa năm năm sau, tháng 7/2005, Toàn án Hồ Nam chính thức tuyên bố Hưng Thiện vô tội. Gia đình của tử tù chết oan này được bồi thường 666 nghìn Nhân dận tệ. Đội điều tra vụ án và Hội đồng xét xử vụ “Đằng Hưng Thiện giết Thi Tiêu Vinh” năm nào, toàn bộ đều bị kỉ luật, cách chức vụ đang đảm nhiệm vào thời điểm đó.

16 năm sau khi bị tử hình bởi một tội ác mình không hề liên quan, Hưng Thiện được giải oan. Nhưng phía sau vụ án oan của Hưng Thiện vẫn còn đó những câu hỏi lớn: Tử thi bị cắt lìa tay chân năm ấy không phải là Thi Tiêu Vinh, vậy nhân thân thực sự của cô gái xấu số này? Tại sao cô lại chết theo cách đau lòng đến vậy? Và kẻ thủ ác thực sự là ai?
 

hoahongden12

Active Member

Valentine 14/2 là ngày tình yêu thăng hoa. Nhưng đây cũng là ngày gắn liền với nhiều vụ án mạng đẫm máu và bí ẩn. Dưới đây là một vụ án mạng trong ngày Lễ tình nhân khiến cảnh sát Mỹ lao tâm khổ tứ hơn 12 năm qua nhưng chẳng thể nào tìm được kẻ thủ ác…

22h tối Valentine 2007, ông bà Art - Lois Serrin đến thăm cô út Jodine, thói quen hàng tuần của cặp vợ chồng già kể từ khi con gái quyết định ở riêng từ hơn 10 năm qua. Jodine, 39 tuổi, độc thân, sống ở một căn hộ nhỏ tại đường Swallow Lane, hạt San Diego, California, không xa nhà bố mẹ.

Nhưng là một người khuyết tất bẩm sinh (liên quan đến thần kinh) nên Jodine vẫn luôn nhận được sự trông chừng từ những thành viên trong gia đình Serrin, đặc biệt là bố mẹ cô.

Đèn phòng khách nhà Jodine vẫn sáng, nhưng dù ông bà Serrin bấm chuông năm bảy lần, vẫn không thấy cô út ra mở cửa. Ngay cả khi bà Lois gọi vào điện thoại di động của Jodine thì con gái của họ cũng không bắt máy. Đây đúng là một sự lạ nên ông Art đành lấy chìa khóa dự phòng mở cổng nhà Jodine.

Nghĩ là con gái ngủ sớm nên ông bà Serri đã đi thẳng tới phòng ngủ của Jodine. Tại đây, họ bắt gặp Jodine (dường như) đang quan hệ tình dục với một người đàn ông lạ mặt, người mà sau này ông Art khẳng định chưa từng chạm mặt trong thành phố trước tối Valentine định mệnh ấy.

Dĩ nhiên rơi vào hoàn cảnh nhạy cảm ấy thì ông bà Serrin chỉ biết mở lời xin lỗi và nói họ sẽ chờ Jodine ở phòng phụ, vốn là nơi cô út luôn chuẩn bị sẵn mỗi khi bố mẹ muốn ngủ lại căn hộ của mình.

Trong lúc chờ đợi con gái và gã trai lạ “xong việc”, ông bà Serrin thực ra không dấu được sự vui mừng. Bởi trong tâm trí họ, ít nhất cô con gái út khuyết tật của mình giờ cũng đã có người để yêu thương.

10 phút, 15 phút rồi 30 phút trôi qua nhưng Jodine vẫn không thấy ra “trình diện” bố mẹ. Điều đáng nói, từ phòng ngủ của Jodine lại chẳng phát ra bất kì âm thanh nào. Một sự im lặng đáng sợ. Sốt ruột, ông Art đành đi tới phòng ngủ con gái một lần nữa.

Ông Art gõ cửaa. Một tiếng gõ. Hai tiếng gõ. Ba tiếng gõ. Không ai mở cửa. Cũng chẳng có lời hồi đáp từ phía trong phòng. Cực chẳng đã, ông Art xoáy nắm cửa phòng và bước vào. Đập vào mắt ông là một cảnh tượng kinh hoàng.

Jodine nằm đó, không một mảnh vải che thân, cặp mắt trợn trừng và vô hồn. Còn người đàn ông lạ mặt, mới nửa tiếng trước còn đang quấn chặt lấy Jodine thì biến mất. Như thể gã chưa từng xuất hiện ở nơi này.

Nhận được cuộc gọi khẩn từ ông Art, cảnh sát và xe cứu thương nhanh chóng có mặt tại căn hộ Jodine. Nhưng Jodine, cô gái độc thân 39 tuổi, thì không thể qua khỏi. Cô đã chết từ trước khi ông Art mở cửa phòng ngủ. Nguyên nhân tử vong là bị đánh và bóp cổ.

Theo điều tra ban đầu của cảnh sát Hạt San Diego, California thì không có bất kì dấu hiệu nào cho thấy kẻ thủ ác đã đột nhập vào nhà. Cửa sổ phòng ngủ căn hộ vẫn đóng chặt vào thời điểm xảy ra án mạng cho thấy hung thủ sau khi giết hại Jodine đã tẩu thoát bằng cửa chính.

Khám nghiệm tử thi cho thấy Jodine tử vong trong khoảng thời gian từ 21h30-22h30 hôm 14/2/2007 và giữa cô và hung thủ thực sự đã có quan hệ tình dục. Có quá ít manh mối và dữ liệu để khẳng định, Jodine bị cưỡng hiếp trước khi bị sát hại hay tên sát nhân đã giết chết cô sau đó mới làm trò đồi bại.

Mô tả đáng chú ý duy nhất về nhân dạng kẻ thủ ác, theo như những gì ông Art thấy, thì hắn là người da trắng, tuổi ngoài 30 tuổi và có mái tóc màu nâu.

Hung thủ để lại nhiều dấu vân tay tại hiện trường, DNA của hắn trên thi thể của Jodine cũng được thu thập nhưng điều kì lạ là ở chỗ “vết tích” của tên sát nhân này không trùng khớp với bất kì cơ sở dữ liệu lưu trữ trên toàn quốc. Quả là khó tin đối với một quốc gia sở hữu hồ sơ dữ liệu về nhân thân tốt như Mỹ. Một kẻ sát nhân có thật nhưng lại vô hình, vô dạng!

12 năm sau khi cái chết đau lòng của Jodine Elizabeth Serrin, cảnh sát của Hạt San Diego vẫn chưa từ bỏ nỗ lực tìm kiếm nghi phạm. Đại tá Bryan Hargett, trưởng phòng cảnh sát Hạt San Diego cho biết vụ án vẫn đang được điều tra và phòng thí nghiệm tội phạm của Sở sẽ bắt đầu một vòng phân tích DNA mới trong tháng Hai này.

“Còn sống ngày nào, chúng tôi vẫn sẽ theo đuổi vụ án này đến cùng. Jodine đã ra đi mãi mãi nhưng ý nghĩ rằng kẻ sát nhân vẫn sống ung dung ở đâu đó, tìm cách làm hại những người dễ bị tổn thương như Jodine, luôn ám ảnh chúng tôi hàng ngày. Con thú đội lốt ngườ ấy phải bị trừng trị vì tội ác của hắn”, ông Art đã phát biểu như thế trong một buổi gây quỹ ủng hộ những nạn nhân như cô út xấu số nhà Serrin, vào cuối năm ngoái.
 

hoahongden12

Active Member

Gilles de Rais được coi là tên tội phạm đầu tiên trong những kẻ giết người hàng loạt thời hiện đại bởi những tội ác rùng mình mà hắn đã gây ra.

Xuất thân danh giá của kẻ giết người biến thái

Gilles de Rais sinh năm 1405 trong một gia đình danh giá ở Pháp. Càng lớn Gilles càng thể hiện là một đứa trẻ thông minh, đọc thông viết thạo tiếng Latin, lại còn có năng khiếu về ngôn ngữ.

Sau khi cha mẹ mất vào năm 1415, Gilles de Rais lớn lên dưới sự giám hộ của ông ngoại và sở hữu khối tài sản lớn sau khi kết hôn với nữ công tước Catherine de Thouars của xứ Brittany.

Nhờ sự ảnh hưởng của nhà vợ, hắn được nhận vào làm ở tòa án Pháp. Từ năm 1427 đến 1435, Gilles làm Chỉ huy quân đội Hoàng gia dưới sự lãnh đạo của nữ anh hùng Joan of Arc trong Cuộc chiến Trăm năm chống lại Anh và các đồng minh Burgundia. Sau này, tên giết người hàng loạt còn được phong làm Nguyên soái của Pháp.

Trong khoảng thời gian từ năm 1434 đến 1435, Gilles de Rais từ bỏ cuộc sống quân ngũ và đốt hết tài sản vào những sân khấu kịch hoành tráng do hắn ta tự viết kịch bản và dàn dựng. Đó cũng chính là khoảng thời gian hàng loạt vụ mất tích trẻ em diễn ra quanh khu vực nhà quý tộc người Pháp sinh sống, làm tăng mối nghi ngờ về những hành vi mờ ám của hắn ta.

Kẻ ấu dâm bệnh hoạn bị vạch mặt

Tội ác của Gilles chỉ bị phanh phui sau khi hắn bắt cóc một giáo sĩ của nhà thờ Saint-Étienne-de-Mer-Morte do một tranh chấp xảy ra vào ngày 15/5/1440. Hành vi này buộc giáo hội phải tiến hành điều tra và vô tình thu thập được nhiều bằng chứng để đưa tên ác quỷ đội lốt người ra ánh sáng.

Gilles đã bị buộc tội bắt cóc, tra tấn, hãm hiếp và giết hại hàng trăm đứa trẻ cả trai lẫn gái, trong đó nạn nhân chủ yếu là các bé trai. Trong phiên tòa xét xử, trước những chứng cớ do kẻ đồng phạm cung cấp, Gilles đã không thể chối cãi được tội ác của mình.

Theo lời khai của "con quỷ đội lốt người", vụ án mạng đầu tiên xảy ra vào khoảng mùa xuân năm 1432 đến năm 1433 tại Champtocé-sur-Loire nhưng không còn bất cứ nhân chứng liên quan nào sống sót.

Không lâu sau đó, Gilles chuyển tới Machecoul sinh sống và tại đây hắn ta đã tự tay giết hại hoặc sai người giết không biết bao nhiêu đứa trẻ sau khi giở trò xâm hại tình dục. Năm 1437, người ta đã tìm thấy 40 nạn nhân chết trong tình trạng lõa thể ở Machecoul.

Vụ bắt cóc và sát hại trẻ em đầu tiên được ghi nhận liên quan tới một cậu bé 12 tuổi với cái tên Jeudon. Cậu bé học việc tại cửa hàng đồ lông Guillaume Hilairet được 2 người em họ của Gilles de Rais nhờ đưa thư tới Machecoul và không bao giờ quay trở về nữa.

Các nhân chứng cho biết tên giết người hàng loạt thường dụ dỗ bọn trẻ từ 6 – 18 tuổi, chủ yếu là các bé trai tóc vàng, mắt xanh giống như hắn hồi còn nhỏ.

Những đứa trẻ này sẽ được mang tới nơi hắn ở, dỗ ngon dỗ ngọt bằng quần áo đẹp và thức ăn ngon trước khi trở thành con mồi thỏa mãn thú tính của con quỷ trong bộ quần áo quý tộc. Tại đây, những con "cừu non" ngây thơ sẽ bị Gilles xâm hại tình dục, tra tấn, mổ bụng rồi thủ dâm với những cái xác vô hồn.

Theo lời khai của hai tên người hầu từng tiếp tay cho chủ nhân làm điều ác, chúng bị buộc phải đi bắt cóc trẻ em mang về thỏa mãn sở thích bệnh hoạn của hắn ta. Những tên này không những bị bắt đứng nhìn mà còn phải ra tay tra tấn lũ trẻ trong một căn phòng ở Machecoul trong khi ông chủ sung sướng đứng nhìn nạn nhân la hét trong đau đớn.

Sau khi những đứa trẻ vô tội chết đi, thi thể và quần áo sẽ bị vứt hết vào lò sưởi phi tang. Mặc cho căn phòng ngập ngụa mùi máu tanh và mùi xác bị thiêu, tên sát nhân vẫn lim dim tận hưởng sự cực khoái của mình.

Cho đến nay số nạn nhân chính xác phải bỏ mạng tức tưởi dưới tay kẻ ấu dâm bệnh hoạn vẫn chưa được xác định nhưng người ta tin rằng con số đó có thể lên tới 600.

Với từng đó tội ác đã gây ra, tên sát nhân máu lạnh đã bị kết án tử hình và treo cổ tại Nantes vào ngày 26/10/1440.
 

hoahongden12

Active Member

Dù hết sức nỗ lực, cảnh sát Nga vẫn chưa thể bắt được tên giết người máu lạnh này sau 5 năm truy nã.

Sự mất tích bí ẩn của những phụ nữ trẻ

Tên sát nhân hàng loạt Valery Andreev, sinh năm 1957 tại vùng Orenburg (hay còn gọi là vùng Orsk) nước Nga, hiện là cái tên bị truy nã hàng đầu tại quốc gia này từ năm 2012. Suốt 5 năm qua, mỗi khi có một phụ nữ mất tích quanh khu vực này, người dân lại liên tưởng tới hàng loạt những vụ án mạng gây ra bởi Valery Andreev.

Theo điều tra của sở cảnh sát Nga, sát nhân Andreev bị buộc tội giết người hàng loạt, bạo hành tình dục và hiếp dâm.

Cục điều tra địa phương đã công bố dữ liệu ít nhất 8 vụ án mạng liên quan đến Andreev. Tên này đã giết ít nhất 7 phụ nữ trong độ tuổi từ 17 đến 40, và cũng phải chịu trách nhiệm cho sự biến mất của khoảng 29 phụ nữ trong khu vực từ đầu năm 2009 đến tháng 10/2011.

Valery Andreev bắt đầu gây án hàng loạt từ năm 2006 với cùng cách thức: cho nạn nhân đi nhờ xe, đánh ngất, hiếp, giết rồi phi tang thi thể ở khu ngoại ô. Tinh vi hơn, hắn còn sửa sang lại ga-ra, tạo thêm lối đi bí mật để tiện bắt giữ, lạm dụng các nạn nhân trong nhiều ngày. Sau khi gây án, Andreev sơn lại tường để xóa sạch dấu vết.

Danh tính của tên sát nhân giấu mặt này chỉ bắt đầu lộ diện vào năm 2012, khi nạn nhân 18 tuổi Olga Zhuravleva mất tích vào tối 30/6 tại vùng Orenburg.

Trước khi mất tích, cô gái gọi điện cho bạn, nhắn rằng mình không bắt được chiếc xe buýt nào và có lẽ sẽ phải đi nhờ xe của một người qua đường. Sau đó, không ai còn biết tung tích của Olga cho tới 1 năm sau khi những công nhân làm việc gần công trường đường cao tốc Orsk – Chelyabinsk đào đất và phát hiện thi thể của cô gái xấu số.

Nghi can được xác định sau 1 tuần cô gái Olga Zhuravleva mất tích.

Các nhân chứng xác nhận cô đã đi nhờ xe SsangYong màu trắng – loại xe hiếm trong khu vực và Andreev là một trong hai người sở hữu chiếc xe này.

Ngay lập tức, nghi can Andreev cùng vợ và hai con được triệu tập để thẩm vấn nhưng không đạt được kết quả.

Cảnh sát buộc phải thả hắn do không đủ bằng chứng để bắt giữ và thả với điều kiện sẽ triệu tập Andreev bất cứ khi nào cảnh sát gọi. Tuy nhiên, hắn biến mất ngay buổi sáng hôm sau. Sau đó không lâu, cảnh sát cũng tìm được ADN của nạn nhân Olga Zhuravleva vương lại trong xe của Andreev.

Các đồng nghiệp của nghi phạm khai nhận, Valery Andreev là một tài xế xe tải đường dài chuyên chở hàng hóa khắp nước Nga. Vì tính chất công việc, hắn thường làm việc một mình và thuận tiện nhắm vào các nạn nhân nữ khi đêm xuống.

Nạn nhân thứ 2 tên là Ayjan Urkumbaeava gọi điện thoại cho gia đình lần cuối vào ngày 28/6/2010 khi đang trên đường về nhà từ một cửa hàng quần áo.

Trong cuộc gọi, cô cho biết đã xin đi nhờ được và sẽ về nhà sau 10 phút. Hơn 15 phút sau không thấy em gái về cũng như không liên lạc được, người anh trai cùng gia đình dốc sức tìm nhưng không bao giờ còn được gặp lại Ayjan nữa.

Nạn nhân thứ 3 có tên Daria Fadina mất tích vào 9/9/2010. Cô gọi điện cho mẹ từ cửa hàng thực phẩm và cho biết mình đang xin đi nhờ xe của một người lái xe tải.

Nạn nhân số 4 là cô gái 21 tuổi Ekaterina Morozova mất tích từ tối 11/7/2011. Sau cuộc cãi vã với bạn, cô giận dữ gào thét trên điện thoại với gia đình rồi bỏ đi. Không ai còn gặp lại cô gái này nữa.

Nạn nhân xấu số thứ 5 là Alina Kuzhagulova, cô gái đến từ làng Dombarovka đang trên đường tới dự đám cưới tại Orsk lúc 12h30 chiều 20/8/2011. Sau khi cô rời nhà 20 phút, mẹ cô gọi điện nhưng máy liên tục bận. Những người đi hái nấm sau này phát hiện thi thể cô gái gần một con suối nhỏ vào ngày 20/10, tròn 2 tháng sau đó.

Nạn nhân thứ 6 mà tên sát nhân ra tay tên là Irina Nikolskaya mất tích vào tháng 11/2011. Cô rời căn hộ 2 tuần sau khi hạ sinh cậu con trai. Người chồng khi trở về chỉ thấy cậu bé khóc dữ dội mà không thể nào liên lạc với vợ mình.

Manh mối lần ra nghi phạm

Không ai biết được tổng số nạn nhân là bao nhiêu vì cảnh sát không có đủ cơ sở để điều tra nghi phạm theo hướng giết người hàng loạt; mỗi vụ đều được điều tra riêng rẽ và đều đi đến ngõ cụt. Năm 2009, khi người dân tại khu vực lên tiếng cho rằng tất cả nạn nhân đều bị giết bởi cùng một người, cảnh sát ngay lập tức phủ nhận tin này trước báo giới.

Họ đưa ra dẫn chứng rằng các nhân chứng cho biết nạn nhân Darya Fadina đi nhờ xe tải hiệu KAMAZ màu vàng với bạt phủ màu xanh trên đường cao tốc M-5 cắt ngang qua huyện Novosergievka, nước Nga vào ngày 9/9/2009.

Tại thời điểm này, Andreev đã được đưa vào danh sách tình nghi và cũng lái một chiếc xe màu vàng. Tuy nhiên, xe hắn lái mang hiệu Mercedes, không phải KAMAZ, dù hai xe này đều nhìn khá giống nhau.

Mối nghi ngại về một tên giết người hàng loạt ngày càng hiển hiện rõ. Cảnh sát hầu như không điều tra được gì và các cư dân vùng Orenburg tự điều tra theo hướng của riêng mình.

Họ tạo nên những cộng đồng trao đổi thông tin trên mạng xã hội, và sử dụng những bằng chứng gián tiếp để tiên đoán địa điểm và hành động tiếp theo của tên sát nhân.

Nhiều báo cáo ghi nhận lại sự xuất hiện của Andreev tại nhiều điểm khác nhau: từ những thành phố như Shakhty, Samara, thủ đô Mát-xcơ-va cho tới những ngôi làng nhỏ với nhiều nhà ngôi nhà bỏ hoang. Tuy nhiên, cảnh sát thường không tới kịp hoặc bắt nhầm người.

Các giả thuyết lần lượt được đưa ra nhằm giải quyết bài toán khó này: Andreev có thể đã trốn ra nước ngoài, vài người cho rằng hắn đã phẫu thuật thẩm mĩ, sử dụng căn cước giả hoặc nhận được sự trợ giúp từ người ngoài, có thể là từ gia đình, bạn bè, thậm chí là cảnh sát.

Tới nay, Andreev vẫn nằm ngoài vòng pháp luật, trốn chạy cuộc điều tra của cảnh sát và tiếp tục reo rắc nỗi kinh hoàng với người dân thành phố Orenburg nước Nga.
 

hoahongden12

Active Member

Đó là kẻ bị truy nã ráo riết nhất nước Mỹ, một tên gangster khát máu, thậm chí còn bị bố già Al Capone tống cổ ra khỏi băng đảng vì quá bạo lực.

Vào ngày 20-4-1934, cảnh sát quyết định bắt người. Được tin báo cho biết hắn đang ở tại một khách sạn bên hồ tại Wisconsin, cảnh sát triển khai chiến dịch bí mật nhằm bắn hạ đối tượng.

Nelson có gương mặt tròn, cặp mắt to và chiếc mũi nhỏ. Bọn giang hồ cùng băng đảng gọi hắn là “Baby face” Nelson (Nelson “gương mặt trẻ thơ”).

Trông hắn chẳng hề giống một tên tội phạm. Khi các đặc vụ đến nơi, họ dán mắt vào ba gã đàn ông. Những người đó - thực chất là đặc vụ FBI và cảnh sát địa phương - đã bị bắn hạ chỉ trong vài giây, khiến sát thủ “Baby face” Nelson và những kẻ đồng loã ngoài vòng pháp luật có được cơ hội trốn thoát.

Kẻ sống ngoài vòng pháp luật

Thập niên 1930 có lẽ là “kỷ nguyên vàng” của bọn tội phạm xã hội đen gan lỳ sống ngoài vòng pháp luật. Thế nhưng đó cũng là thập niên chứng kiến sự trỗi dậy và sụp đổ tất yếu của những kẻ xấu xa như Bonnie và Clyde, John Dillinger, Pretty Boy Floyd và “Baby face” Nelson.

Tính trong số những kẻ khét tiếng hung bạo trong nhóm, “Baby face” Nelson chào đời với tên khai sinh là Lester Joseph Gillis ở Chicago bang Illinois miền Bắc nước Mỹ vào ngày 6-12-1908.

Theo hồ sơ tội phạm Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI), “Baby face” Nelson bắt đầu cuộc đời tội phạm của mình với cuộc sống lang thang trên đường phố Chicago cùng với một nhóm thiếu niên dữ dằn và lần đầu tiên ngồi tù năm 1922 khi mới 14 tuổi.

Cuộc đời gây quá nhiều tội ác của “Baby face” Nelson kết thúc khi hứng trọn một loạt đạn ở tuổi 25, nhưng trước đó hắn được giới chức chính quyền coi là một trong những kẻ giết người tàn nhẫn nhất nước Mỹ.

Trước khi trở thành một kẻ giết người máu lạnh, “Baby face” Nelson bắt đầu ăn cắp lốp ô tô và cả chiếc ô tô, buôn rượu lậu và thực hiện các vụ cướp có vũ trang.

Vào một dịp đầu năm 1930, hắn và đồng bọn đột kích vào nhà của một chủ tạp chí giàu có và ăn cắp những món đồ trang sức trị giá tương đương khoảng 3 triệu USD ngày nay.

Cuối năm đó, hắn tiếp tục ăn cắp một kho đồ trang sức khổng lồ từ chính vợ thị trưởng Chicago.

Trong khi đó, chỉ vài tháng sau vụ trộm tài sản trị giá 3 triệu USD, “Baby face” Nelson thực hiện vụ cướp ngân hàng đầu tiên của mình – hành động được lặp đi lặp lại trong vài năm tiếp theo cùng với băng đảng ngoài vòng pháp luật của mình.

Và chẳng mấy chốc, với biệt danh “Baby face” và cùng với Helen (vợ và cũng là đồng phạm), Nelson gây chú ý đến lực lượng thực thi pháp luật cũng như giới truyền thông Mỹ.

Trên thực tế, Nelson là một trong số ít tên tội phạm trong lịch sử nước Mỹ nằm trong danh sách những “kẻ thù công cộng số 1” của FBI.

Theo một bài báo trên tờ Thời báo New York từ năm 1934, “Baby face” Nelson đã đạt đến đỉnh cao này sau khi dành một nửa trong số 25 năm cuộc đời mình để sống ngoài vòng pháp luật.

Hơn thế nữa, “Baby face” Nelson còn giữ kỷ lục giết chết cùng lúc 3 đặc vụ FBI khi đang thực hiện nhiệm vụ. Nhằm củng cố thêm cho tiếng tăm tội phạm của mình, “Baby face” Nelson kết giao với những kẻ ngoài vòng pháp luật sừng sỏ nhất mà cụ thể là John Dillinger.

“Quan hệ đối tác” của Nelson với Dillinger đặc biệt có lợi cho tất cả những kẻ sống ngoài vòng pháp luật khác. Băng đảng của chúng thực hiện một loạt vụ cướp một chuỗi ngân hàng để chiếm đoạt một số tiền rất lớn - theo tiểu sử Dillinger của FBI.

Tuy nhiên, không giống như nhiều băng đảng giết người khác trong thập niên 1930, “Baby face” Nelson có lẽ sở hữu một tính khát máu cực kỳ cá biệt.

Richard Lindberg, tác giả cuốn sách “Return to the Scene of the Crime” (tạm dịch: Trở lại hiện trường vụ án), đã viết: “Với chiều cao chỉ khoảng 1,6m, Lester Joseph Gillis đã bù đắp cho những hạn chế về thể chất của mình bằng một khí chất giết người máu lạnh và sẵn sàng sử dụng dao bấm hoặc súng mà không hề do dự hay tỏ lòng thương xót đối với nạn nhân”.

Jay Robert Nash, tác giả những cuốn sách về thế giới tội phạm Mỹ, viết: “Trong khi những kẻ ngoài vòng pháp luật khác như Pretty Boy Floyd và Barkers chỉ giết người để bảo toàn tính mạng bản thân khi bị dồn vào đường cùng, Nelson giết người chỉ bởi vì hắn ta thích như thế. Khuôn mặt đẹp như trẻ thơ của hắn ta che giấu bản năng giết chóc đến ghê sợ”.

Vụ nổ súng ở nhà nghỉ Little Bohemia Lodge và cuộc đấu súng cuối cùng

Vào tháng 4-1934, “Baby face” Nelson đi nghỉ tại Little Bohemia Lodge ở miền Bắc Wisconsin xa xôi cùng với vợ và các thành viên băng đảng Dillinger. FBI biết được nơi ở của bọn chúng vào ngày 22-4-1934 nên phái một nhóm đặc vụ đến hiện trường.

May mắn cho “Baby face” Nelson, những con chó sủa đã cảnh báo bọn gangster và chúng nhanh chóng lẩn vào bóng tối. Nelson trốn đến một ngôi nhà gần đó, nơi hắn bắt giữ 2 con tin.

Hai đặc vụ FBI W. Carter Baum và J.C. Newman, cùng với cảnh sát viên địa phương Carl C. Christensen lái xe đến hiện trường ngay khi Nelson chuẩn bị chạy trốn.

Nelson táo tợn xông vào chiếc xe cảnh sát và ra lệnh cho họ rời khỏi phương tiện. Tuy nhiên, trước khi họ có thể tuân thủ, Nelson đã lạnh lùng nổ súng giết chết tại chỗ cả 3 người ngay lập tức. Sau đó, Nelson đã trốn thoát bằng chính chiếc ôtô của FBI.

Trong khi đó, các đặc vụ FBI và cảnh sát địa phương tiếp tục nổ súng tại Little Bohemia Lodge. Cuối cùng, nhóm đặc vụ FBI mới nhận ra rằng bọn gangster đã trốn thoát và cuộc đấu súng kinh hoàng ở nhà nghỉ Little Bohemia Lodge kết thúc vào lúc rạng sáng.

Trong khi Nelson có thể thoát hiểm trong gang tất tại nhà nghỉ Little Bohemia, nhưng đó chỉ là vấn đề vài tháng trước khi FBI tóm gọn hắn ta.

Trong những giờ đầu giờ chiều ngày 27-11-1934, các đặc vụ FBI bất ngờ nhận thông tin “Baby face” Nelson có mặt tại một nơi cách Chicago khoảng 96,5km.

Vài phút sau, một đặc vụ khác phát hiện hắn ta lái chiếc ôtô cảnh sát đánh cắp và gắn biển số xe khác. Đó chính là thời điểm kết thúc cuộc đời giết người không gớm tay của “Baby face” Nelson.

Không lâu sau đó, Thanh tra Samuel P. Cowley lãnh đạo Văn phòng FBI ở Chicago nhận được tin cấp báo “Baby face” Nelson có thể đang tiến về Chicago trong một chiếc ôtô cảnh sát đánh cắp.

Cowley ngay lập tức phái hai đặc vụ Bill Ryan và Tom McDade đi tìm chiếc xe của Nelson và leo lên chiếc xe thứ hai cùng với đặc vụ Herman “Ed” Hollis.

Như vậy là chỉ hơn một giờ sau cuộc chạm trán ban đầu của FBI với “Baby face” Nelson, hai đặc vụ Ryan và McDade đã nhanh chóng phát hiện ra Nelson đang lái xe trên đường cao tốc và thế là cuộc truy đuổi quyết liệt bắt đầu.

Sau đó là những tiếng súng nổ và đặc vụ Ryan cố gắng xoay xở để bắn vào bộ tản nhiệt chiếc xe ôtô mà Nelson đang cầm lái rồi lao thẳng về phía trước để chặn đầu xe tên sát thủ máu lạnh.

Từ đó, chiếc xe của hai đặc vụ Cowley và Hollis lướt ngang qua chiếc xe của Nelson trên đường cao tốc và bắt đầu bám sát hắn.

Do chiếc xe bị vô hiệu hóa, Nelson tấp vào lề đường ở lối vào Công viên North Side ở Barrington bang Illinois. Lập tức Cowley và Hollis dừng xe cách “Baby face” Nelson khoảng 45m. Nelson và Chase đã nổ súng dữ dội trước khi các đặc vụ kịp chui ra khỏi phương tiện của họ.

Cuộc đấu súng kéo dài 4 đến 5 phút đã cướp đi sinh mạng của đặc vụ Hollis. Đặc vụ Cowley cũng bị trọng thương trong cuộc giao tranh. “Baby face” Nelson bị lĩnh 17 vết thương do súng bắn và được đồng phạm John Paul Chase giúp đỡ vào chiếc xe FBI đánh cắp rồi lái đi.

Cuối cùng, do mang quá nhiều vết thương trên mình, “Baby face” Nelson trút hơi thở cuối cùng vào khoảng 8 giờ tối ở Wilmette bang Illinois.

Đặc vụ Cowley, mặc dù sống sót sau vụ xả súng ban đầu, đã không sống được đến ngày hôm sau. Ông qua đời vào sáng sớm ngày 28-11-1934.

Sau đó cùng ngày, nhờ một tin báo nặc danh, các đặc vụ FBI tìm thấy thi thể “Baby face” Nelson nằm trong một con mương cạnh một nghĩa trang gần Trung tâm Niles bang Illinois.

Cô vợ Helen của Nelson giữ mạng được trong cuộc đọ súng kinh hoàng nhờ giấu mình trên một cánh đồng né tránh những loạt đạn bay xé gió giữa những kẻ chạy trốn và đặc vụ FBI. FBI bắt giữ Helen vào 2 ngày sau trận chiến định mệnh đó.

Helen bị kết án cải tạo 1 năm và 1 ngày tại một trại cải huấn liên bang giam riêng những nữ phạm nhân, nằm cách Detroit bang Michigan khoảng 80,5km. Sau khi được tự do, Helen đã đổi tên và rời khỏi Michigan.

Một cuộc đời tàn bạo được dựng lại

Cuộc đời tên sát nhân máu lạnh “Baby face” Nelson được mô tả nhiều lần trong những bộ phim điện ảnh và truyền hình bao gồm: “Baby face” Nelson, một bộ phim năm 1957 với sự tham gia của Mickey Rooney; Câu chuyện FBI, một bộ phim năm 1959 với sự tham gia của James Stewart, và William Phipps trong vai Nelson; Dillinger, một bộ phim năm 1973 với Richard Dreyfuss trong vai Nelson.

Trong bộ phim này, vụ đọ súng giữa Nelson và 2 đặc vụ FBI Cowley và Hollis được mô tả; Cuộc thảm sát thành phố Kansas, một bộ phim truyền hình năm 1975 với Elliott Street trong vai Nelson; “Baby face” Nelson, một bộ phim năm 1995 do C. Thomas Howell đóng vai chính; “Kẻ thù công cộng”, một bộ phim năm 2009 có sự tham gia của ngôi sao Hollywood Johnny Depp, với Stephen Graham trong vai Nelson; loạt phim truyền hình “Gương mặt trẻ thơ”, được sản xuất bởi Kerry Ehrin và Freddie Highmore; trong loạt phim truyền hình năm 2015 tựa “Những kẻ sinh ra để sống ngoài vòng pháp luật”, Alex Bird đóng vai chính “Baby face” Nelson trong tập phim “Baby face Nelson”.
 

hoahongden12

Active Member

Nhắc đến các sát nhân hàng loạt người ta có thể nghĩ ngay tới những cái tên như Charles Sobharaj, Jack The Ripper, Charles Manson hay Ted Bundy. Tuy nhiên, sát thủ có nhiều nạn nhân nhất trên thế giới không phải là một người trong số đó, mà là một người Ấn Độ tên Thug Behram – kẻ đã giết 931 người.

Giết người bằng khăn

Từ thế kỷ thứ 12, tiểu lục địa Ấn Độ bị thao túng bởi một mạng lưới thổ phỉ đen tối và đáng sợ tên là Thuggees. Thời gian chính xác mà nhóm này hình thành hiện chưa rõ, nhưng có cuốn sách nói rằng Thuggees hoạt động vào khoảng năm 1290. Chúng là một nhóm gồm những người tách ra từ 7 bộ tộc Hồi giáo tận tâm thờ nữ thần chết Hindu Kali. Chúng thích phương pháp hành quyết là thắt cổ nạn nhân bằng khăn lụa.

Chúng đã gây ra cái chết của hơn 2 triệu người khắp tiểu lục địa Ấn Độ trong giai đoạn kéo dài 600 năm. Nhóm Thuggees luôn luôn nhằm vào các nạn nhân là lữ khách và chúng siết cổ, cướp của rồi chôn nạn nhân.

Sát thủ khét tiếng nhất trong mạng lưới là Buhram Jemedar hay còn được gọi là Thug Behram. Behram sinh năm 1765 trong một ngôi làng gần Jabalpur. Ngày nay làng này ở bang Madhya Pradesh. Behram là một thanh niên trẻ khá bình thường, rất ít nói. Đó là trước khi hắn gặp và kết bạn với một người tên là Syeed Amir Ali. Chính Ali đã đưa hắn vào một thế giới mà trước đây hắn chưa từng biết tới.

Không rõ khi Ali và Behram gặp nhau thì Ali đã là một thành viên của nhóm Thuggees hay không. Một số người cho rằng Ali chỉ đơn giản là làm bạn với Behram, nhưng cũng có người cho rằng Behram liên quan tới những người của nhóm Thuggees trước năm 1790. Ali sau này trở thành cấp phó của Behram và cũng là người đã “dâng” Behram cho người Anh.

Trong khoảng thời gian này, đế chế Mughal dưới sự cai trị của Vua Alam II đã suy yếu. Vua Alam II chỉ đóng vai trò một ông vua trên danh nghĩa. Công ty Đông Ấn có quyền lực thao túng toàn bộ vương quốc, khiến Vua Alam II có một thời kỳ trị vì khó khăn.

Sát thủ máu lạnh

Behram lúc đầu hay đi cùng một gái mại dâm có tên là Dolly – người được cho là con gái của một lính Anh và một phụ nữ ở Gwalior. Behram và Dolly thường dụ dỗ đám binh sĩ Anh và người Ấn Độ giàu có. Những người này thường tìm tới Dolly để vui vẻ và thường kết thúc bằng cái chết trong tay Behram.

Các chi tiết về việc Dolly và Behram đường ai người nấy đi chưa được làm rõ, nhưng năm 1800, tên của Thug Behram khiến người ta khiếp sợ. Người ta tránh các tuyến đường mà có tin đồn là Thug Behram và thuộc hạ thường qua lại. Hắn thường ngang nhiên vào các làng và đi ra cùng với chiến lợi phẩm và một cô gái. Không ai có đủ dũng cảm để thách thức hắn hoặc đám thuộc hạ.

Từ năm 1890, hàng nghìn người cứ lần lượt biến mất. Sự việc trở nên tồi tệ đến mức các điều tra viên đã được cử tới Ấn Độ từ Anh để xác định nguyên nhân các vụ mất tích. Khi nhóm 5 thám tử Anh đều bị giết hết, người ta đã báo cáo với Toàn quyền Francis Rawdon – Hastings về cái tên Thug Behram. Không ai biết gì hơn ngoài cái tên của hắn.

Người Anh bắt đầu điều tra từ cái tên đó nhưng cũng không thu được gì nhiều. Bất kỳ người Anh nào tìm cách điều tra hay xâm nhập nhóm Thuggees đều chết. Dưới sự lãnh đạo của Behram, nhóm Thuggees đã mở rộng thành một lực lượng hùng mạnh gồm hơn 2.000 tên sát nhân máu lạnh. Dưới bàn tay của chúng, toàn bộ các đoàn thương nhân được binh sĩ Anh bảo vệ biến mất không dấu vết. Vài tháng hoặc vài năm sau, người ta sẽ phát hiện ra một đống xương người ở đâu đó.

Behram thường đóng vai trò là một người xâm nhập. Hắn thường tham gia cùng một hội lữ khách nào đó và giả vờ là một thương nhân. Hắn thích giết người khi có người khác chứng kiến. Khi hắn bắt đầu giết từng người một, các thuộc hạ sẽ ẩn mình chờ ở một nơi nào đó rồi khi thuận lợi sẽ xông ra và giết chết toàn bộ mọi người.

Nhóm Thuggees đã tự tạo ra một ngôn ngữ ký hiệu riêng gọi là Ramaseena. Với loại ngôn ngữ này, bọn chúng có thể phối hợp và thực hiện các phi vụ một cách bí mật, không ồn ào.

Đại úy William Sleeman được giao nhiệm vụ bắt Behram và điều tra hoạt động của nhóm Thuggees năm 1828. Ông mất tới hơn 11 năm và suýt chết ba lần rồi mới bắt thành công Behram năm 1839 khi hắn đã 75 tuổi.

Đầu tiên, đại úy Sleeman bắt cấp phó của Behram là Syeed Amir Ali (biệt danh Firangha) năm 1832. Firangha bị tra tấn và cuối cùng bị thuyết phục giao nộp bằng chứng chống lại Behram. Hắn đã đưa đại úy Sleeman tới nhiều ngôi mộ tập thể mà Thuggees chôn các nạn nhân. Người Anh đã tìm thấy xương hoặc xác của gần 500.000 người. Firangha sau đó đã giúp người Anh xác định vị trí và bắt Behram.

Khi đại úy Sleeman và người của ông ập vào, Behram đang ở cùng một phụ nữ. Behram khăng khăng rằng hắn đã siết cổ 931 người và chứng kiến 956 người bị hành quyết. Về phía người Anh, không rõ vì lý do gì mà họ lại bảo Behram “chỉ” giết từ 120 – 150 người, có mặt trong 931 vụ hành quyết. Tuy nhiên, hiện nay, người ta chính thức xác nhận số nạn nhân của tên giết người hàng loạt này là 931.

Năm 1893, hắn bị treo cổ ở một nơi tách biệt và xác bị bêu trước công chúng. Sau khi Behram bị bắt, hơn 1.400 thành viên Thuggees đã bị người Anh bắt và tử hình.
 
Bên trên