Biểu Tượng Thất Truyền

hoahongden12

Active Member

Robert Langdon lén nhìn đồng hồ một cách lo lắng: 7 giờ 58 phút tối. Gương mặt cười của chú chuột Mickey cũng chẳng làm anh vui lên bao nhiêu. Mình phải đi tìm Peter. Mình đang lãng phí thời gian.

Sato đã tránh sang bên một lát để gọi điện, nhưng giờ bà ta quay trở lại chỗ Langdon.

- Thưa Giáo sư, tôi đang làm ông nhỡ việc gì đó phải không?

- Không, thưa bà, - Langdon đáp, kéo ống tay áo phủ trùm lên đồng hồ - Tôi chỉ đang rất lo lắng cho Peter.

- Tôi hiểu, nhưng tôi quả quyết rằng hiện giờ điều tốt nhất ông làm được cho bạn ông là giúp tôi tìm hiểu ý đồ của kẻ bắt giữ Peter.

Langdon không dám chắc, nhưng anh cảm thấy anh chẳng thể đi đâu được cho tới khi vị Giám đốc OS có được thông tin mà bà ta muốn.

- Ban nãy, - Sato lên tiếng - ông nói rằng Nhà Tròn này có phần thiêng liêng hợp với ý tưởng về các Bí ẩn cổ xưa?

- Vâng, thưa bà.

- Hãy giải thích cho tôi xem nào?

Langdon biết anh sẽ phải lựa chọn ngôn từ thật đơn giản. Anh đã dạy nhiều học kỳ về các biểu tượng huyền bí của Washington D.C., chỉ riêng toà nhà này thôi đã đủ liệt kê một danh sách bất tận những chi tiết tham khảo.

Quá khứ của nước Mỹ còn chứa khá nhiều bí mật

Mỗi lần Langdon giảng về biểu tượng học của nước Mỹ, đám sinh viên lại ngạc nhiên vì biết rằng ý định thực sự của các vị tiền bối lập quốc chẳng mảy may liên quan với những điều mà nhiều chính trị gia ngày nay tuyên bố.

Vận mệnh tiền định của nước Mỹ đã chìm nghỉm trong lịch sử

Thoạt đầu, các vị tiền bối sáng lập đặt tên thành phố này là "Rome", đặt tên con sông chảy qua đây là Tiber và dựng lên một thủ đô với nhiều đền thờ và thánh điện, tất cả đều được trang trí bằng hình ảnh của các vị thần vĩ đại trong lịch sử như Apollo, Minerva, Venus, Helios, Vulcan, Jupiter. Ở trung tâm thành phố, giống như nhiều thành phố cổ đại khác, họ xây dựng một cột tháp Ai Cập để làm lễ vật vĩnh cửu dâng hiến cổ nhân. Cột tháp ấy còn đồ sộ hơn cả cột tháp ở Cairo hay Alexandria, vươn tới độ cao 166,5 mét với hơn 30 tầng, thể hiện lời cảm tạ và kính trọng đối với vị cha già mà thành phố thủ đô này đang mang tên.

Washington.

Giờ đây, sau nhiều thế kỷ, bất chấp sự phân chia tôn giáo và thành bang của nước Mỹ, Nhà tròn vẫn lấp lánh những biểu tượng tôn giáo cổ xưa. Có cả tá thần thánh ở đây, nhiều hơn cả Đền Pantheon nguyên bản bên Rome. Dĩ nhiên, đền Pantheon của người La Mã đã bị cải sang Thiên Chúa giáo từ năm 609… nhưng đền Pantheon Hoa Kỳ thì chẳng bao giờ bị cải giáo cả, mọi dấu tích về lịch sử đích thực của nó vẫn nguyên vẹn như xưa.

- Có thể bà đã biết, - Langdon nói - Nhà tròn được thiết kế như vật hiến tế cho một trong những thánh điện huyền bí tôn nghiêm nhất thành Rome. Đền thờ Vesta 1.

- Như các vũ nữ ấy hả? - Xem ra Sato không tin nổi những trinh nữ canh giữ ngọn lửa lại có gì đó liên quan đến Điện Capitol ở Hoa Kỳ.

- Đền Vesta ở Rome mang hình tròn, - Langdon đáp - với một lỗ to trên sàn nhà, nơi các vũ nữ canh giữ ngọn lửa khai sáng linh thiêng. Nhiệm vụ của họ là giữ cho ngọn lửa không bao giờ tắt.

Sato nhún vai.

- Nhà tròn này quả đúng là hình tròn, nhưng tôi chẳng thấy cái lỗ nào trên sàn nhà cả.

- Không, làm gì còn nữa, nhưng có thời chính giữa căn phòng này có một cái lỗ lớn. Ở đúng vị trí bàn tay của Peter bây giờ - Langdon trỏ xuống sàn - Thực ra, bà vẫn tìm thấy trên sàn các dấu vết của hàng rào chắn bảo vệ mọi người khỏi bị ngã xuống lỗ đấy.

- Sao cơ? - Sato hỏi, chăm chú ngó sàn nhà - Tôi chưa bao giờ nghe nói đến điều đó.

- Có lẽ ông ấy nói đúng - Anderson trỏ một vòng núm sắt từng là vị trí các cọc lan can - Tôi trông thấy những thứ này đã bao lần, nhưng chẳng hiểu nổi tác dụng của chúng là gì.

Đâu phải chỉ riêng ông, Langdon nghĩ, hình dung ra hàng nghìn người, kể cả những nghị sĩ tiếng tăm, hằng ngày qua lại trung tâm Nhà tròn mà không hề biết rằng đã có thời, nếu đi như thế thì họ sẽ rơi tõm xuống Hầm ngầm Điện Capitol ngay bên dưới.

- Cái lỗ hổng trên nền bị lấp rồi - Langdon giải thích - Nhưng trước đây khách tới thăm Nhà tròn có thể nhìn thẳng xuống ngọn lửa cháy sáng ở bên dưới.

Sato quay lại.

- Lửa à? Ngay trong Điện Capitol ư?

- Giống như một ngọn đuốc khổng lồ ấy mà. Một ngọn lửa vĩnh cửu cháy sáng ở hầm ngầm ngay dưới chân chúng ta đây. Lổ hổng nhìn xuống ngọn lửa, khiến gian phòng giống một Đền thờ Vesta hiện đại. Thậm chí còn có hẳn một Vu nữ ở toà nhà này, một nhân viên liên bang gọi là Vu nữ Nhà hầm. Bà ta trông nom cho ngọn lửa cháy sáng suốt năm mươi năm trời, tới tận khi chính trị, tôn giáo và tác hại của khói khiến người ta buộc phải chấm dứt việc đốt lửa.

Cả Anderson và Sato đều tỏ ra ngạc nhiên.

- Ngày nay, thứ duy nhất gợi nhớ ngọn lửa một thời cháy sáng là chiếc la bàn hình ngôi sao bốn cánh gắn trên sàn nhà hầm, ở tầng dưới nơi họ đứng, tượng trưng cho ngọn lửa vĩnh cửu từng toả ánh sáng ra cả bốn hướng Tân Thế giới của nước Mỹ.

- Theo luận điểm của Giáo sư thì cái gã đã để bàn tay của Peter ở đây biết tất cả những tình tiết đó? - Sato chất vấn.

- Rõ ràng là như vậy, và còn biết hơn thế. Trong phòng này, có rất nhiều biểu tượng thể hiện niềm tin về những Bí ẩn cổ xưa.

- Tri thức bí mật, - Sato nói tiếp, giọng pha sự châm chọc - Kiến thức dẫn dắt con người tới những sức mạnh thần thánh, phải không?

- Vâng thưa bà.

- Nhưng điều đó không thích hợp lắm với nền tảng Thiên Chúa giáo của nước ta.

- Có lẽ thế, nhưng nó vẫn cứ đúng. Quá trình biến cải một con người thành một vị thần được gọi là phong thánh. Cho dù quý vị có biết về chủ đề biến cải người thành thần hay không thì nó vẫn là yếu tố cốt lõi trong hệ thống biểu tượng của Nhà tròn.

- Phong thánh ư? - Anderson vọt miệng, với vẻ mặt thảng thốt thừa nhận.

- Phải - Anderson làm việc ở đây. Ông ta biết rõ - Từ phong thánh (apotheosis) theo nghĩa đen là "quá trình biến cải thần thánh" quá trình một người thường trở thành thần linh. Nó xuất phát từ ngôn ngữ Hy Lạp cổ: apo là "trở thành" và theos là "thần thánh".

Anderson có vẻ rất ngạc nhiên.

- Phong thánh nghĩa là "trở thành thần" à? Vậy mà tôi không biết.

- Còn gì nữa thế? - Sato chất vấn.

- Thưa bà, - Langdon đáp - bức vẽ lớn nhất trong toà nhà này có tên Sự phong thánh của Washington, và nó mô tả rất rõ George Washington đang được biến cải thành một vị thần.

Sato tỏ vẻ không tin.

- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì tương tự.

- Thực lòng, tôi tin chắc bà đã thấy rồi - Langdon chỉ ngón trỏ thẳng lên trên - Nó ở ngay trên đầu bà đấy.

--- ------ ------ ------ -------

1 Trong thần thoại La Mã. Vesta là nữ thần đồng trinh của lò sưởi, nhà và gia đình. Vesta thường được hình tượng hoá bằng ngọn lửa thiêng cháy tại các đền thờ của bà - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 21

Bức Sự phong thánh của Washington, do Constantino Brumidi hoàn thiện năm 1865, là một bức bích hoạ rộng gần 420 mét vuông phủ kín trần Nhà tròn.

Được mệnh danh là "Michelangelo của Điện Capitol", Brumidi tuyên bố mình có khả năng trang trí Nhà tròn điện Capitol y như Michelangelo đã làm với Nhà nguyện Sistine bằng cách vẽ một bức bích hoạ lên tấm toan cao nhất gian phòng, tức trần nhà của nó. Cũng như Michelangelo, Brumidi đã thực hiện các tác phẩm tuyệt đẹp của mình ở Vatican. Tuy nhiên, Brumidi di cư sang Mỹ năm 1852, bỏ thánh điện lớn nhất của Chúa để đến với một thánh điện mới, Điện Capitol, công trình giờ đây kiêu hãnh với những tác phẩm bậc thầy của ông - từ bức tranh vẽ như thật ở Hành lang Brumidi 1 tới trụ ngạnh trần phòng Phó Tổng thống. Nhưng chính bức tranh khổng lồ trải kín Nhà tròn Điện Capitol mới được hầu hết các sử gia coi là kiệt tác của Brumidi.

Robert Langdon ngước nhìn bức bích hoạ phủ kín trần nhà. Anh thường thích thú quan sát phản ứng kinh ngạc của sinh viên trước hình ảnh kỳ lạ trong tranh, nhưng lúc này đây, anh chỉ thấy bế tắc vì một cơn ác mộng không sao lí giải nổi.

Giám đốc Sato đứng bên cạnh, tay chống nạnh, cau mày nhìn trần nhà cao tít bên trên. Langdon cảm nhận được bà ta cũng có phản ứng như bao người lần đầu dừng bước ngắm bức tranh ở ngay trái tim nước Mỹ…

Hoàn toàn bối rối.

Không chỉ riêng bà đâu, Langdon nghĩ thầm. Với hầu hết mọi người, càng ngắm Sự phong thánh của Washington, họ càng thấy nó lạ lùng.

- George Washington ở ngay trung tâm ấy. - Langdon nói, trỏ lên phần chính giữa mái vòm cao tới hơn 50 mét - Các vị thấy đấy, ông mặc áo choàng trắng, đang bước lên mây, dưới đám mây là một người thường, mười ba thiếu nữ hộ tống theo sau. Đây chính là thời điểm phong thánh… là quá trình Washington biến thành thần linh.

Sato và Anderson không nói năng gì.

- Gần đó - Langdon tiếp tục - các vị có thể thấy một loạt nhân vật xa xưa, lạ lùng: đó là các vị thần cổ đại. Họ đang trao cho cha ông chúng ta những tri thức tiên tiến. Kia là thần Minerva, đang truyền cảm hứng công nghệ cho các nhà phát minh vĩ đại như Ben Franklin, Robert Fulton, Samuel Morse - Langdon lần lượt chỉ rõ từng nhân vật - Trên kia, thần Vulcan giúp chúng ta tạo ra cỗ máy hơi nước. Cạnh đó, thần Neptune giảng giải cách đặt đường cáp xuyên đại dương. Kế bên là thần Ceres, nữ thần ngũ cốc và là nguồn gốc tạo ra từ ngũ cốc (cereal), bà ngồi trên chiếc máy gặt McCormick, công trình mang tính đột phá trong nông nghiệp, giúp Hoa Kỳ trở thành nước sản xuất lương thực hàng đầu thế giới. Bức tranh này công khai khắc hoạ cảnh tiền nhân của chúng ta tiếp nhận nguồn tri thức lớn lao từ các thần linh - Anh cúi đầu, nhìn Sato - Tri thức là một sức mạnh, và tri thức đúng đắn giúp con người thực hiện được những điều kỳ diệu, những nhiệm vụ phi thường.

Sato thu ánh mắt, nhìn trả Langdon và xoa xoa gáy.

- Lắp đặt đường cáp điện thoại thì liên quan gì đến việc làm thần!

- Có lẽ đúng như vậy với một người hiện đại, - Langdon đáp - Nhưng với George Washington, nếu biết chúng ta có khả năng trò chuyện với mọi người tận bên kia đại dương, bay nhanh bằng tốc độ âm thanh và đặt cả chân lên mặt trăng thì ông ấy sẽ cho rằng việc làm của chúng ta thật kỳ diệu, và tưởng chúng ta đều thành thần tiên cả rồi - Anh ngừng một lúc - Nhà Vị lai chủ nghĩa Arthur C. Clarke từng nói, "Các công nghệ tiên tiến chẳng khác biệt phép màu là mấy".

Sato mím môi, rõ ràng đang suy nghĩ rất ghê. Bà ta liếc xuống bàn tay, rồi nhìn theo hướng ngón trỏ duỗi thẳng lên mái vòm.

- Giáo sư, gã đó bảo ông là "Peter sẽ chỉ đường". Phải vậy không nhỉ?

- Vâng, thưa bà, nhưng…

- Chỉ huy, - Sato nói, rời mắt khỏi Langdon - anh có thể giúp chúng tôi quan sát bức tranh gần hơn được không?

Anderson gật đầu.

- Có một lối đi hẹp chạy vòng xung quanh bên trong mái vòm.

Langdon ngước nhìn cái lan can nhỏ xíu ngay bên dưới bức vẽ và cảm thấy toàn thân cứng đờ.

- Không cần phải lên tận đó đâu.

Trước đây, anh đã từng bước trên lối đi hẹp ít người thăm viếng đó cùng một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ và vợ ông ta, anh gần như ngất xỉu do chóng mặt trước độ cao quá lớn và lối đi quá nguy hiểm.

- Không cần sao? - Sato gặng hỏi - Giáo sư, chúng ta biết có kẻ cho rằng căn phòng này chứa đựng một cánh cổng khả dĩ giúp gã trở thành thần thánh; chúng ta có một bức bích hoạ mô tả quá trình thay đổi của một con người thành một vị thần, và chúng ta có một bàn tay chỉ thẳng lên bức vẽ đó. Dường như tất cả mọi chi tiết đều giục chúng ta đi lên trên.

- Thực ra, - Anderson xen vào, mắt ngước nhìn trần - ít người biết rằng có một khoang bát giác bên trong mái vòm, mở ra mở vào được như một cánh cổng, quý vị có thể nhìn qua đó và…

- Khoan đã, - Langdon nói - ông nhầm đường rồi đấy. Cánh cổng mà gã kia đang tìm kiếm là một cánh cổng tượng trưng, một cánh cổng không tồn tại. Khi gã nói "Peter sẽ chỉ đường", là gã đang ẩn dụ. Động tác chỉ tay với ngón trỏ và ngón cái chĩa thẳng lên trên là một biểu tượng quen thuộc của những Bí ẩn cổ xưa, từng hiển hiện trong nghệ thuật cổ đại trên khắp thế giới. Động tác y hệt như thế này từng xuất hiện trong ba kiệt tác mã hoá nổi tiếng nhất của Leonardo da Vinci là Bữa tiệc Ly, Sùng bái Magi và Thánh John Người rửa tội. Nó là một biểu tượng về sự liên hệ huyền bí giữa con người với Chúa.

Thương hạ tương liên. Giờ đây, cách lựa chọn từ ngữ kỳ quái của gã điên bắt đầu hé lộ đôi phần hữu lý.

- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó cả. - Sato nói.

Vậy thì hãy xem kênh ESPN, Langdon nghĩ bụng, anh luôn thích thú khi thấy những vận động viên chuyện nghiệp chỉ tay lên trời để cảm tạ Chúa sau khi ghi bàn hoặc về đích. Anh tự hỏi liệu có bao nhiêu người biết rằng họ đang tiếp tục một truyền thống từ thời tiền Công giáo là cảm ơn sức mạnh huyền bí của bề trên, nguồn sức mạnh mà trong một thời khắc ngắn ngủi đã biến cải họ thành một vị thần có khả năng thực hiện những điều kỳ diệu.

- Tôi tiết lộ một điều may ra có ích cho bà chăng, - Langdon nói - bàn tay của Peter không phải là bàn tay đầu tiên xuất hiện kiểu này trong Nhà tròn.

Sato nhìn Langdon như nhìn một người mất trí.

- Ông nói sao cơ?

Langdon chỉ chiếc điện thoại Blackberry của Sato.

- Hãy tìm cụm từ "George Washington Zeus" trên Google thử xem.

Sato có vẻ không tin tưởng lắm nhưng vẫn bấm bàn phím.

Anderson nhích lại gần, chăm chú nhìn qua vai bà ta.

Langdon nói:

- Nhà tròn này từng có một bức điêu khắc rất lớn hình George Washington để ngực trần… được khắc hoạ như một vị thần. Ông ngồi theo tư thế giống thần Zeus trong đền Pantheon, ngực trần, tay trái cầm một thanh kiếm, tay phải giơ lên với ngón cái và ngón trỏ duỗi ra.

Rõ ràng Sato đã tìm thấy một bức hình trên mạng, bởi vì Anderson đang đăm đăm nhìn chiếc Blackberry của bà ta, vẻ kinh ngạc.

- Xem nào, đó là George Washington ư?

- Phải, - Langdon nói - Được mô tả như thần Zeus.

- Nhìn tay ông ấy kìa, - Anderson nói, vẫn ngó đăm đăm qua vai Sato - Tay phải ông ấy ở tư thế y hệt như tay Solomon.

Thì tôi đã nói đấy thôi, Langdon nghĩ thầm, tay Peter không phải là Mật Thủ đầu tiên xuất hiện trong căn phòng này. Khi pho tượng George Washington cởi trần của Horatio Greenough được trưng bày lần đầu tại Nhà tròn, nhiều người đã đùa rằng chắc Washington đang cố lên trời để tìm vài bộ quần áo. Tuy nhiên, khi quan niệm tôn giáo của nước Mỹ thay đổi thì những lời bình phẩm bông đùa lại biến thành tranh cãi, và pho tượng bị dời tới một nhà kho trong khu vườn phía đông. Hiện nay, nó ngự tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia của Viện Smithsonian, nơi ai nhìn thấy cũng phải tin ngay rằng nó là một trong những mối hên hệ cuối cùng với thời đại Washington, khi người cha của đất nước nhìn xuống Điện Capitol như một vị thần… chẳng khác gì thần Zeus nhìn xuống đền Pantheon.

Sato bấm một số nào đó trên chiếc Blackberry, rõ ràng nhận thấy đã đến lúc phải kiểm tra với nhân viên của mình.

- Các anh tìm được gì? - Bà ta lắng nghe một cách kiên nhẫn - Tôi hiểu… - đoạn nhìn thẳng vào Langdon, sau đó đưa mắt sang bàn tay Peter - Anh chắc chứ? - Sato nghe một lúc lâu hơn - Được rồi, cảm ơn - Cuối cùng bà ta tắt máy và quay lại phía Langdon.

- Nhân viên hỗ trợ của tôi đã làm một số nghiên cứu và xác nhận sự tồn tại của cái mà ông gọi là Mật Thủ, chứng thực mọi điều ông kể: từ năm dấu hiệu trên đầu ngón tay là ngôi sao, mặt trời, chìa khoá, vương miện và đèn lồng đến thực tế rằng bàn tay này là một lời mời cổ xưa để nắm bắt tri thức bí mật.

- Tôi rất mừng, - Langdon đáp.

- Đừng vội, - bà ta đáp lại cộc lốc - Chúng ta lâm vào đường cùng rồi, trừ phi ông bằng lòng hé lộ hết những điều ông đang che giấu.

- Thưa bà?

Sato bước tới gần anh.

- Chúng ta lại trở về điểm xuất phát, thưa Giáo sư. Ông cung cấp cho tôi toàn những điều tôi có thể tham khảo được từ các nhân viên của mình. Vì thế tôi phải hỏi ông lần nữa. Tại sao người ta dụ ông tới đây tối nay? Điều gì khiến ông trở thành trường hợp đặc biệt? Điều gì ông biết mà người khác không biết?

- Chúng ta đã nói hết lúc nãy rồi, - Langdon phản đối - Tôi không hiểu tại sao gã này lại cho rằng tôi biết điều gì đó.

Langdon rất muốn gặng hỏi làm thế quái nào mà Sato lại hay tin anh có mặt ở Điện Capitol tối nay, nhưng anh không đề cập đến.

Chẳng đời nào Sato nói ra.

- Nếu tôi biết bước tiếp theo; - anh bảo - tôi sẽ nói với bà. Nhưng tôi không biết. Theo truyền thống, Mật Thủ là do đại sư đưa cho môn đệ. Và sau đó, rất nhanh sau đó, một loạt chỉ dẫn sẽ xuất hiện tiếp theo bàn tay… chỉ dẫn về bất cứ thứ gì, chẳng hạn về đền thờ, về tên ồng thầy sẽ dạy dỗ người đó. Nhưng gã này chỉ để lại cho chúng ta năm hình xăm? Khó lòng… - Chợt Langdon ngừng bặt.

Sato nhìn anh.

- Có chuyện gì thế?

Ánh mắt Langdon dõi trở lại bàn tay. Năm hình xăm. Anh bỗng nhận ra rằng những gì mình đang nói có thể không hoàn toàn đúng.

- Giáo sư? - Sato gọi giật giọng.

Langdon nhích dần về phía cái vật ghê gớm kia. Peter sẽ chỉ đường.

- Tôi sực nảy ra ý nghĩ rằng gã điên có để lại một thứ gì đó trong bàn tay nắm chặt kia, một bản đồ, một lá thư, hoặc một vài chỉ dẫn.

- Không có đâu, - Anderson góp ý - Các vị thấy đấy, ba ngón tay nắm không chặt lắm.

- Ông nói đúng, - Langdon đồng ý - Nhưng với tôi… - Anh cúi rạp xuống, cố gắng nhìn phía dưới các ngón tay để xem phần lòng bàn tay bị che khuất của Peter - nó không nhất thiết phải viết trên giấy.

- Viết bằng hình xăm chăng? - Anderson nói.

Langdon gật đầu.

- Ông có nhìn thấy gì trên lòng bàn tay không? - Sato hỏi.

Langdon cúi xuống thấp hơn, cố nhìn lên phần bên dưới các ngón tay nắm hờ.

- Góc này khó nhìn quá. Tôi không tài nào…

- Ôi chao - Sato thốt lên và bước lại gần anh - Cứ nậy cái vật khốn kiếp ấy ra.

Anderson bước tới chắn đường bà ta.

- Thưa bà! Nên đợi pháp y rồi hẵng chạm…

- Tôi muốn có câu trả lời - Sato đáp, bước nhanh qua viên Chỉ huy.

Bà ta cúi rạp xuống, gạt Langdon ra xa bàn tay.

Langdon đứng lên và như không tin vào mắt mình khi thấy Sato rút từ trong túi ra một cây bút, cẩn thận luồn nó xuống dưới ba ngón tay co quắp. Sau đó, bà ta lần lượt cạy các ngón tay lên cho tới khi bàn tay mở hoàn toàn. Lòng bàn tay phơi ra rất rõ.

Sato ngước mắt nhìn Langdon, gương mặt thoáng nụ cười.

- Lại đúng nữa, thưa Giáo sư.

--- ------ ------ ------ -------

1 Hành lang Brumidi là phần hành lang uốn vòm được trang trí công phu thuộc tầng 1 của khu Thượng viện trong Điện Capitol.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 22

Katherine rảo bước trong thư viện, kéo ống tay áo bờ-lu và nhìn đồng hồ. Cô vốn không quen chờ đợi, nhưng lúc này, thế giới quanh cô như ngưng đọng cả rồi. Cô đang đợi kết quả tìm kiếm của Trish, đợi tin từ anh trai mình, và đợi cả cuộc gọi lại từ kẻ chịu trách nhiệm về toàn bộ tình trạng rối bời này.

Ước gì anh ta đừng nói với mình, Katherine nghĩ bụng. Bình thường, cô hết sức thận trọng trong chuyện kết giao, nhưng dù lúc chiều mới gặp người đàn ông đó lần đầu, cô đã thấy tin cậy anh ta chỉ sau vài phút. Tin hoàn toàn.

Anh ta gọi đến khi Katherine đang tận hưởng niềm vui thường lệ chiều Chủ nhật là theo dõi các tờ tạp chí khoa học trong tuần.

- Bà Solomon phải không ạ? - giọng nói nhẹ nhàng khác thường cất lên - Tôi là Bác sĩ Christopher Abaddon. Tôi hy vọng được trao đổi một lát về anh trai bà.

- Xin lỗi, ai thế nhỉ? - Katherine gặng hỏi, và làm thế nào ông ta lại có số điện thoại di động riêng của mình?

Bác sĩ Christopher Abaddon.

Katherine không có chút ấn tượng nào với cái tên này.

Người kia hắng giọng, cứ như thể vừa rơi vào tình huống lúng túng khó xử.

- Tôi xin lỗi, thưa bà Solomon. Tôi cứ đinh ninh anh trai bà đã kể với bà về tôi rồi chứ. Tôi là bác sĩ của Peter. Số điện thoại di động của bà nằm trong danh sách liên hệ khẩn cấp của ông ấy.

Tim Katherine như ngừng lại. Liên hệ khẩn cấp ư?

- Có chuyện gì không ổn à?

- Không… tôi không nghĩ vậy, - người kia đáp - Anh trai bà lỡ hẹn sáng nay, và tôi không thể liên lạc được bằng bất kỳ số nào của ông ấy. Peter chưa bao giờ lỡ hẹn mà không thông báo, và tôi thấy hơi lo. Tôi phân vân lắm trước khi gọi điện cho bà, nhưng…

- Không, không sao đâu, tôi rất biết ơn sự lo lắng của ông - Katherine vẫn cố gắng nhớ xem đã nghe đến tên người bác sĩ này chưa - Suốt từ sáng hôm qua tới giờ tôi chưa nói chuyện với Peter, nhưng chắc là do anh ấy quên bật điện thoại di động.

Gần đây Katherine có tặng cho anh mình một chiếc iPhone và ông vẫn chưa có thời gian để tìm hiểu cách sử dụng nó.

- Ông là bác sĩ của anh ấy à? - cô hỏi. Phải chăng Peter bị bệnh anh nhưng lại giấu mình?

Đường dây lặng đi một lúc.

- Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng tôi đã phạm một sai lầm nghề nghiệp khá nghiêm trọng khi gọi cho bà. Peter bảo tôi rằng bà đã biết việc ông ấy đến chỗ tôi, nhưng giờ thì tôi biết là không phải như vậy.

Anh trai mình nói dối bác sĩ riêng ư? Katherine càng thêm lo âu.

- Anh ấy bị ốm à?

- Tôi xin lỗi, bà Solomon, nguyên tắc giữ bí mật giữa bác sĩ và bệnh nhân không cho phép tôi công khai tình trạng của anh trai bà, và tôi đã trót nói quá nhiều khi thừa nhận rằng ông ấy là bệnh nhân của tôi. Giờ tôi sẽ gác máy, nhưng nếu hôm nay bà liên lạc được với Peter, xin nhắc ông ấy gọi cho tôi để tôi biết là ông ấy vẫn ổn.

- Đợi một chút? - Katherine vội nói - Hãy cho tôi biết Peter gặp chuyện gì!

Bác sĩ Abaddon thở hắt ra, chừng như khó chịu vì sai lầm của mình.

- Bà Solomon, tôi có thể thấy rằng bà không vui, nhưng tôi không dám trách bà. Tôi xin khẳng định anh trai bà ổn thôi. Ông ấy chỉ vừa mới tới chỗ tôi ngày hôm qua.

- Hôm qua ư? Và anh ấy lại hẹn tiếp vào hôm nay à? Có vẻ gấp gáp quá nhỉ.

Người kia thở dài.

- Tôi nghĩ chúng ta nên dành cho Peter đôi chút thời gian rồi hãy…

- Tôi sẽ đến chỗ bác sĩ ngay bây giờ, - Katherine nói, rảo chân đi ra cửa - Bác sĩ ở chỗ nào nhỉ?

Im lặng.

- Bác sĩ Christopher Abaddon? - Katherine gọi - ông hãy cho tôi biết địa chỉ, hoặc tôi sẽ tự tra ra. Bằng cách nào thì tôi cũng sẽ đến chỗ ông thôi.

Người bác sĩ ngập ngừng.

- Nếu muốn tôi gặp, thưa bà Solomon, xin bà vui lòng đừng nói gì với Peter cho tới khi tôi có cơ hội giải thích sơ suất của mình được không?

- Vâng.

- Cảm ơn bà. Văn phòng của tôi ở Kalorama Heights - Anh ta đưa cho cô địa chỉ.

Hai mươi phút sau, Katherine Solomon đã có mặt trên những con phố trang nghiêm của khu Kalorama Heights. Cô đã gọi tới tất cả các số điện thoại của anh trai mình nhưng đều không thấy trả lời. Cô không cảm thấy quá lo lắng chuyện anh trai cô đang ở đâu, trái lại, việc anh ấy bí mật tới gặp một bác sĩ… mới là vấn đề.

Khi tìm được địa chỉ, Katherine ngơ ngác ngước nhìn toà nhà. Đây mà là phòng khám của một bác sĩ ư?

Toà tư gia sang trọng trước mắt cô nằm trong hàng rào bảo vệ bằng sắt rèn, lắp nhiều camera điện tử và có những khoảnh vườn tươi tốt. Katherine đang giảm tốc độ để kiểm tra địa chỉ cho chắc chắn thì một chiếc máy quay xoay về phía cô, và cánh cổng mở ra. Katherine ngập ngừng cho xe chạy vào và đỗ cạnh một chiếc Limousine dài, gần đó là một ga-ra đủ chỗ cho sáu chiếc xe.

Anh chàng này là bác sĩ gì không biết?

Lúc Katherine bước ra khỏi xe, cửa trước toà nhà mở ra và một nhân vật lịch lãm xuất hiện. Anh ta khá điển trai, cao lớn, và trẻ hơn cô hình dung. Mặc dù vậy, ở anh ta lại toát ra vẻ tinh tế và phong nhã thường thấy ở lứa già dặn hơn. Anh ta ăn mặc rất chỉnh tề comple sẫm màu thắt cà vạt hẳn hoi, mái tóc vàng dày uốn chải rất công phu.

- Bà Solomon, tôi là bác sĩ Christopher Abaddon. - anh ta lên tiếng, giọng chỉ như tiếng thì thầm.

Khi họ bắt tay nhau, Katherine nhận thấy làn da anh ta trơn mịn và được chăm sóc rất cẩn thận.

- Tôi là Katherine Solomon, - Katherine đáp, cố gắng không nhìn chằm chằm vào làn da nhẵn nhụi và bóng mịn một cách khác thường của người bác sĩ. Hình nhanh ta có hoá trang thì phải?

Khi Katherine bước vào phòng đợi được bài trí rất đẹp, nỗi bất an trong lòng cô bỗng tăng thêm. Nhạc cổ điển ngân nga êm dịu, và không khí toả mùi thơm như có người vừa đốt hương.

- Tuyệt vời thật - cô nhận xét - mặc dù nó không giống kiểu phòng khám mà tôi hình dung.

- Tôi có may mắn là làm việc ngay tại tư gia - Người kia dẫn Katherine vào phòng khách, nơi có đống lửa đang tí tách cháy - Xin bà cứ tự nhiên. Tôi đi pha trà. Tôi sẽ mang ra ngay để chúng ta còn nói chuyện - Anh ta rảo bước về phía bếp và biến mất.

Katherine Solomon chưa ngồi ngay. Trực giác của phụ nữ là một bản năng mạnh mẽ mà cô rất tin tưởng, và ở nơi này có gì đó làm cô gai người. Không một chi tiết nào gợi liên tưởng đến phòng khám của một bác sĩ như cô từng gặp. Phòng khách được trang hoàng toàn đồ cổ những tác phẩm nghệ thuật cổ điển phủ kín các bức tường, chủ yếu là tranh vẽ với nhiều chủ đề thần thoại rất lạ. Katherine dừng lại trước một tấm toan lớn hoạ Ba Kiều nữ với những tấm thân để trần, thể hiện rất ấn tượng nhờ các màu sắc sống động.

- Đó là bức sơn dầu nguyên bản của Michael Parkes - Bác sĩ Abaddon im lìm xuất hiện ngay bên cạnh Katherine, tay bưng một khay trà đang bốc khói - Tôi nghĩ chúng ta nên ngồi gần bếp lửa? - Anh ta dẫn cô qua phòng khách và mời cô ngồi - Không có gì phải lo lắng cả đâu.

- Tôi không lo lắng, - Katherine đáp lại, có phần hấp tấp.

Người chủ nhà mỉm cười trấn an.

- Thật ra, công việc của tôi là biết khi nào thì người khác lo lắng.

- Bác sĩ nói sao cơ?

- Tôi là bác sĩ tâm lý, thưa bà Solomon. Đó là chuyên môn của tôi.

- Tôi đã gặp gỡ anh trai bà được ngót một năm nay. Tôi là chuyên gia trị liệu của ông ấy.

Katherine thừ người. Anh trai mình đang phải trị liệu ư?

- Bệnh nhân nào chẳng tìm cách giữ bí mật việc điều trị của mình, - người đàn ông nói - Tôi thật sai lầm khi gọi cho bà, mặc dù nếu bao biện thì đúng là tại anh bà mà tôi mới nhầm lẫn như vậy.

- Tôi… tôi không hề hay biết.

- Tôi xin lỗi nếu khiến bà lo lắng, - người đàn ông nói, vẻ lúng túng - Tôi nhận ra bà chú ý đến gương mặt tôi lúc chúng ta gặp nhau, và vâng, tôi có hoá trang đấy - Anh ta tự sờ vào má mình, vẻ ngượng ngập - Tôi mắc bệnh về da liễu, nên muốn che giấu. Vợ tôi thường đắp mặt cho tôi, nhưng khi cô ấy vắng nhà thì tôi đành phải trông vào đôi tay vụng về của mình.

Katherine gật đầu, cô quá bối rối nên chẳng biết nói gì.

- Và mái tóc tuyệt vời này… - Anh ta sờ tay lên bộ tóc vàng óng của mình - Tóc giả đấy mà. Bệnh ngoài da của tôi ảnh hưởng cả tới các nang da đầu khiến tóc tôi bay sạch - Anh ta nhún vai - E rằng một trong những lỗi lầm của tôi là quá đỏm dáng.

- Thế thì lỗi của tôi là khiếm nhã mất rồi, - Katherine đáp.

- Không hề - Bác sĩ Abaddon mỉm cười trấn an - Chúng ta bắt đầu nhé? Có lẽ mời bà dùng chút trà nhỉ?

Họ ngồi trước đống lửa và Abaddon rót trà…

- Gặp anh trai bà mãi, đâm ra tôi có thói quen dùng trà. Ông ấy nói nhà Solomon toàn những người uống trà cả.

- Đó là truyền thống gia đình tôi, - Katherine đáp - Xin cho tôi trà đen, cảm ơn.

Họ nhâm nhi trà và chuyện phiếm vài phút, nhưng Katherine rất nóng lòng muốn biết thông tin về anh trai mình.

- Tại sao anh tôi lại tới gặp bác sĩ? - cô hỏi, và tại sao anh ấy lại không hề nói gì với mình? Phải thừa nhận, Peter đã từng chịu đựng nhiều chuyện đau buồn trong đời - mất cha từ rất sớm, và sau đó, chỉ trong vòng năm năm, ông phải chôn cất hết đứa con trai duy nhất lại đến mẹ mình. Mặc dù vậy, Peter luôn gắng sống theo hướng tích cực.

Bác sĩ Abaddon nhấp một ngụm trà.

- Anh bà đến đây bởi vì ông ấy tin tưởng tôi. Chúng tôi có một mối liên hệ vượt xa mối liên hệ thông thường giữa bác sĩ với bệnh nhân - Anh ta trỏ một tài liệu đóng khung ở gần bếp lò. Thoạt trông nó giống một tấm bằng, nhưng khi nhìn kỹ, Katherine nhận ra hình con phượng hoàng hai đầu.

- Bác sĩ là hội viên Tam điểm? - Mà lại là cấp cao nhất, chắc chắn thế.

- Peter và tôi là huynh đệ.

- Chắc chắn bác sĩ đã thực hiện việc gì đó rất quan trọng nên mới được mời lên cấp 33.

- Không hẳn, - Abaddon đáp - Tôi có tiền, và tôi tặng rất nhiều tiền cho các quỹ từ thiện của Hội.

Giờ thì Katherine nhận ra tại sao anh trai cô lại tin tưởng vị bác sĩ trẻ tuổi này. Một hội viên Tam điểm giàu có, quan tâm đến hoạt động nhân đạo và thần thoại cổ đại. Xem ra bác sĩ Abaddon có nhiều điểm chung với Peter hơn cô tưởng.

- Khi hỏi vì sao Peter tới gặp bác sĩ, là tôi muốn biết nguyên do anh ấy cần bác sĩ tâm lý, chứ không phải ngụ ý tại sao anh ấy chọn ông, - Katherine giải thích.

Bác sĩ Abaddon mỉm cười.

- Vâng, tôi biết. Tôi đang tìm cách né tránh câu hỏi một cách tế nhị. Thật sự thì đó không phải là chuyện tôi nên nói ra - Anh ta ngừng lại - Mặc dù tôi phải nói rằng tôi rất bối rối vì Peter giữ kín không cho bà biết các cuộc thảo luận giữa chúng tôi, bởi lẽ các cuộc thảo luận ấy có liên quan trực tiếp tới nghiên cứu của bà.

- Nghiên cứu của tôi à? - Katherine hỏi, hoàn toàn không còn e dè nữa. Peter nói về nghiên cứu của mình ư?

- Gần đây, anh trai bà có đến tôi để hỏi ý kiến chuyên môn về tác động tâm lý của những đột phá mà bà đang tiến hành trong phòng thí nghiệm.

Katherine suýt bị sặc trà.

- Thật sao? Tôi… rất ngạc nhiên, - cô cố trấn tĩnh. Peter đang nghĩ gì không biết? Anh ấy kể với bác sĩ tâm lý về công việc của mình ư?Họ đã quy ước với nhau rằng sẽ không hé lộ với bất kỳ ai về những gì Katherine đang tiến hành. Hơn nữa, chính anh trai cô là người đề xuất phải giữ bí mật kia mà.

- Thưa bà Solomon, chắc chắn bà biết rõ rằng Peter rất quan tâm xem chuyện gì sẽ xảy ra khi nghiên cứu của bà được công bố. Ông ấy nhìn thấy tiềm năng của một sự thay đổi triết học rất lớn trên thế giới… và ông ấy đến đây để thảo luận về những hậu quả có thể phát sinh, từ góc nhìn của khoa tâm lý.

- Tôi hiểu, - Katherine đáp, tách trà của cô run run.

- Chúng tôi thảo luận những vấn đề rất gai góc: Chuyện gì sẽ xảy ra với con người nếu những bí mật lớn nhất của cuộc sống bị phanh phui? Chuyện gì sẽ xảy ra khi những niềm tin mà chúng ta chấp nhận như những tín điều… đột nhiên được chứng minh là sự thật hay huyền thoại? Có thể có người sẽ nói, tốt nhất là cứ để cho những câu hỏi chưa lời giải đáp được yên thân.

Katherine không tin nổi những điều đang nghe, nhưng cô cố kìm nén cảm xúc của mình.

- Tôi hy vọng anh không phiền lòng, thưa bác sĩ Abaddon, nhưng tôi không muốn thảo luận chi tiết về công việc của mình. Tôi chưa có kế hoạch công bố cụ thể bất cứ điều gì. Tạm thời, những phát hiện của tôi vẫn được cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm.

- Rất hay - Abaddon ngả người trên ghế, trầm ngâm suy nghĩ một lát - Dù thế nào thì tôi cũng đã dặn Peter quay lại đây hôm nay vì hôm qua ông ấy có chút vấn đề. Khi chuyện đó xảy ra, tôi vẫn đang có khách…

- Vấn đề à? - Tim Katherine đập mạnh - Là suy sụp chăng? - Cô không thể hình dung nổi anh trai mình lại suy sụp vì vấn đề gì đó.

Abaddon nhẹ nhàng tiến tới.

- Tôi có thể thấy là tôi vừa làm bà không vui. Tôi rất xin lỗi. Trước tình hình rắc rối này, chắc bà cho rằng bà nên được nghe câu trả lời.

- Không phải vấn đề nên hay không, điểm mấu chốt là tôi chỉ còn Peter là người thân duy nhất, - Katherine đáp - Không ai hiểu anh ấy rõ hơn tôi, nếu bác sĩ cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra thì có lẽ tôi sẽ giúp được bác sĩ. Chúng ta cùng chung một mong muốn là làm những điều tốt nhất cho anh Peter mà.

Bác sĩ Abaddon chìm vào im lặng khá lâu và sau đó chậm rãi gật đầu như thể tán đồng. Cuối cùng. anh ta lên tiếng.

- Nói cho rõ, thưa bà Solomon, sở dĩ tôi quyết định chia sẻ thông tin này với bà chỉ vì tôi nghĩ những hiểu biết của bà có thể giúp tôi hỗ trợ Peter.

- Dĩ nhiên rồi.

Abaddon rướn người ra phía trước, tì khuỷu tay lên đầu gối.

- Bà Solomon, hễ gặp anh trai bà, tôi lại cảm thấy ông ấy cứ bị dằn vặt ghê gớm vì một cảm giác tội lỗi nào đó. Tôi chưa bao giờ gặng hỏi tỉ mỉ bởi vì đó không phải là mục đích khiến ông ấy tìm đến tôi. Nhưng hôm qua, vì một vài lý do, tôi đã hỏi ông ấy - Abaddon nhìn xoáy vào cô Peter đã tâm sự hết, thật đột ngột và bất ngờ. Ông thổ lộ những điều tôi không tưởng nổi là sẽ được nghe… kể cả những chi tiết về cái đêm mẹ của ông bà qua đời.

Đêm Giáng sinh - gần mười năm về trước. Mẹ trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay mình.

- Peter kể với tôi rằng mẹ của ông bà bị sát hại trong một vụ cướp tại tư gia. Một kẻ đã đột nhập để truy tìm một thứ mà hắn cho rằng anh trai bà đang cất giấu?

- Đúng vậy.

Mắt Abaddon ánh lên dò xét.

- Peter kể ông ấy đã bắn chết tên cướp.

- Phải.

Abaddon xoa xoa cằm.

- Bà còn nhớ kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì khi hắn mò vào nhà bà không?

Câu hỏi gợi lên một ký ức mà Katherine đã cố gắng đào sâu chôn chặt suốt mười năm nay.

- Hừm, yêu cầu của hắn rất kỳ cục. Tiếc rằng không ai trong chúng tôi hiểu hắn muốn nói gì. Chúng tôi đều ngơ ngác trước đòi hỏi của hắn.

- Chà, anh trai bà thì hiểu đấy.

- Sao cơ? - Katherine ngồi thẳng dậy.

- Ít nhất theo câu chuyện mà Peter kể với tôi hôm qua, ông ấy biết chính xác kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì. Vì không muốn giao nó nên ông ấy giả vờ không hiểu mà thôi.

- Vô lý! Anh Peter không thể biết người kia muốn gì. Những yêu cầu của hắn thật vô nghĩa!

- Thú vị đấy - Bác sĩ Abaddon dừng lại và ghi chép vài điều - Như tôi đã nói, Peter kể với tôi là ông ấy biết rõ. Anh bà tin rằng nếu thuận theo kẻ đột nhập thì có lẽ mẹ của ông bà vẫn còn sống đến hôm nay. Quyết định này chính là căn nguyên tất cả cảm giác tội lỗi của ông ấy.

Katherine lắc đầu.

- Vớ vẩn hết sức…

Abaddon chùng người xuống, vẻ bối rối.

- Thưa bà Solomon, đây là một phản hồi rất hữu ích. Như tôi đã từng lo ngại, anh trai bà dường như hơi xa rời thực tế. Tôi phải thừa nhận rằng tôi sợ tình hình có thể trầm trọng thêm. Đó là lý do tại sao tôi dặn ông ấy quay lại đây hôm nay. ảo giác loại này không phải hiếm, nhất là khi chúng có liên quan đến những ký ức đau buồn.

Katherine lại lắc đầu.

- Anh Peter không hề bị ảo giác, thưa Bác sĩ Abaddon.

- Tôi đồng ý, có điều…

- Có điều gì cơ?

- Có điều việc ông ấy nhớ lại vụ tấn công mới chỉ là phần mở đầu một phần rất nhỏ của một câu chuyện dài và hoang đường mà ông ấy kể với tôi.

Katherine ngả người về phía trước.

- Anh Peter đã nói những gì với bác sĩ?

Abaddon cười buồn.

- Thưa bà Solomon, cho phép tôi hỏi câu này. Đã bao giờ Peter đề cập với bà về một thứ mà ông ấy tin rằng được cất giấu ngay tại Washington D.C.… hoặc về vai trò mà ông ấy đang đảm nhận để bảo vệ một kho báu khổng lồ gồm toàn những tri thức cổ xưa đã bị thất truyền chưa?

Katherine há hốc miệng.

- Bác sĩ đang nói về chuyện gì vậy?

Abaddon thở dài.

- Câu chuyện tôi sắp kể sẽ khiến bà khá sốc, thưa bà Katherine - Anh ta ngừng lại và nhìn xoáy vào cô - Nhưng nó sẽ vô cùng hữu ích nếu bà có thể nói cho tôi bất kỳ điều gì bà biết về nó - Anh ta với lấy ly trà của cô - Bà dùng thêm trà nhé?
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 23

Một hình xăm nữa.

Langdon lo lắng ép sát mình bên cạnh bàn tay đã duỗi ra của Peter và xem xét bảy biểu tượng nhỏ xíu giấu kín bên dưới những ngón tay co quắp không còn sinh khí.

- Hình như là các con số, - Langdon nói vẻ ngạc nhiên - Mặc dù tôi không nhận ra chúng.

- Nhóm đầu tiên là một số La Mã, - Anderson góp ý.

- Thực tình tôi không nghĩ vậy, - Langdon đính chính - Không hề có số La Mã I-I-I-X. Nếu viết đúng phải là V-I-I.

- Thế phần còn lại thì sao? - Sato hỏi.

- Tôi không chắc. Trông như là tám-tám-năm trong số Ả-rập vậy.

- Số Ả rập à? - Anderson hỏi - Trông chúng giống các con số thông thường.

- Các số chúng ta thường dùng chính là số Ả-rập - Langdon quen với việc phải giải thích điều này cho sinh viên của mình đến nỗi anh đã chuẩn bị hẳn một bài giảng về những tiến bộ khoa học của các nền văn hoá Trung Đông xưa kia, một trong những tiến bộ đó là hệ thống chữ số hiện đại của chúng ta, với nhiều ưu điểm hơn hẳn chữ số La Mã, chẳng hạn phát minh ra con số 0 và xây dựng được "hệ đếm theo vị trí". Dĩ nhiên, Langdon luôn kết thúc bài giảng với một câu nhắc nhở rằng cũng chính nền văn hoá Ả-rập đã cống hiến cho nhân loại từ al-kuhl, thứ đồ uống mà các tân sinh viên Harvard ưa chuộng và thường biết đến với tên gọi rượu.

Langdon xem xét kỹ hình xăm, cảm thấy rất khó hiểu.

- Tôi thậm chí còn không, chắc lắm về con số tám-tám-năm. Kiểu viết vuông vức trông rất lạ mắt. Có lẽ không phải là các con số.

- Vậy chúng là gì chứ? - Sato hỏi.

- Tôi không chắc. Toàn bộ hình xăm trông rất giống kiểu chữ… rune 1.

- Nghĩa là sao? - Sato hỏi.

- Hệ thống chữ cái rune chỉ bao gồm những đường thẳng. Các chữ viết đó được gọi là chữ rune và thường được dùng để khắc lên đá bởi vì các đường cong rất khó chạm khắc.

- Nếu đây là văn tự rune thì nghĩa của chúng là gì? - Sato hỏi.

Langdon lắc đầu. Kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở bảng chữ cái rune cơ bản nhất là Futhark - một hệ thống chữ của người Giéc-manh thế kỷ thứ III - nhưng đây không phải là chữ Futhark.

- Thật tình, tôi thậm chí còn chưa dám chắc đây là chữ rune. Các vị cần hỏi một chuyên gia. Có hàng chục hình thức khác nhau như Halsinge 2, Manx 3, hay chữ chấm Stungnar…

- Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, phải không?

Langdon tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Phải, nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến chuyện này? - Anh đứng thẳng lên, cao hơn hẳn người phụ nữ nhỏ bé.

- Ông cứ trả lời tôi đi. Ông vừa nói rằng các chữ cái rune được sử dụng để chạm lên đá, và theo tôi biết thì thành viên của Hội Tam điểm nguyên thuỷ là những người thợ đá. Tôi nói đến điều này là vì khi tôi yêu cầu văn phòng tìm kiếm mối liên hệ giữa Mật Thủ và Peter Solomon, kết quả của họ dẫn tới một mối liên hệ cụ thể - Bà ta dừng lại, như để nhấn mạnh ý nghĩa của những điều vừa khám phá - Hội Tam điểm.

Langdon thở hắt ra, cố kìm để khỏi nói thẳng với Sato những điều mà anh phải liên tục nhắc nhở sinh viên của mình: "Google" không có nghĩa là nghiên cứu, vào thời buổi mà việc tìm kiếm thông tin bằng các từ khoá ồ ạt, và phổ biến như hiện nay thì dường như mọi thứ đều có liên hệ với nhau. Thế giới đang trở thành một mạng lưới thông tin đan xen nhau và càng lúc càng trở nên dày hơn.

Langdon kiên nhẫn nói.

- Tôi không ngạc nhiên khi Hội Tam điểm xuất hiện trong kết quả tìm kiếm của nhân viên bà. Hội Tam điểm là một mắt xích rất rõ rệt giữa Peter Solomon và bất kỳ chủ đề bí ẩn nào.

- Phải, - Sato đáp, - đó là một lý do nữa khiến tôi ngạc nhiên, bởi buổi tối hôm nay ông chưa hề nhắc đến Hội Tam điểm. Sau hết, ông vừa giảng giải về những tri thức bí mật dành cho một thiểu số được khai sáng. Nghe có vẻ rất Tam điểm, phải không nhỉ?

- Đúng vậy… và nó cũng rất Rosicrucian 4, Kabbalistic 5, Alumbrados, hay bất kỳ hội kín nào.

- Nhưng Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, một hội viên rất có thế lực là đằng khác. Dường như các hội viên Tam điểm đều sẽ rất quan tâm nếu chúng ta nói về các bí mật. Ai chẳng biết rằng Hội Tam điểm rất thích những bí mật.

Langdon nghe ra sắc thái ngờ vực trong giọng Sato, và anh chẳng mong muốn điều đó chút nào.

- Nếu bà cần thông tin gì về Hội Tam điểm, tốt hơn cả là nên trực tiếp hỏi một hội viên của họ.

- Thực ra tôi lại thích hỏi người tôi tin tưởng hơn, - Sato đáp.

Đối với Langdon, câu nói ấy vừa ngu ngốc vừa khiêu khích.

- Tôi xin mở ngoặc, thưa bà, toàn bộ triết lý Tam điểm được xây dựng trên cơ sở lòng trung thực và chính trực. Các hội viên Tam điểm là những người đáng tin cậy nhất mà bà có thể gặp được.

- Tôi thì lại thấy bằng chứng rất thuyết phục chứng minh ngược lại.

Langdon càng lúc càng không ưa Giám đốc Sato. Sau nhiều năm viết về truyền thống mô tả bằng hình tượng mang tính ẩn dụ và các biểu tượng của Hội Tam điểm, anh biết rằng hội này luôn là một trong những tổ chức bị hiểu sai và vu khống một cách thiếu công bằng nhất trên thế giới. Họ thường xuyên bị quy kết cho đủ thứ chuyện, từ thờ cúng quỷ dữ tới âm mưu lập một chính phủ cai trị toàn thế giới, nhưng chính sách của họ là không bao giờ phản ứng lại những kẻ chỉ trích mình, để tránh phải trở thành một mục tiêu dễ công kích.

- Nói gì thì nói, - Sato tiếp tục, giọng chua cay - chúng ta lại đi vào ngõ cụt, thưa ông Langdon. Dường như ông đã bỏ sót… hoặc giấu giếm tôi điều gì đó. Cái gã mà chúng ta đang phải đối phó bảo rằng Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi - Bà ta ném cho Langdon một cái nhìn lạnh lẽo - Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta chuyển cuộc nói chuyện này về tổng hành dinh CIA. Biết đâu ở đó chúng ta lại gặp may hơn.

Lời doạ dẫm của Sato chẳng đe doạ nổi Langdon, nhưng lại tác động đến dòng suy tưởng của anh. Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi. Câu nói này, kết hợp với chi tiết đề cập đến Hội Tam điểm, bỗng khiến Langdon giật mình. Anh nhìn xuống chiếc nhẫn trên ngón tay Peter. Chiếc nhẫn là một trong những vật sở hữu giá trị nhất của Peter - một vật gia bảo của dòng họ Solomon, mang biểu tượng phượng hoàng hai đầu - biểu tượng tối mật cho tri thức của Hội Tam điểm. Cái nhẫn vàng lóe sáng trong ánh đèn, gợi lại một ký ức bất ngờ.

Langdon sững sờ khi nhớ lại tiếng thì thào kỳ quái của kẻ bắt giữ Peter: Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à? Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Trong một khoảnh khắc kinh hoàng, mọi ý nghĩ của Langdon chợt tập trung lại, và màn sương được vén lên.

Ngay lập tức, mục đích khiến anh có mặt ở đây trở nên sáng rõ như ban ngày.

° ° °

Cách đó mười dặm trên đường Suitland Parkway, trong lúc lái xe về phía nam. Mal’akh nghe thấy tiếng rung rõ rệt trên mặt ghế cạnh gã. Đó là chiếc iPhone của Peter Solomon, một thứ tỏ ra rất đắc dụng ngày hôm nay. Ảnh người gọi hiện trên màn hình, một phụ nữ trung niên quyến rũ với mái tóc đen dài.

KATHERINE SOLOMON ĐANG GỌI

Mal’akh mỉm cười, phớt lờ cuộc gọi. Số phận đang đưa ta lại gần hơn.

Gã đã lừa được Katherine Solomon tới nhà mình vào chiều nay chỉ vì một lý do - để xác định xem cô có thông tin gì giúp được cho gã không… có lẽ là một bí mật gia đình có thể giúp Mal’akh xác định được thứ gã tìm kiếm. Tuy nhiên, rõ ràng là anh trai Katherine đã chẳng nói gì với cô về những gì ông ta đang bảo vệ suốt nhiều năm qua. Thế nhưng Mal’akh lại biết được một điều khác từ Katherine. Một điều khiến cô phải mất vài tiếng cuộc đời trong ngày hôm nay.

Katherine đã xác nhận với gã rằng toàn bộ công trình nghiên cứu của cô nằm ở một địa điểm, cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm của cô.

Ta phải phá huỷ nó.

Nghiên cứu của Katherine rất có khả năng mở ra một cánh cửa hiểu biết mới, và một khi cánh cửa ấy chỉ hé ra thôi, những người khác sẽ tiếp bước. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi mọi thứ thay đổi

Ta không thể để chuyện đó xảy ra. Thế giới phải nguyên trạng như nó vẫn thế… mông lung trong bóng tối ngu dốt.

Chiếc iPhone phát tín hiệu báo Katherine vừa gửi tới một thư thoại. Mal’akh nhận tin.

- Anh Peter, vẫn là em đây - Giọng Katherine nghe đầy lo lắng - Anh ở đâu vậy? Em đang nghĩ về cuộc trò chuyện của em với bác sĩ Abaddon… và em rất lo. Mọi thứ vẫn ổn chứ? Hãy gọi cho em. Em ở phòng thí nghiệm.

Thư thoại kết thúc.

Mal’akh mỉm cười. Katherine nên lo cho bản thân thay vì anh trai mụ. Gã ngoặt khỏi đường Suitland Parkway để sang phố Silver Hill.

Đi thêm chưa đầy một dặm nữa, trong bóng tối, gã nhận ra đường nét mờ mờ của toà nhà SMSC nép mình dưới bóng cây dọc đại lộ phía bên tay phải gã. Toàn bộ quần thể được bao quanh bởi một hàng rào thép gai cao ngất.

Một toà nhà được bảo vệ ư? Mal’akh cười thầm. Sẽ có người mở cửa cho ta vào.

--- ------ ------ ------ -------

1 Hệ chữ cái rune là một tập hợp những chữ cái có liên hệ với nhau dùng để viết nhiều ngôn ngữ Giéc manh khác nhau trước khi có hệ chữ cái La tin, từng được sử dụng ở Bắc Âu, Anh, bán đảo Scandinavia, và Iceland từ khoảng thế kỷ III đen thề kỷ XVII - ND.

2 Hệ chữ cái rune rút gọn, chủ yếu tìm thấy trong các văn bia có niên đại vào thế kỷ X đến XII ở vùng Halsingland thuộc Thuỵ Điển. Hệ chữ này dường như là dạng đơn giản hoá của chữ rune Rok ở Thuỵ Điển - Na Uy và không có các nét đứng - ND.

3 Manx là một ngôn ngữ Goidelic, có liên hệ gần gũi với ngôn ngữ Xen-tơ ở Ireland và Scotland - ND.

4 Rosicrucianism (Hội Thập tự Hoa hồng) là thuyết thần học của một hội kín thần bí, hình thành ở Đức thời kỳ Trung cổ muộn, với học thuyết "xây dựng dựa trên những chân lý bí truyền của quá khứ cổ xưa", những thứ "được giữ kín trước người phàm, đem lại sự hiểu biết về tự nhiên, vũ trụ vật chất và lĩnh vực tinh thần" - ND.

5 Kabbalah (nghĩa là "tiếp nhận") là một nguyên tắc và trường phái tư tưởng liên quan đến khía cạnh bí truyền của Do Thái giáo. Nó là một tập hợp những lời răn bí truyền nhằm giải thích mối quan hệ giữa một Đấng Sáng tạo toàn năng, bất tử với cái vũ trụ hữu hạn và có sinh có diệt do Ngài tạo ra. Kabbalah tìm cách định nghĩ bản chất của vũ trụ và con người, bản chất và mục đích của tồn tại, và nhiều câu hỏi khác. Nó cũng thể hiện phương pháp giúp hiểu những khái niệm này - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 24

Tâm trí Langdon đột nhiên thông suốt.

Mình hiểu tại sao mình lại ở đây.

Đứng ở chính giữa Nhà tròn, Langdon chỉ muốn quay mình chạy đi tránh xa bàn tay Peter, xa chiếc nhẫn vàng lấp lánh, xa hẳn con mắt ngờ vực của Sato và Anderson. Nhưng anh vẫn đứng bất động, tay nắm chặt thêm chiếc túi da đeo trên vai. Mình phải ra khỏi nơi này.

Hàm anh nghiến chặt lại, ký ức bắt đầu tái hiện quang cảnh buổi sáng lạnh lẽo nhiều năm về trước tại Cambridge 1. Lúc đó là 6 giờ sáng. Sau vài vòng bơi trong bể bơi trường Harvard, Langdon lên lớp như thường lệ. Anh vừa bước qua ngưỡng cửa, mùi bụi phấn quen thuộc đã ùa tới, trộn với hơi nước nóng quanh anh. Tiến được hai bước về phía bàn của mình, Langdon chợt đứng sững lại.

- Một người đang đợi anh ở đó - một quý ông lịch lãm với chiếc mũi khoằm và đôi mắt xám rất quý phái.

- Peter? - Langdon sửng sốt nhìn vị khách.

Nụ cười của Peter Solomon làm sáng bừng cả căn phòng vẫn còn tối lờ mờ.

- Chúc một buổi sáng tốt lành, Robert. Ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi lắm sao? - Giọng ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức mạnh.

Langdon bước vội tới và nồng nhiệt bắt tay người bạn của mình.

- Một quý ông Yale đang làm gì ở khuôn viên Crimson lúc mới sáng bảnh mắt thế này?

- Nhiệm vụ bí mật đằng sau chiến tuyến quân thù ấy mà, - Solomon đáp và cười. Ông làm hiệu chỉ phần thắt lưng gọn gàng của Langdon - Bơi lội có tác dụng nhỉ! Trông dáng cậu rất bảnh rồi đấy.

- Thì đang cố làm cho anh tự thấy già nua thôi mà, - Langdon đùa theo - Rất vui được gặp anh, Peter. Có chuyện gì thế?

- Đi công tác vội qua, - người đàn ông đáp, liếc quanh gian phòng học vắng tanh - Xin lỗi vì làm phiền cậu. Robert, nhưng tôi chỉ có vài phút thôi Có việc tôi rất cần nhờ cậu… hết sức riêng tư. Mong cậu giúp đỡ.

Lạ đấy. Langdon tự hỏi không biết một anh Giáo sư đại học quèn như mình thì có thể làm được gì cho một quý ông có tất cả mọi thứ.

- Việc gì cũng được, - Langdon đáp, rất vui vì có cơ hội giúp đỡ người đã nhiệt thành tương trợ anh bấy lâu, nhất là khi cuộc đời giàu sang của Peter cũng phải chịu quá nhiều bi kịch.

Solomon hạ giọng.

- Tôi mong cậu giữ hộ tôi một thứ.

Langdon đảo mắt.

- Em hy vọng không phải con Hercules - Langdon đã từng đồng ý giúp Solomon trông con chó tai cụp nặng ngót 70 kg tên là Hercules trong khi ông đi vắng. Suốt thời gian ở với Langdon, con chó tỏ ra nhớ nhung thứ đò chơi nhai bằng da ở nhà và nó đã tìm một vật thay thế rất đáng giá trong phòng làm việc của anh: một cuốn Kinh thánh có minh hoạ, viết tay, bằng giấy da cừu nguyên bản từ thế kỷ XVII. Ấy thế mà cái "con chó khốn kiếp" đó vẫn chưa lấy làm hài lòng.

- Cậu biết là tôi vẫn đang tìm một bản để đền cho cậu mà, - Solomon ngượng ngùng nói.

- Không sao đâu. Em mừng là Hercules có năng khiếu tôn giáo đến thế.

Solomon cười khùng khục nhưng có vẻ thẫn thờ.

- Robert, hôm nay tôi đến đây là muốn nhờ cậu để mắt trông nom một thứ rất có giá trị với tôi. Tôi được thừa hưởng nó đã lâu, nhưng tôi không còn cảm thấy an tâm để nó trong nhà hay trong phòng làm việc nữa.

Langdon sinh dạ bồn chồn. Bất cứ thứ gì "rất có giá trị", trong thế giới của Peter Solomon đều xứng đáng cả một gia tài.

- Thế két ký gửi an toàn thì sao? - Chẳng phải phải gia đình anh có tài khoản trong một nửa số ngân hàng ở Mỹ đấy ư?

- Như thế lại phải làm giấy tờ và dính dáng đến đám nhân viên ngân hàng. Tôi muốn nhờ một người bạn đáng tin cậy, và tôi biết cậu có thể giữ bí mật - Solomon lục tôi áo và rút ra một gói nhỏ, trao nó cho Langdon.

Căn cứ vào phần mở đầu câu truyện đầy kịch tính, Langdon cứ nghĩ sẽ thấy một vật ấn tượng hơn, nhưng cái gói chỉ là một hộp vuông vức nhỏ nhắn, mỗi chiều chưa tới 10 cm, bọc trong lớp giấy gói màu nâu đã bạc và có buộc dây. Căn cứ vào sức nặng và kích cỡ của cái gói, có cảm giác thứ bên trong nó phải làm bằng đá hoặc kim loại.

Gì thế này?

Langdon xoay xoay cái hộp trên tay, và nhận thấy sợi dây buộc được bảo vệ rất cẩn thận ở một mặt với một dấu sáp đóng nổi, giống như trong các công văn thời xưa vậy. Con dấu khảm hình phượng hoàng hai đầu với chữ số 33 hằn rõ trên ngực - biểu tượng truyền thống của cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm.

- Nói thật, Peter. - Langdon toét miệng cười - Anh là Đại Huynh trưởng của tổng Hội Tam điểm chứ đâu phải Giáo hoàng. Tại sao lại dùng nhẫn đóng dấu niêm phong các gói đồ?

Solomon liếc xuống chiếc nhẫn vàng của mình và cười khan.

- Tôi có niêm phong cái gói này đâu, Robert. Cụ cố của tôi đóng đấy. Ngót một thế kỷ nay rồi.

Langdon ngẩng phắt đầu lên.

- Sao cơ?

Solomon giơ ngón tay đeo nhẫn của mình lên.

- Chiếc nhẫn Tam điểm này là của cụ cố. Sau đó ông nội thừa hưởng, rồi cha… và cuối cùng là tôi.

Langdon giơ cái gói lên.

- Cụ cố anh bọc cái gói này một thế kỷ trước và không có ai mở nó ra à?

- Chính xác.

- Nhưng… sao lại không chứ?

- Bởi vì chưa đến lúc - Solomon mỉm cười.

Langdon trợn mắt.

- Đến lúc làm gì cơ?

- Robert, nói thì bảo phi lý, nhưng cậu biết càng ít càng tốt. Cứ bỏ cái gói này vào chỗ nào đó an toàn, và đừng cho ai biết tôi đã trao nó cho cậu là được.

Langdon cố tìm trong ánh mắt người bạn vong niên của mình một tia bông đùa. Solomon có xu hướng kịch tính hoá mọi việc, và Langdon băn khoăn không biết anh có đang bị trêu chọc không.

- Peter, chắc đây không phải là một âm mưu khôn khéo khiến em nghĩ rằng mình vừa được giao phó một bí mật lâu đời của Hội Tam điểm để rồi em sẽ tò mò và quyết định gia nhập Hội chứ?

- Cậu biết là Hội Tam điểm có tuyển người ngoài đâu. Vả lại, cậu đã nói với tôi rằng cậu không thích tham gia mà.

Điều này hoàn toàn đúng. Langdon rất kính trọng triết lý và các biểu tượng của Hội Tam điểm nhưng anh đã quyết định không bao giờ gia nhập hội; những lời tuyên thệ giữ bí mật sẽ ngăn cản anh thảo luận về Hội Tam điểm với các sinh viên của mình. Cũng chính vì lý do này mà Socrates 2 đã từ chối tham gia vào Eleusinian Mysteries 3.

Nhìn cái hộp nhỏ bé bí ẩn cùng con dấu Tam điểm. Langdon không thể không đặt ra câu hỏi rất hiển nhiên.

- Tại sao anh không giao thứ này cho một trong số các huynh đệ Tam điểm?

- Cứ cho là tôi có linh cảm rằng nó sẽ an toàn hơn khi được cất giữ bên ngoài hội đi, và đừng để kích thước nhỏ bé của cái gói đánh lừa cậu. Nếu lời cha tôi dặn dò là đúng thì nó đang chứa đựng một thứ ghê gớm lắm đấy - ông ngần ngừ - Một thứ bùa phép, đại loại như vậy.

- Ông ấy nói đến bùa phép phải không nhỉ? Theo định nghĩa, bùa phép là một vật có sức mạnh phép thuật. Theo truyền thống, bùa được dùng để đem lại may mắn, xua đuổi tà ma, hoặc hỗ trợ trong các nghi thức cổ xưa.

- Peter, anh thừa biết là bùa phép đã không còn thịnh hành từ thời Trung đại mà?

Peter kiên nhẫn đặt một tay lên vai Langdon.

- Tôi hiểu cậu cảm thấy thế nào, Robert ạ. Chúng ta quen nhau đã lâu đặc tính hay hoài nghi của cậu là một trong những thế mạnh cần có của một học giả, nhưng nó cũng lại là điểm yếu nhất của cậu. Tôi hiểu cậu đủ để không nghĩ đến việc đề nghị cậu tin… mà chỉ là tin tưởng. Mong cậu tin tưởng khi tôi nói rằng thứ bùa phép này rất mạnh. Cha tôi dặn nó có thể đem đến cho chủ sở hữu khả năng lập lại trật tự từ hỗn loạn.

Langdon đứng đờ người. Ý tưởng "trật tự từ hỗn loạn" là một trong những châm ngôn chính của Hội Tam điểm. Ordo ab chao. Mặc dù vậy thì vẫn rất vô lý nếu cho rằng có một thứ bùa biết truyền sức mạnh, chưa kể lại là loại sức mạnh đem lại trật tự từ trong hỗn loạn.

- Thứ bùa này, - Solomon nói tiếp - sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác, và thật tệ là tôi đủ cơ sở để tin rằng những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó - Langdon còn nhớ rõ vẻ nghiêm túc trong đôi mắt ông - Tôi mong cậu giữ gìn nó hộ tôi một thời gian. Cậu làm được chứ?

Đêm ấy, Langdon ngồi một mình bên bàn ăn trong bếp cùng với cái gói và cố gắng hình dung xem thứ gì bên trong. Cuối cùng, cho rằng tất cả chỉ do thói quen quan trọng hoá vấn đề của Peter, anh cất cái gói vào két tường trong thư viện, rồi từ đấy quên bẵng nó.

Cho tới sáng nay.

Cuộc điện thoại từ gã đàn ông nói giọng miền nam.

- Ồ thưa Giáo sư, tôi suýt quên! - viên trợ lý nói sau khi thông báo cho Langdon các chi tiết về việc sắp xếp chuyến đi tới Thủ đô cho anh - ông Solomon còn một đề nghị nữa.

- Vâng? - Langdon đáp, tâm trí lan man tới bài thuyết trình mà anh vừa đồng ý đảm nhận.

- Ông Solomon có để một lời nhắn cho Giáo sư - Người kia bắt đầu đọc một cách chật vật, như thể đang cố giải mã thủ bút của Peter - Hãy bảo Robert… mang… theo cái gói nhỏ có niêm phong mà tôi gửi anh ấy nhiều năm trước - Gã dừng lại - Câu này có ý nghĩa gì với Giáo sư không?

Langdon sực nhớ tới cái hộp nhỏ vẫn nằm yên trong két tường suốt thời gian qua, anh ngạc nhiên đáp.

- Có. Tôi biết Peter muốn nói gì.

- Và Giáo sư có thể mang nó theo chứ?

- Dĩ nhiên. Báo với Peter rằng tôi sẽ mang theo.

- Tuyệt vời - Viên trợ lý thở phào - Chúc Giáo sư có một buổi thuyết trình lý thú tối nay. Chúc Giáo sư thượng lộ bình an.

Trước khi rời nhà, Langdon lấy cái gói vẫn bọc kỹ ở đáy két và bỏ nó vào túi xách.

Giờ anh đang đứng trong Điện Capitol, lòng chắc chắn duy nhất một điều. Peter Solomon sẽ vô cùng sững sờ khi biết Langdon đã phụ lòng ông như thế nào.

--- ------ ------ ------ -------

1 Đây là thành phố Cambridge thuộc bang Massachusetts. Hoa Kỳ. - ND.

2 Socrates là một triết gia Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn. Thời trẻ ông nghiên cứu các loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ, đó là nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta. Socrates được coi là người đặt nền móng cho thuật hùng biện dựa trên hệ thống những câu hỏi đối thoại. Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: "Hãy tự biết lấy chính mình". Ông bị chính quyền khi đó kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athènes thừa nhận và bảo hộ và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt tự tử bằng thuốc độc. Sinh thời ông không mở trường dạy học, mà thường coi mình là có sứ mệnh của thần linh, nên phải đi dạy bảo mọi người và không làm nghề nào khác Socrates thường nói chuyện với mọi người tại các nơi công cộng, không lấy tiền. Học trò xuất sắc của ông là đại hiền triết Platon - ND.

3 Mật nghi (các nghi thức bí truyền) Eleusis là các nghi lễ khai tâm được tổ chức hằng năm trong tín ngưỡng thờ thần Demeter và Persephone ở vùng Eleusis thuộc Hy Lạp cổ đại. Các huyền tích và nghi thức bí truyền này bắt đầu từ khoảng năm 1600 trước Công nguyên và tồn tại 2000 năm. Các nghi thức, nghi lễ và tín điều được giữ kín, vì người ta tin lễ khai tâm giúp gắn kết những người thờ cúng với các vị thần và hứa hẹn đem lại sức mạnh thần thánh cùng các phần thưởng ở thế giới bên kia - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 25

Lạy Chúa, Katherine nói đúng. Y như mọi khi.

Trish Dunne sửng sốt nhìn kết quả tìm kiếm hiển thị trên bức tường plasma trước mặt. Cô cứ đinh ninh lệnh tìm kiếm sẽ không cho ra kết quả gì cả, nhưng trên thực tế, lúc này cô đã có hơn một chục kết quả, và kết quả vẫn tiếp tục xuất hiện.

Có một kết quả trông rất hứa hẹn.

Trish xoay người và gọi to về phía thư viện.

- Chị Katherine? Em nghĩ chị muốn xem cái này đấy!

Đã vài năm kể từ lần cuối cùng Trish chạy một con nhện tìm kiếm, và kết quả tối nay khiến cô rất kinh ngạc, vài năm trước, kiểu tìm kiếm này là vô vọng. Nhưng giờ đây, dường như lượng tư liệu số hoá trên thế giới tăng vọt đến mức người ta có thể tìm thấy bất kỳ thứ gì.

Thật khó tin, chuỗi từ khoá còn chứa một từ mà Trish thậm chí chưa bao giờ nghe nói đến… và lệnh tìm kiếm vẫn tìm thấy từ đó.

Katherine chạy ào qua cửa phòng điều khiển.

- Cô thu được gì rồi?

- Cả loạt ứng viên - Trish trỏ bức tường plasma - Các tài liệu này đều chứa nguyên văn những cụm từ khoá của chị.

Katherine vén tóc ra sau tai và lướt qua danh sách.

- Chị đừng vội vui mừng, - Trish nói thêm - em có thể đoan chắc với chị rằng hầu hết mớ tài liệu này không phải là những gì chị đang tìm kiếm. Người ta gọi chúng là lỗ đen. Hãy nhìn kích thước của file mà xem. Cực kỳ lớn. Chúng tương tự tệp nén lưu lại hàng triệu thư điện tử, hàng loạt bộ bách khoa thư đồ sộ hoặc tin nhắn trên toàn cầu suốt mấy năm qua, đại loại như thế. Xét theo kích thước và nội dung đa dạng của chúng thì những file này chứa nhiều từ khoá đến mức chúng tiếp nhận bất kỳ cơ chế tìm kiếm nào đến gần.

Katherine trỏ một kết quả ở gần đầu danh sách.

- Cái này thì sao?

Trish cười. Katherine rất nhanh mắt, tin ngay ra file duy nhất có kích thước nhỏ.

- Mắt chị tinh lắm. Đúng, đó là ứng viên duy nhất của chúng ta đấy Trên thực tế, file đó nhỏ đến mức nó có thể không dài quá một trang đâu.

- Mở ra xem nào - Giọng Katherine đầy hồi hộp.

Trish không thể tin nổi là một tài liệu độ một trang lại chứa tất cả những chuỗi tìm kiếm lạ lùng mà Katherine đưa cho cô. Tuy nhiên, khi cô nhấn vào tài liệu để mở nó, các cụm từ hiện ra rất… rõ rệt và dễ nhận thấy trên văn bản.

Katherine sải bước tới gần, mắt dán chặt vào bức tường plasma.

- Tài liệu này đã bị… lọc.

Trish gật đầu.

- Chào mừng đến với thế giới văn bản số hoá.

Lọc tài liệu tự động đã trở thành một cách làm chuẩn mực khi cung cấp những tài liệu số hoá. Lọc tài liệu là một quá trình trong đó máy chủ cho phép người sử dụng tìm kiếm toàn bộ văn bản, nhưng chỉ tiết lộ một phần nhỏ của nó, tức là phần nội dung khớp với các từ khoá yêu cầu. Bằng cách loại bỏ đa số nội dung văn bản, máy chủ tránh được việc vi phạm bản quyền và cũng gửi kèm cho người sử dụng một thông điệp gợi tò mò: Tôi có thông tin quý vị đang tìm kiếm, nhưng nếu quý vị muốn phần còn lại, quý vi sẽ phải mua nó.

- Chị thấy đấy, - Trish nói, lướt qua trang văn bản đã bị lược bỏ rất nhiều - tài liệu này có đủ tất cả những cụm từ khoá của chị.

Katherine im lặng, đăm đăm nhìn đoạn văn bản hổng lỗ chỗ.

Trish để cho cô đọc khoảng một phút rồi quay trở về đầu trang.

Mỗi cụm từ khoá của Katherine đều được gạch chân và viết hoa, kèm theo một phần nội dung văn bản tìm thấy, đó là vài từ xuất hiện mỗi bên của cụm từ cần tìm.

Trish không hình dung nổi nội dung của tài liệu, và còn "đồ hình" là cái quái gì nữa không biết?

Katherine háo hức bước lại gần màn hình.

- Tài liệu này từ đâu ra vậy? Ai viết nó?

Trish đang xử lý tài liệu.

- Cho em một giây thôi. Em đang tìm cách truy nguyên.

- Tôi cần biết ai viết tài liệu này, - Katherine nhắc lại, giọng đanh hơn - Tôi muốn xem phần còn lại của nó.

- Em đang tìm cách, - Trish đáp, giật mình vì giọng nói sắc lạnh của Katherine.

Lạ thay, vị trí của file không hiển thị như một địa chỉ web truyền thống mà lại là một địa chỉ Giao thức Intemet (IP) số.

- Em không truy được IP, - Trish thông báo - Tên miền không xuất hiện. Xem nào! - Cô kéo cửa sổ gốc của mình lên - Em sẽ chạy lệnh truy dấu.

Trish gõ chuỗi lệnh để ping 1 tất cả các "bước truyền" giữa máy móc trong phòng điều khiển của cô và bất cứ máy nào đang lưu tài liệu này.

- Truy tìm ngay nào, - cô nói và cho chạy lệnh.

Lệnh truy dấu hoạt động cực nhanh, và một danh sách dài dằng dặc các thiết bị mạng xuất hiện gần như ngay lập tức trên bức tường plasma. Trish lướt xuống phía dưới… xuống nữa… qua tất cả các thiết bị định tuyến và chuyển đổi có kết nối với máy của cô…

- Thế quái nào ấy nhỉ?

Lệnh truy dấu của cô dừng lại trước khi đến được máy chủ của tài liệu. Vì một lý do nào đó, lệnh ping của cô vấp phải một thiết bị mạng nuốt chửng nó thay vì hất nó trở lại.

- Xem chừng lệnh truy dấu của em bị chặn, - Trish nói. Trường hợp này cũng có thế xảy ra ư?

- Cho chạy lại đi.

Trish chạy lệnh truy dấu khác và gặp kết quả tương tự.

- Không được. Ngõ cụt rồi. Hình như tài liệu này nằm trên một máy chủ không thể truy dấu được - Cô nhìn những bước truyền cuối cùng ngay trước "ngõ cụt" - Nhưng em đoan chắc với chị rằng nó nằm đâu đó ở Washington D.C. này thôi.

- Cô đùa đấy à?

- Có gì lạ đâu chị, - Trish nói - Các chương trình nhện này chạy xoắn ốc theo yếu tố địa lý, có nghĩa là những kết quả đầu tiên luôn gần quanh đây, thêm nữa, một trong các chuỗi tìm kiếm của chị là "Washington D.C." mà.

- Nếu dùng giao thức "who is 2 thì sao? - Katherine gợi ý - Liệu nó có cho cô biết ai sở hữu tên miền không?

Hơi vớ vẩn nhưng không phải là một ý tưởng tồi. Trish tìm tới cơ sở dữ liệu "who is" và chạy lệnh tin kiếm IP, hy vọng khớp được các con số bí ẩn với một tên miền có thật. Tâm trạng thất vọng của cô giờ đã bớt nhờ sự tò mò càng lúc càng tăng. Người nào có tài liệu này nhỉ? Các kết quả "who is" xuất hiện rất nhanh, nhưng không có kết quả nào thích hợp, Trish đành giơ tay chịu thua.

- Hình như địa chỉ IP này không tồn tại. Em không thể dò ra thông tin gì về nó.

- Rõ ràng IP có tồn tại. Chúng ta vừa tìm thấy một tài liệu lưu trữ ở đó mà!

- Đúng, và hiển nhiên ai đó có tài liệu này không hề muốn để lộ nhận dạng. Em không biết nói gì với chị. Truy dấu hệ thống thực sự không phải là sở trường của em: Có lẽ chị nên mời ai đó có kỹ năng xâm nhập hệ thống. em thì chịu thua rồi.

- Cô quen ai như thế không?

Trish quay lại, đăm đăm nhìn sếp của mình.

- Chị Katherine, em đùa đấy. Chính xác thì đó không phải là một ý hay đâu.

- Nhưng nó có tác dụng phải không? - Katherine xem đồng hồ.

- A vâng… luôn luôn. Về mặt kỹ thuật thì rất dễ dàng.

- Cô có quen ai không?

- Các hacker hả? - Trish cười - Phân nửa số đồng nghiệp cũ của em thạo việc này.

- Có ai cô tin tưởng không?

Chị ấy nói thật đấy à?

Nhận thấy Katherine cực kỳ nghiêm túc, cô vội đáp:

- Chà, vâng. Em biết một người nhờ được. Anh ấy là chuyên gia an ninh hệ thống của chúng em, một chuyên viên máy tính siêu hạng. Anh ấy muốn hò hẹn với em, kiểu bông lơn ấy mà, nhưng đó là một anh chàng tốt, và em tin tưởng anh ấy. Anh ấy làm việc tự do.

- Cậu ta có kín tiếng không?

- Anh ấy là một hacker. Dĩ nhiên là anh ấy phải kín tiếng. Đó là việc anh ấy làm mà. Nhưng em tin chắc anh ấy sẽ đòi ít nhất 1000 đô la chỉ để nhìn…

- Gọi cho cậu ta đi. Trả cậu ấy gấp đôi nếu tìm ra kết quả nhanh.

Trish không biết điều nào khiến cô khó chịu hơn, giúp Katherine Solomon thuê một hacker hay gọi cho anh chàng mà đến nay vẫn không sao chấp nhận nổi việc cô chuyên gia phân tích siêu hệ thống tóc đỏ béo lùn lại cự tuyệt lời tán tỉnh của mình.

- Chị chắc chắn chứ?

- Dùng điện thoại trong thư viện ấy, - Katherine dặn - Nó có thể chặn các cuộc gọi đến, và đương nhiên là không sử dụng tên tôi nhé.

- Vâng - Trish đi ra cửa, nhưng dừng lại khi nghe thấy iPhone của Katherine kêu. Nếu may mắn, tin nhắn đang tới kia sẽ là thông tin giúp cô thoát khỏi nhiệm vụ không lấy gì làm thú vị này. Cô nấn ná đợi Katherine lấy iPhone ra khỏi túi áo choàng và đọc màn hình.

Katherine Solomon nhẹ cả người khi nhìn cái tên xuất hiện trên iPhone.

Có thế chứ!

PETER SOLOMON

- Tin nhắn của anh tôi, - cô nói, mắt liếc Trish.

Trish lộ vẻ hy vọng.

- Có lẽ chúng ta nên hỏi ý kiến ông ấy… trước khi liên hệ với một hacker chăng?

Katherine đọc tài liệu trên bức tường plasma và nghe thấy rõ giọng nói của bác sĩ Abaddon. Có thể tìm được… thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Katherine không còn biết tin vào điều gì nữa, và tài liệu kia ẩn chứa thông tin về những ý tưởng cường điệu rõ ràng đã làm Peter ám ảnh.

Katherine lắc đầu.

- Tôi muốn biết ai viết tài liệu này và nó nằm ở đâu. Cứ liên hệ đi.

Trish cau mày và đi ra phía cửa.

Cho dù tài liệu này có thể giải thích được điều bí ẩn về những gì anh trai cô đã nói với bác sĩ Abaddon hay không, chí ít hôm nay cũng đã giải quyết xong một khó khăn. Cuối cùng thì anh trai cô đã biết cách sử dụng chức năng nhắn tin trên chiếc iPhone mà Katherine tặng cho ông.

- Và nhớ báo cho giới truyền thông nhé. - Katherine gọi với theo Trish - Ngài Peter Solomon vĩ đại vừa gửi được tin nhắn đầu tiên.

° ° °

Ở bãi đỗ xe bên kia phố chếch với SMSC. Mal’akh đứng bên cạnh chiếc Limousine của gã, duỗi chân và đợi cú điện thoại mà gã biết chắc là sẽ tới. Mưa đã ngớt, mặt trăng mùa đông bắt đầu ló ra khỏi những đám mây. Vẫn là vầng trăng đã chiếu xuống Mal’akh qua mắt vòm trần nhà Thánh điện Hội Tam điểm ba tháng trước trong lễ nhập môn của gã.

Thế giới đêm nay khác hẳn.

Trong khi chờ đợi, dạ dày gã lại quặn lên. Việc nhịn ăn hai ngày qua, mặc dù rất khó chịu, lại rất cần thiết cho việc chuẩn bị của gã.

Đó là nghi thức cổ xưa. Chỉ ít lâu nữa, tất cả những khó chịu thể xác sẽ không còn đáng kể nữa.

Đứng dưới trời đêm lạnh lẽo, Mal’akh cười khùng khục khi thấy khá mỉa mai là số phận đã gửi gắm gã vào cổng một nhà thờ nhỏ. Ở đây nép giữa Trung tâm Nha khoa Sterling và một siêu thị nhỏ, là một thánh đường nhỏ bé.

TOÀ NHÀ VINH QUANG CỦA CHÚA.

Mal’akh đăm đăm nhìn ô cửa sổ, ở đó hiện rõ một phần tuyên ngôn mang tính học thuyết của nhà thờ: CHÚNG CON TIN RĂNG ĐỨC JESUS CHRIST ĐƯỢC SINH RA BỞI CHÚA THÁNH THẦN, DO ĐỨC MARY ĐỒNG TRINH SINH NỞ, VÀ VỪA LÀ CHÚA VỪA LÀ CON NGUỜI TOÀN HẢO.

Mal’akh mỉm cười. Phải. Jesus trên thực tế là cả hai - con người và Chúa - nhưng điều kiện tiên quyết của thánh thần không phải là có một bà mẹ trinh nữ. Mà là cách thức trở thành thánh thần.

Tiếng chuông điện thoại di động vang lên trong đêm, khiến mạch gã đập nhanh. Chiếc điện thoại đang đổ chuông lúc này là điện thoại của Mal’akh, loại rẻ tiền dùng một lần mà gã mới mua hôm qua. Nhận dạng của người gọi cho biết đó là cuộc gọi mà gã đang trông đợi.

Một cuộc gọi nội hạt, Mal’akh trầm ngâm, nhìn ngang qua bên kia phố Silver Hill về phía đường viền mái nhà dích dắc vượt lên khỏi các ngọn cây, lờ mờ dưới ánh trăng. Mal’akh bật điện thoại.

- Tôi là bác sĩ Abaddon, - gã nói, cố tình trùng giọng xuống.

- Katherine đây. - giọng người phụ nữ vang lên - Cuối cùng tôi cũng đã có tin của anh trai mình.

- Ồ tôi thấy nhẹ cả người. Ông ấy thế nào?

- Anh ấy đang trên đường tới phòng thí nghiệm của tôi - Katherine thông báo - Anh ấy đề xuất mời anh cùng tham gia với chúng tôi.

- Sao cơ ạ? - Mal’akh vờ ngập ngừng - Trong phòng thí nghiệm… của bà à?

- Chắc chắn là anh ấy rất tin tưởng anh. Anh ấy chưa bao giờ mời bất kỳ ai tới đó cả.

- Hẳn ông ấy nghĩ một cuộc viếng thăm sẽ giúp ích cho những cuộc thảo luận của chúng tôi, nhưng tôi cảm thấy như thế hơi mang tính chất xâm phạm.

- Nếu anh trai tôi nói rằng anh được hoan nghênh thì anh sẽ được hoan nghênh. Thêm nữa, Peter nói anh ấy có nhiều điều cần trao đổi với cả hai chúng ta, và tôi rất muốn được biết ngọn ngành mọi chuyện đang diễn ra.

- Vậy thì được. Chính xác thì phòng thí nghiệm của bà ở đâu?

- Tại Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian. Anh có biết chỗ đó không?

- Không. - Mal’akh nói, dõi mắt qua bãi đỗ xe về phía toà nhà - Thực ra tôi đang ở trong xe, và tôi có hệ thống chỉ dẫn. Địa chỉ thế nào nhỉ?

- Số 4210 phố Silver Hill.

- Vâng, chờ tôi chút. Tôi sẽ nhập vào hệ thống - Mal’akh đợi khoảng mười giây và lên tiếng - à, hay quá, có vẻ như tôi ở gần hơn mình nghĩ. Hệ thống GPS cho biết tôi chỉ mất khoảng chục phút là tới nơi.

- Tuyệt. Tôi sẽ gọi cho bộ phận an ninh và báo với họ rằng anh sẽ qua đó.

- Cảm ơn bà.

- Gặp anh sau.

Mal’akh nhét điện thoại vào túi và ngó về phía SMSC. Mình tự mời mình liệu có khiếm nhã không nhỉ? Mỉm cười, gã rút chiếc iPhone của Peter Solomon ra và đọc lại tin nhắn gã gửi cho Katherine vài phút trước đó.

Đã nhận được tin nhắn của em. Vẫn ổn. Bận suốt ngày. Quên cá hẹn với bác sĩ Abaddon. Xin lỗi không giới thiệu cậu ta sớm hơn. Chuyện dài lắm. Giờ đang tới phòng thí nghiệm. Nếu được, mời bác sĩ Abaddon cùng tham gia với chúng ta. Anh hoàn toàn tin tướng cậu ấy, và anh có nhiều việc cần nói với cá hai người. - Peter

Không có gì lạ, giờ chiếc iPhone của Peter phát tín hiệu nhận trả lời từ Katherine.

Anh Peter, chúc mừng anh đã học được cách nhắn tin! Biết anh vẫn ổn em rất yên tâm. Đã nói chuyện với Bs. A., cậu ta đang tới phòng thí nghiệm. Lát gặp! - K.

Siết chặt chiếc iPhone của Solomon, Mal’akh cúi xuống phía dưới chiếc Limousine và gài điện thoại vào giữa bánh trước và vỉa hè.

Chiếc điện thoại này phục vụ gã rất đắc lực… nhưng giờ đã đến lúc nó cần biến mất không dấu vết. Gã leo lên sau tay lái, cài số, và cho xe trườn lên phía trước cho tới khi nghe tiếng rắc rắc đanh gọn vì bị nghiền nát của chiếc iPhone.

Mal’akh lùi xe trở lại bãi đỗ và chăm chú nhìn bóng toà nhà SMSC phía xa. Mười phút. Nhà kho của Peter Solomon chứa hơn 30 triệu báu vật, nhưng đêm nay, Mal’akh đến đây để phá huỷ hai thứ giá trị nhất mà thôi.

Tất cả những nghiên cứu của Katherine Solomon.

Và chính Katherine Solomon.

--- ------ ------ ------ -------

1 Ping là một tiện ích đi kèm trong UNIX, Intemet và các hệ thống mạng TCP, IP. Ping tương đương với một tiếng la trong hẻm núi và lắng nghe tiếng vọng lại của nó. Ta "ping" một máy chủ khác trên hệ thống mạng để xem máy chủ đó có thể tiến đến được từ máy chủ của ta hay không. Câu lệnh có dạng ping ip address, trong đó ip address là địa chỉ IP của máy chủ mà bạn muốn liên lạc Ping sử dụng giao thức ICMP (Intemet Control Message Protocol: Giao thức điều khiển thông báo trên Intemet) để giải quyết công việc của nó. Nói một cách cụ thể, nó gửi đi một thông báo kiểu tiếng vang ICMP đến máy chủ được chỉ định - ND.

2 Whois là một giao thức giúp người dùng truy vấn thông tin về domain và IP thông qua cơ sở dữ liệu của các Whois server. Có 2 loại: Whois Domain và Whois IP. Whois Domain cho phép lấy thông tin khách hàng đăng ký từ cơ sở dữ liệu Whois của nhà đăng ký tên miền, còn Whois IP cho phép lấy thông tin về địa điểm (nhà cung cấp dịch vụ Internet, quốc gia) của máy chủ - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 26

- Giáo sư Langdon ư? - Sato gọi - ông nhìn thấy ma đấy à? Ông không sao chứ?

Langdon xốc chiếc túi xách lên vai và đặt bàn tay của mình lên nó, tưởng như hành động này ít nhiều giúp anh giấu kỹ hơn cái gói hình khối hộp bên trong. Anh cảm nhận được mặt mình xám ngoét.

- Tôi… chỉ thấy lo cho Peter.

Sato nghếch mặt, liếc xéo anh.

Langdon đột nhiên cảnh giác, sự can thiệp của Sato tối nay rất có thể liên quan đến cái gói nhỏ mà Solomon tin tưởng giao cho anh.

Peter đã cảnh báo: Những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó. Thứ bùa này sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác. Langdon không lý giải nổi tại sao CIA lại cần một chiếc hộp nhỏ chứa bùa phép… hoặc cái gì tương tự bùa phép. Ordo ab chao chăng?

Sato bước lại gần hơn, đôi mắt đen đầy soi mói.

- Tôi cảm thấy ông đã phát hiện ra gì đó thì phải?

Langdon toát mồ hôi.

- Không, không hẳn.

- Ông đang toan tính gì vậy?

- Tôi chỉ… - Langdon ngập ngừng, chẳng biết nên nói thế nào.

Anh không có ý định tiết lộ về sự tồn tại của cái gói nằm trong túi mình, nhưng nếu Sato dẫn anh tới CIA thì chắc chắn cái túi sẽ bị khám xét - Thực ra… - anh bịa chuyện - tôi có một ý tưởng khác về những con số trên bàn tay Peter.

Sato không biểu lộ gì.

- Sao nào? - Bà ta liếc Anderson, lúc đó vừa quay lại sau khi đón nhóm pháp y mới tới.

Langdon nuốt khan và cúi rạp xuống bên bàn tay, băn khoăn không biết nên nói gì với họ bây giờ. Mày là một giáo viên cơ mà? Robert, ứng biến đi. Anh quan sát kỹ lần cuối bảy biểu tượng nhỏ xíu, hy vọng gợi ra được chút liên tưởng nào đó.

Chẳng ích gì. Trống rỗng.

Langdon dùng khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh duyệt lại các bộ bách khoa thư về biểu tượng trong óc mình, nhưng chỉ tìm được một điểm khả dĩ bấu víu. Nó xuất hiện với anh ngay từ đầu, nhưng xem chừng không thuyết phục lắm. Tuy nhiên, lúc này không còn nhiều thời gian cân nhắc nữa.

- Chà, - anh bắt đầu nói - dấu hiệu đầu tiên khiến một nhà ký tượng học biết rằng mình đang đi sai hướng khi giải đoán các biểu tượng và mật mã là diễn giải các biểu tượng bằng cách sứ dụng nhiều ngôn ngữ tượng hình. Chẳng hạn, khi tôi nói với quý vị câu này là của La Ma và A rập thì đó là một phân tích kém bởi vì tôi sử dụng nhiều hệ thống biểu tượng. Với chữ La Mã và chữ rung cũng y như vậy.

Sato khoanh tay và nhướng mày như muốn nói "Tiếp đi xem nào!"

- Nhìn chung, giao tiếp được thực hiện bằng một ngôn ngữ, không phải nhiều ngôn ngữ, vì thế trước bất kỳ văn bản nào, công việc đầu tiên của nhà ký tượng học là phải tìm một và chỉ một hệ thống biểu tượng nhất quán áp dụng cho toàn bộ văn bản đó.

- Giờ ông đã thấy một hệ thống duy nhất?

- Chà, vâng… à không - Kinh nghiệm về sự đăng đối của các biểu tượng hai chiều đối xứng đã dạy cho Langdon biết rằng đôi khi các biểu tượng có ý nghĩa nếu nhìn từ nhiều góc độ. Trong trường hợp này, anh nhận ra trên thực tế có một cách để quan sát cả bảy biểu tượng bằng một ngôn ngữ duy nhất - Nếu chúng ta thay đổi bàn tay một chút, ngôn ngữ sẽ trở nên nhất quán.

Lạ thay, thao tác Langdon sắp thực hiện dường như giống hệt với điều mà kẻ bắt giữ Peter gợi ý lúc gã nói ra câu ngạn ngữ Hermetic cổ xưa. Thương hạ tương liên.

Langdon rùng cả mình khi nhoài người lên, vớ lấy cái đế gỗ cắm bàn tay Peter. Nhẹ nhàng. anh xoay ngược cái đế để cho các ngón tay duỗi trỏ thẳng xuống phía dưới. Những biểu tượng trong lòng bàn tay lập tức thay đổi:

- Nhìn từ góc độ này, - Langdon nói - X-I-I-I trở thành một số La Mã có giá trị: số 13. Đồng thời, có thể diễn giải các ký tự còn lại bằng cách sử dụng bảng chữ cái La Mã: SBB - Langdon cho rằng phân tích của mình sẽ chỉ dẫn tới những cái nhún vai hời hợt, nhưng nét mặt Anderson lập tức thay đổi.

- SBB à? - viên Chỉ huy kêu lên.

Sato quay phắt về phía Anderson.

- Nếu tôi không nhầm thì nó khá giống một hệ thống đánh số quen thuộc trong Điện Capitol này.

Anderson tái mặt.

- Đúng thế.

Sato nở một nụ cười thâm hiểm và gật đầu với Anderson.

- Chỉ huy, theo tôi nào. Tôi muốn nói vài lời riêng với anh.

Khi Giám đốc Sato dẫn Chỉ huy Anderson ra khỏi tầm nghe, Langdon còn lại một mình ngơ ngác. Chuyện quái gì đang diễn ra đây vậy?

° ° °

Chỉ huy Anderson băn khoăn không hiểu tại sao tình hình tối hôm nay lại diễn biến kỳ lạ đến thế. Bàn tay nói tới SBB13 ư? Anh ta rất ngạc nhiên vì có kẻ ngoại đạo lại nghe nói tới SBB… thậm chí rành rẽ là SBB13. Ngón tay trỏ của Peter Solomon không muốn bảo họ lên trên như lúc đầu… mà chỉ theo một hướng hoàn toàn ngược lại.

Giám đốc Sato dẫn Anderson tới một khu vực yên tĩnh gần bức tượng đồng của Thomas Jefferson.

- Chỉ huy, - bà ta hỏi - tôi tin anh biết chính xác SBB13 nằm ở chỗ nào phải không?

- Dĩ nhiên rồi.

- Anh có biết bên trong là gì không?

- Không, không thể biết nếu không xem. Tôi nghĩ nó dừng hoạt động mấy thập kỷ nay rồi.

- Chà, anh sẽ mở nó nhé!

Anderson rất khó chịu vì bị sai khiến ngay trong toà nhà do mình quản lý.

- Thưa bà, như thế rất dễ có vấn đề. Tôi sẽ phải kiểm tra bảng phân công nhiệm vụ trước đã. Bà biết đấy, hầu hết các tầng phía dưới đều là văn phòng riêng hoặc nhà kho, và quy trình an ninh rất coi trọng sự riêng tư…

- Anh sẽ mở SBB13 cho tôi, - Sato nói - hoặc tôi sẽ gọi OS và cử một đội mang theo máy phá tường tới đấy.

Anderson trợn mắt nhìn Sato một lúc lâu rồi rút bộ đàm ra, đưa lên miệng.

Anderson đây. Tôi cần ai đó mở SBB. Trong vòng năm phút nữa, cho người tới gặp tôi tại đó nhé.

Giọng trả lời nghe có vẻ lúng túng.

- Chỉ huy, xin xác nhận là anh vừa nói SBB phải không?

- Đúng. SBB. Cử ai đó tới ngay lập tức, và tôi cần đèn pin - Anderson tắt bộ đàm. Tim anh ta đập rộn lên khi Sato bước lại gần, hạ giọng thấp hơn nữa.

- Chỉ huy, thời gian rất gấp - bà ta thì thào - và tôi muốn anh đưa chúng tôi xuống SBB13 càng nhanh càng tốt.

- Vâng, thưa bà.

- Tôi cũng cần anh giúp một việc khác nữa.

Mở cửa và xông vào vẫn còn chưa đủ ư? Anderson đang ở tình thế không phản đối được, nhưng vẫn không quên chú ý rằng Sato đến nơi chỉ vài phút sau khi bàn tay của Peter xuất hiện trong Nhà tròn, và giờ đây bà ta đang tận dụng tình huống này để đòi xâm nhập khu vực riêng của Điện Capitol. Dường như tối nay bà ta đã đi quá giới hạn cho phép.

Sato ra hiệu về phía vị Giáo sư.

- Cái túi da trên vai Langdon.

Anderson liếc mắt nhìn.

- Sao cơ?

- Tôi cho rằng người của anh đã soi cái túi đó khi Langdon vào toà nhà này?

- Dĩ nhiên. Tất cả các túi đều được soi kỹ.

- Tôi muốn xem bản soi đó. Tôi muốn biết trong túi có cái gì.

Anderson nhìn chiếc túi mà Langdon đeo khư khư suốt buổi tối.

- Nhưng… hỏi thẳng ông ta thì không đơn giản hơn à?

- Yêu cầu của tôi có gì không rõ chăng?

Anderson lại rút bộ đàm ra và thông báo đề nghị của Sato. Sato cho biết địa chỉ Blackberry và yêu cầu người của anh ta gửi cho mình một bản X quang số hoá qua email ngay khi họ tìm được nó.

Anderson miễn cưỡng nghe theo.

Lúc này nhóm pháp y đang định thu lấy bàn tay để chuyển cho Cảnh sát Điện Capitol, nhưng Sato ra lệnh cho họ gửi thẳng tới đơn vị của bà ta ở Langley. Anderson quá mệt mỏi nên chẳng buồn phản đối. Anh ta đã bị cỗ xe lu Nhật Bản nhỏ xíu ấy nghiến dẹp lép rồi.

- Tôi muốn cả cái nhẫn đó nữa - Sato gọi với theo nhóm pháp y.

Kỹ thuật viên trưởng toan tranh cãi, nhưng nghĩ lại chẳng nên. Anh ta tháo cái nhẫn vàng khỏi tay Peter, đặt nó vào một túi lấy mẫu sạch sẽ và đưa cho Sato. Bà ta đút tọt nó vào túi áo khoác rồi quay về phía Langdon.

- Chúng ta đi chứ, Giáo sư. Mang theo đồ đạc của ông.

- Chúng ta đi đâu? Langdon hỏi lại.

- Cứ theo ông Anderson thôi.

Ờ, Anderson nghĩ, và theo sát tôi đấy! SBB là khu vực rất ít người ghé thăm trong Điện Capitol. Để tới đó, họ sẽ phải qua một mê cung toàn những căn buồng bé xíu và những lối đi hẹp nằm ngay bên dưới tầng hầm. Cậu con trai út của Abraham Lincoln bị lạc dưới đó và suýt bỏ mạng. Anderson bắt đầu ngờ rằng nếu Sato có ý đồ gì thì chắc Robert Langdon sẽ chịu số phận tương tự.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 27

Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis luôn tự hào rằng mình có khả năng làm nhiều công việc: Lúc này, anh ta đang ngồi trên ghế phô-tơi với một chiếc điều khiển TV, một điện thoại không dây, một máy tính xách tay, một máy PDA, và một bát Pirate’s Booty 1 to tướng. Một mắt thì để ý trận đấu của đội Redskins đã tạm tắt tiếng còn một mắt để vào chiếc máy tính, Zoubianis đang nói chuyện qua tai nghe Bluetooth với một phụ nữ đã bặt tin tức hơn một năm nay.

- Thế quái nào mà Trish Dunne lại gọi tới vào đúng buổi tối có trận đấu quyết định thế này chứ? Lại một lần nữa thể hiện sự vô lý của mình, người đồng nghiệp cũ đã chọn đúng trận đấu của đội Redskins làm thời điểm để chuyện phiếm với Zoubianis và nhờ giúp một việc. Sau một hồi chuyện trò qua loa về những ngày trước kia và nói rằng cô nhớ những lời bông đùa tuyệt vời của anh ta, Trish đi thẳng vào vấn đề chính: cô đang tìm cách xác định một địa chỉ IP ẩn, có lẽ đó là một máy chủ bảo mật thuộc khu vực Washington D.C. Máy chủ này có một văn bản nhỏ và cô muốn truy cập vào nó… hoặc ít ra thì cũng khai thác thông tin xem tài liệu thuộc về ai.

Đúng người nhưng không đúng lúc, Zoubianis bảo cô. Thế là Trish tuôn ra tràng giang đại hải những lời tán tụng, hầu hết đều là sự thật, và Zoubianis chẳng biết mình gõ một địa chỉ IP rất lạ vào máy tính tự lúc nào.

Zoubianis nhìn con số và nhận ra ngay rằng công việc không dễ dàng gì.

- Trish. IP này có định dạng hiện đại lắm. Nó được viết theo một giao thức thậm chí còn chưa trình ra công chúng. Có lẽ nó thuộc giới quân sự hoặc tình báo chính phủ.

- Quân sự à? - Trish cười - Tin em đi, em vừa lôi một tài liệu soạn lại từ máy chủ này mà, và nó không phải của quân đội.

Zoubianis kéo cửa sổ gốc của mình lên và thử truy dấu.

- Em bảo rằng truy dấu của em bị tắc à?

- Vâng. Hai lần. Cùng một bước truyền.

- Của anh cũng thế - Anh ta kéo một trình dò tìm chẩn đoán và chạy thử - Thế IP này có gì hay ho vậy?

- Em chạy một trình uỷ thác sử dụng cơ chế tìm kiếm ở IP này và thu được một tài liệu đã lọc. Em cần xem nội dung còn lại của lài liệu.

- Em sẵn sàng trả tiền, nhưng em không tài nào xác định được ai là người sở hữu IP hay làm cách nào truy cập được nó.

Zoubianis cau mày nhìn màn hình.

- Em có chắc không đấy? Anh đang chạy một trình chẩn đoán, và mã tường lửa trông… rất thâm nghiêm.

- Thế anh mới được trả nhiều tiền.

Zoubianis ngẫm nghĩ. Họ trả cho anh ta cả đống tiền để làm một việc dễ dàng.

- Hỏi một câu thôi, Trish. Tại sao em quan tâm đến vụ này thế?

Trish do dự.

- Em làm giúp một người bạn.

- Chắc phải là bạn rất đặc biệt.

- Vâng.

Zoubianis cười khan nhưng không nói gì. Tôi biết tỏng mà.

- Thế nào, - Trish lên tiếng, vẻ nôn nóng - Anh đủ khả năng xác định IP này chứ? Phải không?

- Có, anh đủ khả năng, và ờ, anh biết em đang định quay anh như quay dế đây.

- Anh sẽ mất bao lâu?

- Không lâu đâu! - Zoubianis đáp, tay vẫn gõ bàn phím - Anh có thể thâm nhập vào máy trên hệ thống của họ trong vòng mười phút. Khi nào vào được và tìm thấy gì, anh sẽ gọi lại cho em.

- Em rất cảm ơn. Thế anh vẫn ổn chứ?

Giờ cô nàng mới thèm hỏi?

- Trish, Chúa ơi, em gọi cho anh đúng buổi tối có một trận đấu quan trọng và giờ em muốn chuyện phiếm à? Thế em muốn anh thâm nhập IP này hay không đây?

- Cảm ơn anh, Mark. Em sẽ đợi anh gọi lại.

- Mười lăm phút nữa - Zoubianis gác máy, vớ lấy bát Pirate’s Booty và bật tiếng trận đấu bóng lên.

Ôi phụ nữ!

--- ------ ------ ------ -------

1 Pirate’s Booty là đồ ăn nhanh do công ty Robert’s American Gourmet Food sản xuất. Loại đồ ăn này chủ yếu làm từ nguyên liệu tự nhiên và pho mát thật - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 28

Bọn họ đưa mình đi đâu không biết

Vội vã theo Anderson và Sato đi sâu vào lòng Điện Capitol, Langdon cảm thấy nhịp tim mình tăng lên theo mỗi bước chân. Họ bắt đầu hành trình qua cổng tây Nhà tròn, men xuống một cầu thang bằng đá cẩm thạch và sau đó quay ngược lại qua một ô cửa rộng để vào căn buồng nổi tiếng ngay bên dưới nền Nhà tròn.

Nhà hầm điện Capitol.

Không khí ở đây khá ngột ngạt, Langdon bắt đầu cảm thấy nỗi sợ bị mắc kẹt. Trần nhà rất thấp. ánh sáng yếu ớt toả xuống làm nổi bật bốn mươi cây cột Doric đồ sộ đỡ phần nền bằng đá rất rộng ngay phía trên đầu. Thư giãn nào Robert.

- Lối này, - Anderson lên tiếng, rảo chân ngoặt sang trái, băng qua khoảng không gian hình tròn rất rộng.

Rất may, tầng hầm đặc biệt này không có cái xác nào cả. Thay vào đó nó chỉ có vài bức tượng, một mô hình Điện Capitol, và một khu lưu trữ thấp tè cất cái bục linh cữu bằng gỗ để đặt quan tài trong các buổi tang lễ cấp nhà nước. Bọn họ hấp tấp đi qua, thậm chí không đưa mắt liếc cái la bàn cẩm thạch bốn điểm ở chính giữa nền nhà, nơi Ngọn lửa Vĩnh cửu từng cháy sáng.

Anderson dường như rất vội vã. Sato lại một lần nữa chúi đầu vào chiếc Blackberry. Langdon nghe nói dịch vụ điện thoại di động được phát triển và phổ biến khắp mọi góc của Điện Capitol để phục vụ hàng trăm cuộc gọi của chính phủ diễn ra ở đây hằng ngày.

Sau khi băng chéo qua tầng hầm, cả nhóm bước vào một phòng nghỉ sáng lờ mờ và bắt đầu đi ngoắt ngoéo qua một loạt hành lang và ngõ cụt rối tinh rối mù. Cái mê cung này có nhiều ô cửa đánh số, mỗi cửa đều mang một con số xác định. Langdon đọc các cửa trong khi đi lòng vòng theo hai người kia.

S154… S153… S152…

Anh không biết những gì đang nằm sau các cánh cửa kia, nhưng chí ít đã có một việc trở nên sáng tỏ, đó là ý nghĩa của hình xăm trên lòng bàn tay Peter Solomon. SBB13 có vẻ như là một ô cửa được đánh số ở đâu đó dưới tận cùng Điện Capitol.

- Những cánh cửa này để làm gì vậy? - Langdon hỏi, tay ép chặt túi xách vào sườn và băn khoăn tự hỏi cái gói nhỏ của Solomon liệu có tác dụng gì với cánh cửa đánh số SBB13 không.

- Văn phòng và nhà kho, - Anderson nói - Văn phòng riêng và nhà kho - anh ta bổ sung, liếc nhìn Sato.

Giám đốc OS thậm chí không rời mắt khỏi cái Blackberry của mình.

- Trông chúng nhỏ xíu. - Langdon nhận xét.

Hầu hết những căn buồng này chỉ để làm cảnh, nhưng chúng vẫn là nhóm bất động sản được săn lùng nhất ở Thủ đô. Đây là trung tâm của Điện Capitol thời kỳ đầu, Phòng họp Thượng viện cũ ở trên chúng ta hai tầng.

- Thế còn SBB13? - Langdon hỏi - Đó là văn phòng của ai?

- Chẳng của ai. SBB là khu nhà kho riêng, và tôi phải nói trước rằng tôi thắc mắc không biết…

- Chỉ huy Anderson, - Sato ngắt lời mà không hề rời mắt khỏi chiếc Blackberry - Chỉ cần đưa chúng tôi tới đó thôi.

Anderson nghiến chặt răng và im lặng dẫn họ đi qua một khu pha lẫn giữa nhà kho với mê cung. Trên phần lớn các bức tường, những tấm biển chỉ dẫn đều chỉ về cả hai phía trước và sau, rõ ràng là cố gắng định vị các khu văn phòng cụ thể trong mạng lưới hành lang nhằng nhịt này.

S142 tới S152…

ST1 tới ST70…

H1 tới H166 và HT1 tới HT67…

Langdon không chắc có thể tìm được đường ra khỏi đây một mình. Nơi này đúng là một mê cung. Từ tất cả những gì thu thập được, anh nhận ra số hiệu văn phòng bắt đầu bằng chữ S hay H là tuỳ thuộc vào việc chúng nằm ở khu vực Thượng hay Hạ viện.

Những nơi có ghi ST và HT rõ ràng là một cấp mà Anderson gọi là Cấp Bậc thang.

Vẫn chưa thấy biển đề SBB.

Cuối cùng họ cũng tới một cánh cửa bằng thép nặng nề gắn ổ khoá bằng thẻ từ.

TẦNG SB

Langdon cảm thấy họ đang tiến gần đến đích.

Anderson định lấy thẻ của mình nhưng rồi lại ngập ngừng, cảm thấy không thoải mái với yêu cầu của Sato.

- Chỉ huy, - Giám đốc OS giục - Chúng ta không có cả đêm đâu.

Anderson miễn cưỡng nhét thẻ vào. Cánh cửa thép bật mở. Anh ta đẩy hẳn nó ra, cả bọn bước qua và tiến vào một tiền sảnh. Cánh cửa nặng nề đóng lại sau lưng họ.

Langdon không rõ mình hy vọng nhìn thấy gì ở tiền sảnh này, nhưng chắc chắn nó hoàn toàn khác với khung cảnh đang hiện ra trước mắt. Anh nhìn đăm đăm vào chiếc cầu thang dẫn xuống dưới.

- Lại xuống tiếp à? - anh thốt lên, rồi ngừng lại một lúc - Còn tầng nào bên dưới tầng hầm cơ à?

- Phải, - Anderson xác nhận - SB là viết tắt của "Hầm Thượng viện".

Langdon rên lên. Thật kinh khủng.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 29

Một tiếng đồng hồ trôi qua, mới lại có ánh đèn pha rọi lên đoạn đường gom nhiều cây cối dẫn vào SMSC. Vì nhiệm vụ, người bảo vệ vặn nhỏ tiếng chiếc ti vi xách tay của mình và giấu suất ăn nhanh xuống phía dưới quầy. Chẳng đúng lúc chút nào. Đội Redskins đang kết thúc pha nỗ lực mở màn của mình, mà anh thì không muốn bỏ lỡ nó.

Khi chiếc xe hơi lại gần hơn, người bảo vệ kiểm tra tên họ ghi trong sổ trực đặt trước mặt.

Bác sĩ Christopher Abaddon.

Katherine Solomon vừa gọi để báo cho bộ phận An ninh biết khách của mình sắp tới. Người bảo vệ không biết vị bác sĩ này là ai, nhưng rõ ràng phải là một bác sĩ rất ngon lành, vì ông ta đến bằng chiếc Limousine dài màu đen. Cỗ xe sang trọng dài ngoằng dừng lại bên cạnh phòng bảo vệ, và người lái xe hạ kính cửa sổ xuống êm ru.

- Chào anh, - gã lái xe lên tiếng, đưa tay lột mũ. Anh ta có vóc dáng vạm vỡ, đầu cạo trọc lốc, cũng đang nghe trận đấu bóng trên đài - Tôi đưa bác sĩ Christopher Abaddon tới gặp bà Katherine Solomon.

Người bảo vệ gật đầu.

- Xin cho xem giấy tờ tuỳ thân.

Gã lái xe tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Xin lỗi, bà Solomon chưa gọi trước sao?

Người bảo vệ gật đầu, lén liếc nhìn màn hình ti vi.

- Tôi vẫn phải quét và ghi lại dữ liệu của khách khứa. Rất xin lỗi, quy định mà. Tôi cần xem giấy tờ tuỳ thân của bác sĩ.

- Không sao - Gã lái xe quay về phía sau ghế ngồi của anh ta và nói bằng giọng khẽ khàng qua tấm vách ngăn cách. Trong khi đó, người bảo vệ lại lén theo dõi trận đấu. Đội Redskins giờ đã ổn định được thế trận, nên người bảo vệ chỉ mong làm xong thủ tục cho chiếc Limousine này trước khi bước vào ván mới.

Gã lái xe lại quay lên và chìa ra tấm thẻ mà rõ ràng anh ta vừa nhận lấy qua tấm vách ngăn.

Người bảo vệ cầm thẻ và nhanh chóng quét qua hệ thống của mình. Tấm bằng lái xe đăng ký ở Washington D.C., chủ nhân là Christopher Abaddon sống ở khu Kalorama Heights. Tấm ảnh cho thấy một quý ông tóc vàng điển trai mặc áo cộc tay màu xanh dương, đeo cà vạt, miệng túi cài chiếc khăn mùi xoa bằng sa tanh. Sao lại có người đeo khăn mùi xoa bỏ túi tới Bộ Phương tiện Cơ giới chứ?

Tiếng reo hò nổi lên từ ti vi, người bảo vệ ngoái lại vừa kịp lúc nhìn thấy một cầu thủ áo đỏ nhảy múa ở khu vực cuối sân, ngón tay anh ta chỉ lên trời.

- Mình bỏ lỡ rồi, - người bảo vệ rên rỉ, quay ra phía cửa sổ.

- Được - anh nói, trả thẻ cho gã lái xe - Các vị xong xuôi rồi.

Chiếc Limousine lăn bánh qua, người bảo vệ quay về với cái ti vi của mình, hy vọng sẽ được xem cảnh chiếu lại.

° ° °

Mal’akh lái chiếc Limousine chạy theo lối đi ngoằn ngoèo mà không thể nhịn được cười. Bảo tàng bí mật của Peter thật rất dễ đột nhập. Tuyệt hơn nữa, tối nay là lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ qua Mal’akh lọt được vào một trong những khu vực kín đáo của Solomon. Đêm qua, gã đã thực hiện một cuộc viếng thăm tương tự tới tư gia ông ta.

Mặc dù có một điền trang rất lớn ở Potomac, nhưng phần lớn thời gian Peter Solomon ngụ tại thành phố, trong căn hộ áp mái của mình ở Dorchester Arms. Toà nhà ông ở, cũng như hầu hết mọi khu nhà dành cho các đại gia, là một pháo đài thực sự. Tường rất cao. Cổng có bảo vệ. Khách khứa ra vào phải đăng ký. Bãi đỗ xe ngầm có bảo đảm an ninh.

Mal’akh đã lái chiếc Limousine này tới phòng bảo vệ của toà nhà, bỏ chiếc mũ khỏi cái đầu trọc lốc, và nói rành rẽ.

- Tôi chở bác sĩ Christopher Abaddon. Ông ấy là khách mời của ngài Peter Solomon - Mal’akh nói năng cứ như thể gã đang tuyên bố mình là Công tước xứ York vậy.

Người bảo vệ kiểm tra sổ ghi chép, rồi xem căn cước của Abaddon.

- Vâng, tôi biết ngài Solomon đang đợi bác sĩ Abaddon - Anh ta ấn nút và cánh cổng mở ra - Ngài Solomon ở căn hộ tầng áp mái. Mời khách của anh dùng thang máy cuối cùng bên phải. Nó chạy thẳng lên tận nơi.

- Cảm ơn anh - Mal’akh đội mũ lên và lái xe qua.

Khi vòng xe vào sâu ga ra, gã dõi tìm các máy quay an ninh. Chẳng có gì. Rõ ràng, những người sống ở đây không phải hạng đột nhập xe hơi người khác, cũng không ưa việc bị theo dõi rình mò.

Mal’akh đậu xe vào một góc tối gần thang máy, hạ vách ngăn giữa khoang lái và khoang khách, rồi trườn ra phía sau chiếc Limousine.

Khi đã yên vị, gã lột chiếc mũ lái xe của mình và đội mớ tóc giả lên.

Chỉnh chang lại áo vét và cà vạt, gã kiểm tra qua gương soi để chắc chắn rằng lớp hoá trang vẫn nguyên vẹn. Gã không được phép mạo hiểm, nhất là tối nay.

Ta đã chờ đợi việc này quá lâu rồi.

Vài giây sau, Mal’akh bước vào thang máy riêng. Thang chạy êm ru lên tận tầng trên cùng. Khi cửa mở ra, gã thấy mình ở trong một phòng chờ rất trang nhã. Vị chủ nhà của gã đã đợi sẵn.

- Bác sĩ Abaddon, xin chào.

Mal’akh nhìn vào đôi mắt xám nổi tiếng của người đàn ông và cảm thấy tim mình đập mạnh.

- Ông Solomon, tôi rất biết ơn vì ông đã dành thời gian gặp tôi.

- Kìa, xin cứ gọi tôi là Peter.

Hai người bắt tay. Khi nắm lấy bàn tay người đàn ông lớn tuổi, Mal’akh nhìn thấy chiếc nhẫn vàng Tam điểm… trên chính bàn tay đã từng cầm súng chĩa vào gã. Một giọng nói thì thầm vọng về từ dĩ vãng xa xăm. Nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Mời vào, - Solomon nói, dẫn Mal’akh tới một phòng khách lịch sự có những ô cửa sổ rộng nhìn ra quang cảnh tuyệt đẹp của Washington D.C.

- Tôi ngửi thấy mùi trà thì phải? - Mal’akh hỏi khi bước vào.

Solomon có vẻ rất ấn tượng.

- Cha mẹ tôi luôn tiếp khách bằng trà. Tôi cũng tiếp nối truyền thống đó - ông đưa Mal’akh vào phòng khách, bữa tiệc trà đang đợi trước lò sưởi - Kem hay đường nào?

- Đen thôi, xin cảm ơn.

Lại một lần nữa Solomon tỏ ra ấn tượng.

- Rất thanh đạm - ông rót cho cả hai mỗi người một tách trà đen - Anh nói cần thảo luận với tôi một chuyện rất nhạy cảm và chỉ có thể thảo luận riêng mà thôi.

- Cảm ơn. Tôi rất biết ơn ông đã dành thời gian.

- Anh và tôi giờ là huynh đệ trong Hội Tam điểm, người một nhà với nhau rồi. Hãy cho biết tôi giúp gì được anh.

- Trước hết, tôi muốn cảm ơn ông về vinh dự nhận cấp bậc 33 vài tháng trước. Điều này vô cùng có ý nghĩa với tôi.

- Tôi rất vui, nhưng xin nhớ những quyết định đó không phải của riêng tôi. Do Hội đồng Tối cao bầu mà.

- Dĩ nhiên rồi - Mal’akh tin chắc Peter Solomon có thể đã bỏ phiếu phủ quyết, nhưng trong Hội Tam điểm, cũng như ở tất cả những nơi khác, tiền là sức mạnh. Sau khi đạt được cấp độ 32 tại chi hội của mình, Mal’akh chỉ đợi có một tháng rồi quyên góp một khoản tiền trị giá hàng triệu đô la cho quỹ từ thiện đứng tên Đại Tổng Hội Tam điểm. Hành động tự nguyện hết sức hào phóng này, như Mal’akh tiên liệu, đủ mạnh để giúp gã nhanh chóng được mời vào đẳng cấp 33 tinh tuý. Nhưng ta vẫn chưa được biết về các bí mật.

° ° °

Mặc dù lâu nay người ta cứ xì xầm rằng "Tất cả sẽ được tiết lộ ở cấp 33", nhưng Mal’akh không khai thác nổi điều gì mới mẻ hay hợp với mục đích tìm kiếm của mình. Tuy vậy, gã cũng chẳng mong sẽ được nghe người ta chia sẻ bí mật. Nội bộ Hội Tam điểm càng vào sâu càng thu hẹp… hẹp đến mức dẫu vài năm nữa Mal’akh cũng chưa chắc được đặt chân vào. Nhưng gã chẳng cần. Việc nhập môn chỉ để phục vụ mục đích này. Có gì đó rất hiếm gặp đã xảy ra ngay trong Phòng Thánh lễ, và nó đã đem lại cho Mal’akh quyền năng vượt trên tất cả. Ta khéo còn phải chơi theo quy định của các người nữa.

- Ông có nhận ra rằng chúng ta đã từng gặp nhau nhiều năm về trước không? - Mal’akh nói và nhấp một ngụp trà.

Solomon lộ vẻ ngạc nhiên.

- Thật sao? Tôi không nhớ.

- Cũng đã lâu lắm rồi - Và Christopher Abaddon không phải tên thật của tôi.

- Xin lỗi. Đầu óc tôi đang già đi từng ngày. Xin nhắc lại xem tôi quen anh như thế nào nhỉ?

Mal’akh mỉm cười lần cuối với người đàn ông gã căm ghét hơn bất kỳ ai khác trên cõi đời này.

- Thật tiếc là ông không còn nhớ.

Bằng một động tác thuần thục, Mal’akh rút từ trong túi một thiết bị nhỏ xíu, giơ ra và phóng mạnh nó tới ngực ông già. Một tia chớp xanh lè nhá sáng, khẩu súng gây choáng kêu xèo xèo sắc lạnh, và một cơn đau buốt trùm lên Peter Solomon khi hàng triệu volt điện chạy qua người ông. Mắt mở lớn. Ông già gục xuống ghế, bất động. Bấy giờ Mal’akh đứng dậy, cúi nhìn người đàn ông, vẻ thèm khát như một con sư tử sắp ăn thịt con mồi bị thương của nó.

Solomon há hốc miệng, cố thở.

Mal’akh nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt nạn nhân của gã và tự hỏi có bao nhiêu người từng được chứng kiến ngài Peter Solomon vĩ đại rúm ró thế này. Mal’akh tận hưởng cảnh tượng vài giây. Gã nhấp một ngụm trà, đợi cho ông già thở trở lại.

Solomon quằn quại, cố nói.

- Tạ… tại sao? - cuối cùng ông cũng bật ra thành tiếng.

- Vậy ông nghĩ sao? - Mal’akh hỏi lại.

Solomon thực sự ngơ ngác.

- Anh muốn… tiền ư?

Tiền à? Mal’akh cười phá lên và nhấp một ngụm trà nữa.

- Tôi đã tặng cho Hội Tam điểm hàng triệu đô la, tôi đâu có cần tiền - Tôi đến để lầy tri thức, và thứ đó làm cho tôi giàu có.

- Vậy thì… anh muốn gì?

- Ông nắm giữ một bí mật. Ông sẽ cho tôi biết điều đó tối nay.

Solomon cố nhấc đầu lên để có thể nhìn vào mắt Mal’akh.

- Tôi không… hiểu.

- Đừng dối trá nữa! - Mal’akh gào lớn, tiến sát lại ông già đã bị tê liệt. - Tôi biết có một thứ đang được cất giấu ở Washington này.

Đôi mắt xám của Solomon tỏ ra thách thức.

- Tôi không hiểu anh đang nói về chuyện gì!

Mal’akh nhấp một ngụm trà nữa và bỏ cái chén vào khay.

- Ông đã nói câu này với tôi mười năm về trước, vào đúng cái đêm mẹ ông chết.

Đôi mắt Solomon mở to.

- Mày…?

- Lẽ ra bà ấy đã không chết. Nếu ông đưa cho tôi thứ mà tôi muốn…

Gương mặt ông già nhăn nhúm vì đau đớn… và không sao tin nổi.

- Tôi đã cảnh cáo ông, - Mal’akh nói - nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Nhưng mày…

Mal’akh lao bổ tới, một lần nữa dí thật mạnh khẩu súng điện vào ngực Solomon. Lại một tia lửa xanh lè nhá lên, và Solomon hoàn toàn tê liệt.

Mal’akh bỏ khẩu súng điện vào túi và thản nhiên uống nốt ly trà. Uống xong, gã lau miệng bằng chiếc khăn tay vải lanh thêu chữ lồng và cúi nhìn nạn nhân của mình.

- Chúng ta đi nào!

Cơ thể Solomon bất động, nhưng mắt ông vẫn mở to.

Mal’akh cúi xuống và thì thầm vào tai ông già.

- Tôi sẽ đưa ông tới một nơi chỉ có sự thật mà thôi.

Không nói thêm lời nào. Mal’akh nhét chiếc khăn tay vào miệng Solomon. Sau đó, gã xốc ông già bất động lên đôi vai vạm vỡ của mình và tiến ra phía thang máy. Trên đường đi ra, gã nhặt lấy chiếc iPhone cùng chìa khoá của Solomon để trên bàn.

Tối nay, ông sẽ cho tôi biết tất cả những bí mật của ông

Mal’akh nghĩ thầm. Kể cả lý do tại sao ông để mặc tôi chết nhiều năm về trước.
 

hoahongden12

Active Member

Tầng SB.

Tầng hầm Thượng viện.

Càng đi sâu xuống, Robert Langdon càng thấy tâm lý trĩu nặng nỗi sợ không gian hẹp. Khi họ tiến vào phần nền móng nguyên thuỷ của toà nhà, không khí trớ nên đặc quánh, tựa hồ không có hệ thống thông gió. Các bức tường ở đây được xây lẫn lộn bằng đá và gạch màu vàng.

Giám đốc Sato vẫn bấm phím chiếc Blackberry suốt dọc đường đi Langdon cảm thấy đằng sau điệu bộ thận trọng kia, bà ta đang nghi ngờ điều gì đó, nhưng chính anh cũng thấy ngờ vực về bà ta.

Sato vẫn không nói cho Langdon biết bằng cách nào bà ta hay tin anh có mặt ở đây tối nay. Vấn đề an ninh quốc gia ư? Có thời anh đã phải rất nhọc nhằn mới hiểu được mối quan hệ giữa chủ nghĩa thần bí cổ đại và vấn đề an ninh quốc gia. Lại một lần nữa, anh thấy khó khăn trong việc tìm hiểu những điều liên quan đến tình huống này.

Peter Solomon tin tưởng gửi gắm mình một lá bùa… một thằng điên dối trá đã lừa mình mang nó tới Điện Capitol và muốn mình dùng nó để mở một cánh cổng bí mật… có lẽ nằm ở trong một căn phòng gọi là SBB13.

Mọi việc không được rõ ràng lắm.

Vừa theo hai người kia hối hả bước đi, Langdon vừa cố gắng gạt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh hãi hùng về bàn tay có hình xăm bị biến cải thành Mật Thủ của Peter. Hình ảnh kinh khủng ấy đi kèm với tiếng ông nói: Những bí ẩn cổ xưa, Robert ạ, sinh ra nhiều huyền tích… nhưng điều đó không có nghĩa rằng bản thân chúng là hư cấu.

Mặc dù đã dành cả đời nghiên cứu về những biểu tượng và lịch sử kỳ bí. Langdon vẫn tỉnh táo phản đối mọi ý tưởng về Bí ẩn cổ xưa cũng như lời hứa hẹn phong thần phong thánh của các bí mật ấy.

Phải thừa nhận rằng, tài liệu lịch sử có chứa một bằng chứng không thể chối cãi, theo đó tri thức bí ẩn khởi nguồn từ Mật phái ở Ai Cập cổ đại rồi được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Phần lớn các ghi chép cho thấy nó rút vào bóng tối đến tận thời Phục Hưng mới tái xuất ở châu Âu, và được gửi gắm cho một nhóm khoa học gia tinh tuý Nhóm này làm việc giữa bốn bức tường của Hiệp hội Hoàng gia London - cơ sở khoa học hàng đầu châu Âu - và được mệnh danh rất khó hiểu là Đại học Vô hình.

Cái "đại học" ẩn dạng này nhanh chóng trở thành bộ tham mưu của những trí tuệ sáng láng nhất thế giới, như Isaac Newton, Francis Bacon, Robert Boyle, và cả Benjamin Franklin. Danh sách tín đồ hiện đại cũng không kém phần ấn tượng, nào là Einstein, Hawking, nào là Bohr, Celsius - những bộ óc vĩ đại đã đem lại nhiều bước nhảy vọt phi thường trong hiểu biết của nhân loại. Một số người cho rằng thành tựu tiên tiến ấy là kết quả của việc họ được tiếp xúc với tri thức cổ xưa cất giấu ngay trong Đại học Vô hình. Langdon không bao giờ tin giả thuyết này, mặc dù chắc chắn là có rất nhiều "công việc bí ẩn" diễn ra trong mấy bức tường này.

Năm 1936, cả thế giới kinh ngạc khi phát hiện ra nhiều tài liệu riêng tư cho thấy Isaac Newton rất say mê nghiên cứu thuật giả kim cổ đại và tri thức thần bí, trong số đó có một bức thư viết tay gửi cho Robert Boyle khuyến nghị ông này giữ "im lặng" về những kiến thức bí mật mà họ đã tiếp thu được. "Đừng truyền bá nó", Newton viết, kẻo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến thế giới".

Cho đến giờ người ta vẫn tranh cãi về ý nghĩa của câu cảnh báo lạ lùng này.

- Giáo sư, - Sato đột ngột lên tiếng, rời mắt khỏi cái Blackberry của bà ta - mặc dù ông khăng khăng nói rằng ông không lý giải nổi tại sao mình lại ở đây tối nay, nhưng có lẽ ông phải thấy nảy ra manh mối nào đó về ý nghĩa chiếc nhẫn của Peter Solomon chứ!

- Tôi sẽ cố gắng xem sao, - Langdon đáp, tập trung trở lại.

Sato lôi cái túi đựng mẫu vật ra và đưa cho Langdon.

Cho tôi biết về những biểu tượng trên chiếc nhẫn.

Bấy giờ họ đang bước dọc một hành lang vắng vẻ. Langdon kiểm tra chiếc nhẫn quen thuộc. Mặt nhẫn có hình một con phượng hoàng hai đầu quắp một dải băng mang dòng chữ ORDO AB CHAO, trên ngực nó vẽ con số 33.

- Phượng hoàng hai đầu mang số 33 là biểu trưng cho cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm - Nói cho đúng, cấp độ rất uy tín này chỉ tồn tại riêng trong Phân hội Scottish 1. Tuy nhiên, các nghi thức và tầng bậc của Hội Tam điểm là một hệ thống tôn ti trật tự rất phức tạp mà Langdon không định đi vào chi hết tối nay - Về cơ bản, cấp bậc 33 là vị trí danh dự tinh tuý dành cho một nhóm nhỏ những hội viên Tam điểm xuất chúng. Tất cả các cấp độ khác có thể đạt được bằng cách hoàn thành xong cấp độ trước đó, nhưng việc leo lên đến cấp 33 thì lại bị khống chế. Phải mời mới được vào.

- Và ông biết rõ Peter Solomon là một thành viên của giới tinh tuý?

- Dĩ nhiên. Quan hệ thành viên gần như là một bí mật.

- Và ông ấy là nhân vật cao cấp nhất?

- Hiện tại thì đúng. Peter đứng đầu Hội đồng Tối cao Cấp độ 33, một cơ quan điều hành của Phân hội Scottish ở Mỹ.

Langdon luôn thích đến thăm tổng hành dinh của họ - Thánh điện, một kiệt tác cổ điển với phần trang trí mang tính biểu trưng có thể so sánh với Nhà nguyện Rosslyn ở Scotland.

Giáo sư, ông có chú ý thấy dòng chữ khắc quanh riềm nhẫn không? Đề là "Tất cả được tiết lộ ở cấp 33".

Langdon gật đầu.

- Đây là một chủ đề rất phổ biến trong những truyền thuyết về Hội Tam điểm.

- Theo chỗ tôi hiểu, thế nghĩa là nếu một hội viên lên tới cấp 33 cao nhất thì anh ta sẽ được tiết lộ một điều gì đó thật đặc biệt?

- Phải, truyền thuyết thì như vậy, nhưng có lẽ không đúng với thực tế. Thiên hạ cứ đồn đoán rằng chỉ một số ít có chọn lọc trong tầng lớp cao nhất của Hội Tam điểm mới được chia sẻ một bí mật lớn lao nào đó. Song tôi ngờ rằng sự thật có lẽ không kịch tính đến thế.

Peter Solomon thường nửa đùa nửa thật về sự tồn tại của một bí mật quý giá trong Hội Tam điểm, nhưng Langdon luôn cho rằng đó chỉ là một ý đồ ranh mãnh nhằm lôi kéo anh gia nhập hội này.

Tiếc thay, những sự kiện tối nay không phải là đùa, và việc Peter nài anh giữ cái gói niêm phong trong túi này không hề gợn chút nào ranh mãnh.

Langdon khổ sở nhìn cái túi nhựa có chiếc nhẫn của Peter.

- Bà Giám đốc, - anh hỏi - tôi giữ thứ này có được không?

- Để làm gì?

- Nó rất có giá trị với Peter, và tối nay tôi muốn trả lại cho ông ấy.

Nét mặt Sato đầy nghi ngại.

- Hi vọng ông tìm được cơ hội đó.

- Cảm ơn - Langdon bỏ chiếc nhẫn vào túi.

Họ tiếp tục tiến sâu hơn vào mê cung, Sato lại lên tiếng:

- Tôi hỏi câu nữa. Nhân viên của tôi nói rằng khi kiểm tra các khái niệm "cấp 33" và "cánh cổng" liên quan đến Hội Tam điểm, họ tìm thấy hàng trăm tài liệu tham khảo đề cập đến kim tự tháp. Tại sao thế?

- Điều đó không có gì lạ cả - Langdon đáp - Những người xây dựng Kim tự tháp Ai Cập là tiền nhân của thợ đá hiện đại, và kim tự tháp cùng với các chủ đề về Ai Cập, rất phổ biến trong hệ thống biểu tượng Hội Tam điểm.

- Biểu tượng gì chứ?

- Kim tự tháp thể hiện sự khai sáng. Nó là một biểu tượng kiến trúc qua đó con người cổ đại muốn chứng minh rằng họ có khả năng thoát khỏi cõi thế tục, vươn tới thiên đường, tới mặt trời vàng và cuối cùng là tới nguồn sáng tối thượng.

Sato đợi thêm một lát.

- Không còn gì khác sao?

Không còn gì khác sao? Langdon chẳng vừa mới nói đến một trong những biểu tượng tao nhã nhất lịch sử đấy thôi. Một cấu trúc mà qua nó con người nâng mình lên thế giới của thần thánh.

- Theo nhân viên của tôi - Sato tiếp tục - dường như tối nay có một mối liên hệ chặt chẽ hơn nhiều. Họ nói rằng có một truyền thuyết rất phổ biến về một kim tự tháp cụ thể ở đây, tại Washington này, một kim tự tháp liên hệ đặc biệt với Hội Tam điểm và các bí ẩn cổ xưa.

Giờ thì Langdon hiểu Sato đang nhắc đến điều gì, và anh cố gắng xua tan ý tưởng này trước khi họ lãng phí thêm thời gian.

- Tôi không lạ gì truyền thuyết đó, thưa bà Giám đốc, nhưng nó thuần tuý là sản phẩm tưởng tượng. Kim tự tháp Hội Tam điểm là một trong những huyền tích lâu đời nhất của Washington D.C., có lẽ bắt nguồn từ kim tự tháp trên Quốc ấn của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

- Tại sao ông không đề cập đến chuyện này sớm hơn?

Langdon nhún vai.

- Bởi vì nó không có cơ sở thực tế. Như tôi đã nói, nó là một huyền tích. Một trong rất nhiều huyền tích liên quan đến Hội Tam điểm.

- Và huyền tích cụ thể này có liên hệ trực tiếp đến các Bí ẩn cổ xưa?

- Chắc chắn rồi, giống như rất nhiều huyền tích khác. Các Bí ẩn cổ xưa là nền tảng cho vô số truyền thuyết tồn tại trong lịch sử, chẳng hạn những câu chuyện về tri thức hùng mạnh nằm trong vòng bảo vệ của các Hiệp sĩ đền thánh, Hội Thập tự Hoa hồng, tổ chức Illuminati 2, nhóm Alumbrados… và còn nhiều nhiều nữa. Tất cả đều dựa trên những bí ẩn cổ xưa. Kim tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một ví dụ.

- Tôi hiểu rồi. - Sato đáp - Nhưng thực tế thì truyền thuyết này nói gì?

Langdon ngẫm nghĩ câu hỏi đó một lát rồi mới trả lời.

- Chà, tôi không chuyên lắm về các luận thuyết hư cấu, nhưng tôi được đào tạo về thần thoại học, và hầu hết các câu chuyện đều tiến triển như thế này: Các bí mật cổ xưa - hay gọi là tri thức thất truyền của mọi thời đại - từ lâu đã được coi là kho báu quý giá nhất của nhân loại và như tất cả các kho báu, chúng được bảo vệ rất cẩn mật. Các bậc hiền nhân được khai sáng, những người hiểu được sức mạnh thật sự của vốn tri thức này, rất sợ tiềm lực kinh khủng của nó. Họ biết rằng nếu kiến thức bí mật này rơi vào tay những kẻ chưa được khai tâm thì kết quả có thể rất tai hại; như chúng ta đã nói trước đó, những công cụ hùng mạnh có thể được sử dụng cho cả việc thiện lẫn việc ác. Vì thế, để bảo vệ các Bí ẩn cổ xưa và cũng là bảo vệ nhân loại, những người đầu tiên nắm bắt được tri thức đã thành lập ra các hiệp hội bí mật. Bên trong những hội này, họ chỉ chia sẻ tri thức của họ với những thành viên được khai sáng, truyền bá tri thức đó trong vòng các trí giả mà thôi. Nhiều người tin rằng chúng ta có thể xem lại và tìm thấy những tàn dư lịch sử của những người từng nắm được các bí ẩn… trong các câu chuyện về pháp sư, phù thuỷ và đạo nhân.

- Thế còn Kim tự tháp Hội Tam điểm? - Sato hỏi - Thứ đó thì liên quan gì chứ?

- Chà, - Langdon đáp, chân rảo bước nhanh hơn để theo cho kịp - đây là chỗ mà lịch sử và truyền thuyết bắt đầu giao thoa. Theo một số tài liệu, vào thế kỷ XVI ở châu Âu, hầu như tất cả các hội kín này đều biến mất, bị tiêu diệt bởi một làn sóng khủng bố tôn giáo. Người ta nói rằng, hội viên Tam điểm là những người cuối cùng còn tồn tại và gìn giữ các bí mật cổ xưa. Cũng dễ hiểu là họ sợ rằng nếu một ngày nào đó tổ chức của họ bị xoá sổ như những tổ chức tiền thân, thì các bí mật cổ xưa sẽ bị thất truyền mãi mãi.

- Thế còn kim tự tháp? - Sato lại nhấn mạnh.

Langdon bắt đầu giải thích.

- Truyền thuyết Kim tự tháp Hội Tam điểm rất đơn giản. Nó nói rằng, để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ vốn tri thức vĩ đại cho các thế hệ tương lai, Hội Tam điểm quyết định giấu nó vào một pháo đài - Langdon cố gắng nhớ lại các chi tiết về câu chuyện - Một lần nữa, tôi nhấn mạnh đây chỉ là truyền thuyết, nhưng rất hay được viện dẫn, Hội Tam điểm đem tri thức bí mật của họ từ Cựu Thế giới tới Tân Thế giới, tức là tới đây, nước Mỹ này, một mảnh đất mà họ hy vọng sẽ thoát khỏi chế độ tôn giáo tàn bạo, và ở đây, họ xây dựng một pháo đài bất khả xâm phạm - một kim tư tháp bí mật - được thiết kế đế bảo vệ các bí mật cố xưa cho tới khi nào tất cả nhân loại sẵn sàng tiếp nhận sức mạnh ghê gớm mà tri thức này có thể đem lại. Theo truyền thuyết Hội Tam điểm đặt trên đỉnh kim tự tháp vĩ đại của họ một khối vàng đặc sáng rực rỡ làm biểu tượng cho kho báu quý giá bên trong - cái kho tri thức co xưa có thể giúp con người phát huy hết tiềm năng của mình. Hoá thành thần thánh.

- Câu chuyện hay đấy, - Sato nói.

- Vâng. Hội Tam điểm bị chinh phục bởi tất cả các loại huyền tích kỳ cục.

- Rõ ràng ông không tin rằng có một kim tự tháp như thế tồn tại.

- Dĩ nhiên là không rồi, - Langdon đáp - Không hề có bằng chứng gì cho thấy các bậc tiền bối hội viên Tam điểm của chúng ta đã xây dựng một loại kim tự tháp nào đó ở nước Mỹ, càng không thể ở Washington D.C. này. Rất khó giấu được một kim tự tháp, đặc biệt là một cái đủ lớn để chứa được toàn bộ tri thức đã bị thất truyền của mọi thời đại.

Theo lời Langdon, truyền thuyết chẳng bao giờ giải thích chính xác xem cái gì nằm bên trong Kim Tự tháp Hội Tam điểm - dù đó là những văn bản cổ, những văn tự huyền bí, những phát kiến khoa học, hay cái gì đó bí hiểm hơn thế nữa - nhưng huyền tích thật sự nói rằng thông tin quý giá bên trong được mã hoá rất khéo léo… và chỉ ai có tâm hồn khai sáng nhất mới đủ sức thấu hiểu.

- Nhưng dù sao - Langdon tiếp - câu chuyện này rơi vào một thể loại mà giới biểu tượng học chúng tôi gọi là một "lai tạp nguyên mẫu", một hình thức pha trộn của những huyền tích kinh điển, vay mượn thêm nhiều yếu tố từ kho tàng thần thoại đến mức nó chỉ có thể là một sản phẩm hư cấu… không thể là sự thật lịch sử được.

Khi dạy sinh viên về các lai tạp nguyên mẫu, Langdon sử dụng ví dụ là các truyện thần tiên, được kể lại qua nhiều thế hệ và phóng đại dần theo thời gian, vay mượn rất nhiều của nhau để trở thành những câu chuyện đạo lý với những yếu tố ước lệ tương tự - những thiếu nữ đồng trinh, các hoàng tử đẹp trai, những toà lâu đài bất khả xâm phạm, và những phù thuỷ hùng mạnh. Nhờ các câu chuyện thần tiên, trận chiến "thiện và ác" bám rễ trong chúng ta từ thời còn thơ ấu thông qua các câu chuyện: Merlin chống lại Morgan le Fay, Thánh George chống lại Rồng, David chống lại quái vật Goliath, Nàng Bạch Tuyết chống lại Mụ phù thuỷ, và thậm chí là Luke Skywalker chiến đấu với Darth Vader.

Họ ngoặt qua một góc tường và theo Anderson xuống một quãng cầu thang ngắn nữa, Sato gãi gãi đầu.

- Giải thích cho tôi điều này nhé. Nếu tôi không nhầm thì các kim tự tháp từng được coi là những cánh cổng bí ẩn mà qua đó, các pharaoh băng hà có thể bay lên thế giới thần linh, có phải không nhỉ?

- Đúng đấy.

Sato dừng lại đột ngột và nắm lấy tay Langdon, ngước nhìn anh với vẻ mặt nửa ngạc nhiên nửa hoài nghi.

- Kẻ bắt cóc Peter Solomon bảo ông tìm một cánh cổng bí mật, và ông không hề nghĩ rằng gã đang nói về Kim tự tháp Hội Tam điểm trong huyền tích này ư?

- Nói gì thì nói, Kim Tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một câu chuyện thần tiên. Nó hoàn toàn do tưởng tượng mà ra.

Sato bước lại sát anh hơn, tới mức Langdon ngửi thấy cả hơi thở sặc sụa mùi thuốc lá của bà ta.

- Tôi hiểu vị trí của ông trong chuyện này, thưa Giáo sư, nhưng vì cuộc điều tra, tôi không thể loại bỏ yếu tố so sánh. Một cánh cổng dẫn tới vốn tri thức bí mật ư? Theo kẻ bắt cóc Peter Solomon, nghe chừng chỉ ông mới mở được.

- Chà, tôi khó lòng tin…

- Ông tin điều gì không quan trọng. Dù sao đi nữa, ông cũng phải thừa nhận rằng bản thân gã đó có thể đang tin chắc vào khả năng tồn tại của Kim Tự tháp Hội Tam điểm.

- Gã là một kẻ mất trí! Gã cũng có thể tin rằng SBB 13 là lối vào một kim tự tháp khổng lồ ngầm dưới lòng đất, nơi chứa đựng tri thức đã bị thất truyền của cổ nhân!

Sato đứng lặng đi, đôi mắt rực sáng.

- Rắc rối mà tôi đang phải xử lý tối nay không phải là một chuyện thần tiên, thưa Giáo sư. Nó rất thật, tôi dám quả quyết với ông như thế.

Một sự im lặng lạnh lẽo bao trùm lấy họ.

- Thưa bà? - Cuối cùng Anderson lên tiếng, ra hiệu về phía cánh cửa bảo vệ cách đó 3 mét - Chúng ta gần đến nơi rồi, nếu chúng ta đi tiếp.

Cuối cùng Sato cũng thôi không nhìn xoáy vào Langdon nữa mà ra hiệu cho Anderson tiếp tục.

Họ theo viên Chỉ huy lực lượng an ninh đi qua ô cửa để vào một lối đi hẹp. Langdon ngó quanh, hết bên trái rồi bên phải.

Thật không thể tưởng tương được.

Anh chưa bao giờ trông thấy hành lang nào dài đến thế này.

--- ------ ------ ------ -------

1 Phân hội Scottish là một trong vài phân hội của Hội Tam điểm. Một phân hội gồm vài cấp bậc kế tiếp nhau do những tổ chức hoặc cơ quan khác nhau của Hội Tam điểm tấn phong, hoạt động dưới sự kiểm soát của cơ quan trung ương. Cơ quan trung ương của Phân hội Scottish là Hội đồng Tối cao. Phân hội Scottish là một trong những cơ quan trực thuộc Hội Tam điểm, nơi một huynh trưởng có thể gia nhập để tiếp tục lĩnh hội những nguyên tắc của Hội. Phân hội Scottish được hình thành dựa trên những lời giáo huấn đạo đức và triết lý do hội hành nghề (craft lodge hoặc Blue Lodge) đưa ra - ND.

2 Tổ chức Illuminati là một hội kín được sáng lập vào thế kỷ XVI bởi những người khai sáng giỏi nhất Italia, gồm các nhà vật lý, thiên văn học, toán học, nhằm chia sẻ mối quan tâm của họ về những tín điều không chính xác của nhà thờ. Tên gọi Illuminati có nghĩa là "Những người khai sáng" - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 31

Rời khỏi ánh đèn rực rỡ của Khối hộp và bước vào bóng tối thăm thẳm, Trish Dunne lại thấy lòng trào lên cảm giác sợ hãi quen thuộc. Bảo vệ ở cổng trước của SMSC vừa gọi vào báo vị khách của Katherine, bác sĩ Abaddon, đã đến và cần có người dẫn tới Khoang 5. Trish đề nghị được ra dẫn khách vào, chủ yếu là vì hiếu kỳ. Katherine nói rất ít về người đàn ông sắp ghé thăm họ, nên Trish cảm thấy hết sức tò mò. Rõ ràng là Peter cực kỳ tin tưởng anh ta, gia đình Solomon chưa từng mời ai tới Khối hộp cả.

Đây là trường hợp đầu tiên.

Mình hy vọng anh ta không sợ hãi màn đi bộ, Trish vừa nghĩ vừa dò dẫm qua vùng tối đen đặc. Cô háo hức muốn thấy vẻ kinh hãi của vị khách đặc biệt khi nhận ra những gì cần phải làm để tới được phòng thí nghiệm. Lần đầu luôn là lần tệ nhất.

Một năm về trước, Trish tới đây lần đầu tiên. Cô nhận lời mời làm việc của Katherine, ký hợp đồng và theo sếp mới tới SMSC để xem phòng thí nghiệm. Hai người phụ nữ đi bộ hết chiều dài của "đường phố", đến trước một cánh cổng kim loại có dòng chữ KHOANG 5.

Mặc dù Katherine đã cố gắng chuẩn bị tinh thần cho cô gái bằng cách mô tả vị trí khá hẻo lánh của phòng thí nghiệm, nhưng Trish vẫn hết sức bất ngờ khi cửa khoang mở ra.

Trước mặt cô là một khoang tối đen trống rỗng

Katherine bước qua ngưỡng cửa, tiến vài bước vào vùng tối đặc quánh ấy, rồi ra hiệu cho Trish đi theo.

- Cứ tin tôi. Cô sẽ không bị lạc đâu.

Hình dung ra cảnh mình lần mò trong một căn phòng rộng bằng cả cái sân vận động nhưng tối đen như mực, Trish thấy toát mồ hôi.

- Chúng tôi có một hệ thống chỉ dẫn để giúp cô không lạc đường - Katherine trỏ xuống sàn - Rất thủ công thôi.

Trish nheo mắt, cố nhìn phần nền xi măng thô cứng qua bóng tối.

Cũng phải mất một lúc cô mới nhận ra nó, đúng là có một đường dẫn hẹp bằng thảm. Lớp thảm tuôn dài như một lối đi, mất hút trong bóng tối.

- Hãy nhìn bằng chính bàn chân cô - Katherine nói, xoay người cất bước - Cứ theo ngay sau tôi là được.

Thấy Katherine đã biến mất trong khoảng tối, Trish cố nén nỗi sợ hãi và bước theo. Đúng là điên rồ! Cô mới đi được vài bước trên thảm thì cánh cửa Khoang 5 sập lại phía sau, dập tắt những tia ánh sáng cuối cùng. Tim đập thình thịch, Trish tập trung hết tinh thần để cảm nhận lớp thảm dưới chân mình. Cô chỉ mới đánh bạo bước vài bước theo lớp thảm mềm thì cảm nhận được cạnh chân phải chạm vào lớp xi măng cứng lạnh. Giật mình, bản năng bảo cô dịch sang bên trái, đặt cả hai chân lên lớp thảm mềm mại.

Giọng Katherine vang lên phía trước, trong bóng tối, thanh âm gần như chìm nghỉm giữa không gian thăm thẳm tẻ ngắt này.

- Cơ thể con người rất kỳ lạ - Katherine nói - Nếu cô lấy đi của nó một giác quan, thì những giác quan khác sẽ thay thế, gần như ngay tức thì. Lúc này, nói cho đúng nghĩa thì thần kinh ở chân cô đang điều chỉnh để trở nên nhạy cảm hơn.

Đúng thật, Trish nghĩ, lại dò đường đi lần nữa.

Họ im lặng di chuyển trong một khoảng thời gian dường như đằng đẵng.

- Còn bao xa nữa? - Trish không kìm được buột hỏi.

- Chúng ta sắp đi được nửa đường rồi - Giọng Katherine giờ nghe có vẻ cách xa hơn.

Trish rảo chân bước nhanh, gắng hết sức để giữ bình tĩnh, nhưng hơi thở của bóng tối dường như sắp nuốt chửng cô. Mình chẳng nhìn thấy gì hết, dù là đặt sát trước mắt.

- Chị Katherine? Làm sao chị biết khi nào thì không phải đi nữa?

- Cô sẽ biết ngay thôi, - Katherine nói.

Đó là một năm về trước, còn bây giờ, tối nay, Trish lại một lần nữa đi trong khoảng tối, tiến theo hướng ngược lại, ra khỏi gian phòng để đón khách của sếp. Một cảm giác thay đổi đột ngột ở lớp thảm dưới chân báo cho cô biết rằng cô còn cách cửa khoảng ba thước. Trish dừng ngay lại, móc thẻ khoá ra và dò dẫm men theo tường cho tới khi tìm thấy khe khoá và nhét thẻ vào.

Cánh cửa rít lên.

Trish nheo mắt trước ánh sáng tràn tới từ hành lang SMSC.

Lại như mọi khi…

Bước dọc theo hành lang vắng ngắt, Trish nghĩ đến văn bản lọc thông tin kỳ lạ mà họ đã tìm thấy trên một nguồn bí mật. Một cánh cổng cổ xưa? Một vi trí bí mật dưới lòng đất. Cô tự hỏi liệu Mark Zoubianis có đủ may mắn truy ra xem tài liệu bí ẩn ấy nằm ở đâu không.

° ° °

Bên trong phòng điều khiển, Katherine đứng trong màn ánh sáng dìu dịu của bức tường plasma và nhìn đăm đăm cái tài liệu bí ẩn mà họ đã tìm ra. Cô vừa tách các cụm từ chính của mình và càng lúc càng thấy chắc chắn rằng tài liệu này nói về đúng cái huyền tích mà anh trai cô từng hé lộ với bác sĩ Abaddon.

… vị trí bí mật DƯỚI LÒNG ĐẤT nơi…

đâu đó ở Washington D.C., có toạ độ…

… phát hiện ra một CÁNH CỔNG CỔ XƯA dẫn tới…

… cảnh báo rằng KIM TỰ THÁP chứa…

… giải mã BIỂU HÌNH ĐƯỢC CHẠM KHẮC này để hé mở…

Mình cần xem phần còn lại của file này. Katherine nghĩ thầm.

Katherine đăm đăm nhìn một lúc nữa rồi bấm công tắc nguồn của bức tường plasma. Cô luôn nhớ tắt màn hình rất tốn năng lượng này để không lãng phí nguồn dự trữ hydro lỏng của các tế bào nhiên liệu.

Những cụm từ khoá từ từ nhoà dần, thu hẹp thành một chấm trắng nhỏ xíu ở chính giữa bức tường, cuối cùng tắt ngấm.

Katherine quay trở lại văn phòng. Chỉ lát nữa bác sĩ Abaddon sẽ đến, và cô muốn làm cho anh ta cảm thấy thoải mái.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 32

- Sắp tới nơi rồi, - Anderson dẫn Langdon và Sato đi xuống hành lang vô tận chạy suốt toàn bộ chiều dài tầng hầm phía đông của Điện Capitol - Thời Tổng thống Lincoln, nền lối này rất bẩn thỉu và nhung nhúc chuột bọ.

Langdon rất mừng là nền đã được lát gạch, anh vốn không ưa giống chuột. Cả nhóm tiếp tục đi tới, tiếng bước chân họ vang lên bập bõm, nghe rất kỳ cục trong hành lang dài. Dọc theo hành lang là những ô cửa, một số đóng kín, khá nhiều mở hé. Nhiều căn phòng ở tầng này trông như bị bỏ phế. Langdon chú ý thấy số hiệu trên các cánh cửa giảm dần, giảm đến tận cùng.

SB4… SB3… SB2… SB1…

Họ tiếp tục đi qua một cánh cửa không đánh số, nhưng Anderson dừng phắt lại khi số hiệu bắt đầu tăng.

HB1… HB2…

- Xin lỗi, - Anderson lên tiếng - Qua mất rồi. Tôi gần như chẳng bao giờ đặt chân xuống tận chỗ này.

Cả nhóm lùi lại vài thước, tới một cánh cửa kim loại cũ kỹ mà bấy giờ Langdon mới nhận thấy. Nó nằm ở điểm chính giữa hành lang - nơi phân chia Tầng hầm Thượng viện (SB) và Tầng hầm Hạ viện (HB). Thực tế cánh cửa này có đánh số, nhưng đã quá mờ, rất khó nhận ra:

SBB

- Đây rồi - Anderson nói - Sẽ có người mang chìa khoá tới ngay.

Sato cau mày và nhìn đồng hồ.

Langdon nhìn dòng chữ SBB và hỏi Anderson.

- Tại sao chỗ này lại thuộc phía Thượng viện mặc dù nó ở chính giữa?

Anderson lộ vẻ bối rối.

- Ý ông là sao?

- Nó ký hiệu là SBB, tức là bắt đầu bằng chữ S chứ không phải chữ H.

Anderson lắc đầu.

- Chữ S trong SBB không phải là viết tắt của Thượng viện. Nó…

- Chỉ huy? - tiếng một nhân viên an ninh cất lên phía xa. Anh ta hối hả băng qua hết hành lang để tới chỗ họ, giơ ra một chiếc chìa khoá - Xin lỗi anh, phải mất vài phút đấy. Chúng tôi không thể xác định được chìa khoá chính của SBB. Đây là cái dự phòng lấy từ một hộp phụ.

- Cái gốc bị mất à? - Anderson hỏi, giọng lộ rõ ngạc nhiên.

- Chắc là mất, - người kia đáp, thở hổn hển - Lâu lắm rồi có ai yêu cầu xuống đây đâu.

Anderson cầm lấy chiếc chìa khoá.

- Không có chìa phụ cho SBB13 à?

- Xin lỗi, cho đến lúc này chúng tôi vẫn không tìm thấy chìa khoá của bất kỳ phòng nào trong SBB cả. MacDonald đang tiếp tục tìm - Viên cảnh vệ rút bộ đàm và gọi - Bob? Tôi đang ở chỗ Chỉ huy. Có thêm thông tin gì về chìa khoá SBB13 chưa?

Bộ đàm của viên cảnh vệ có tiếng xột xoạt, và một giọng nói vang lên.

- Thực ra là có đấy. Lạ lắm. Kể từ khi chúng ta vi tính hoá, chưa có trường hợp nào vào đó, nhưng theo sổ đăng ký thì tất cả các phòng kho trong SBB đều đã được dọn sạch và bỏ không hơn hai mươi năm nay. Giờ chúng được ghi rõ là khu vực không sử dụng - Anh ta ngừng lại - Tất cả, chỉ trừ SBB13.

Anderson giật lấy bộ đàm.

- Chỉ huy đây. Cậu nói sao, tất cả chỉ trừ SBB13 thôi à?

- Vâng, thưa sếp - giọng kia đáp lại - tôi tìm thấy một câu chú giải viết tay cho biết SBB13 là phòng "riêng". Đã từ lâu lắm rồi, do chính Kiến trúc sư viết và ký nháy.

Langdon biết, cụm từ Kiến trúc sư không phải để chỉ người đã thiết kế Điện Capitol mà là người điều hành toà nhà. Tương tự như viên quản lý, người được bổ nhiệm vào chức Kiến trúc sư Điện Capitol sẽ chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc, bao gồm bảo dưỡng, tu bổ, an ninh, thuê nhân viên, và phân bổ các phòng làm việc.

- Điều lạ là - giọng trên bộ đàm nói - chú thích của Kiến trúc sư ghi rõ rằng "khu vực riêng" này dành cho Peter Solomon sử dụng.

Langdon, Sato và Anderson đưa mắt nhìn nhau thảng thốt.

- Tôi đoán, thưa sếp - giọng nói tiếp tục - ông Solomon giữ chìa khoá gốc xuống SBB cũng như mọi chìa khoá của SBB13.

Langdon không thể tin vào tai mình. Peter có hẳn một phòng riêng trong tầng hầm ĐiệnCapitol ư? Anh vốn biết Peter Solomon có nhiều bí mật, nhưng điều này thì vượt quá mọi sự hình dung.

- Tốt lắm - Anderson nói, rõ ràng là không thích thú gì - Chúng tôi hy vọng có thể tiếp cận được SBB12, cho nên cứ tìm chìa khoá phụ đi.

- Rõ, thưa sếp. Chúng tôi cũng đang xử lý bức hình số mà anh yêu cầu…

- Cảm ơn - Anderson bấm nút thoại để cắt ngang lời người kia - Tốt lắm. Khi nào xong cậu gửi ngay file đó tới điện thoại Giám đốc Sato nhé.

- Rõ, thưa sếp - Máy bộ đàm im bặt.

Anderson đưa trả bộ đàm cho anh nhân viên đang đứng đấy.

Người này rút ra một bản sao sơ đồ toà nhà và đưa cho Chỉ huy.

- Thưa sếp, SBB tô màu xám, chúng tôi đã đánh dấu X vào gian phòng SBB13 nên cũng không khó tìm lắm. Khu vực này khá nhỏ.

Anderson cảm ơn thuộc cấp của mình và dồn mọi chú ý vào bản sơ đồ.

Người cảnh vệ trẻ tuổi vội vã rời đi. Langdon ngó xem, rất ngạc nhiên trước số lượng dày đặc các căn phòng nhỏ tạo thành mê cung kỳ dị bên dưới Điện Capitol.

Anderson nghiên cứu sơ đồ một lát, gật gù đút tọt nó vào túi.

Quay về cánh cửa có dòng chữ SBB, anh ta rút chìa khoá, rồi lại do dự, vẻ ngần ngại không muốn mở ra. Langdon cũng rơi vào tâm trạng e dè tương tự, anh không biết đằng sau cánh cửa này là những gì, nhưng anh tin chắc rằng dù là gì đi nữa, một khi đã cất giấu tít dưới này thì rõ ràng Solomon muốn giữ bí mật cho nó.

Hoàn toàn bí mật.

Sato hắng giọng, và Anderson hiểu ý. Viên Chỉ huy hít một hơi thật sâu, tra chìa khoá xoay thử. Chìa khoá không nhúc nhích.

Trong khoảnh khắc, Langdon tràn trề hy vọng là không mở được.

Nhưng đến lần thử thứ hai, ổ khoá xoay, và Anderson kéo cánh cửa về phía mình.

Khi cánh cửa nặng nề kêu ken két và mở ra phía ngoài, mùi không khí ẩm mốc ùa ra khắp hành lang.

Langdon đăm đăm nhìn vào bóng tối nhưng chẳng thấy gì cả.

- Giáo sư, - Anderson cất tiếng, vừa mò công tắc vừa liếc Langdon - Về thắc mắc của ông, chữ S trong SBB không phải là Thượng viện. Nó mang nghĩa là bên dưới cơ.

- Bên dưới à? - Langdon ngơ ngác hỏi lại.

Anderson gật đầu và bật công tắc ngay mé trong cánh cửa. Ngọn đèn duy nhất soi rõ một cầu thang dốc đứng chạy sâu xuống vùng tối đen như mực.

SBB là tầng dưới tầng hầm.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 33

Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis ngồi sâu hơn vào chiếc phô-tơi, mặt cau có trước những thông tin hiển thị trên màn hình máy tính.

Địa chỉ này thuộc loại chó chết gì không biết?

Những công cụ xâm nhập tốt nhất của anh ta hoàn toàn vô hiệu trong việc đột phá vào tài liệu này cũng như xác định địa chỉ IP bí ẩn của Trish. Mười phút đã trôi qua mà chương trình của Zoubianis vẫn không thể vượt qua được tường lửa của hệ thống. Hy vọng xâm nhập rất thấp. Chẳng trách họ trả mình nhiều tiền thế. Anh ta định trang bị lại công cụ và thử một cách tiếp cận khác thì điện thoại đổ chuông.

Trish, lạy Chúa, anh đã bảo anh sẽ gọi lại cơ mà. Anh ta tắt tiếng chương trình bóng bầu dục và trả lời máy.

- Tôi nghe đây?

- Anh Mark Zoubianis? - một giọng đàn ông vang lên - Ngụ tại số 357 Kingston Drive ở Washington phải không?

Zoubianis nghe rõ tiếng trao đổi lào xào xung quanh người đang nói chuyện với mình. Lại một thằng cha tiếp thị trên điện thoại đây mà? Điên chắc?

- Để tôi đoán thử xem nào, chắc tôi vừa giành giải thưởng trong tuần tại Anguilla phải không?

- Không, - người kia trả lời, giọng không mảy may đùa cợt - Đây là An ninh hệ thống của Cục Tình báo Trung ương. Chúng tôi muốn biết vì sao anh lại tìm cách xâm nhập vào một trong các cơ sở dữ liệu đặc biệt của chúng tôi?

° ° °

Cách tầng đáy Điện Capitol ba tầng, trong không gian thoáng đãng của trung tâm khách tham quan, nhân viên an ninh Nunez đang khoá các cửa chính như anh vẫn làm vào giờ này hằng tối. Khi quay trở lại, băng qua sàn nhà bằng cẩm thạch rộng mênh mông, anh nghĩ đến gã đàn ông mặc chiếc áo choàng quân đội với những hình xăm.

Mình đã để hắn lọt vào. Nunez băn khoăn không biết ngày mai anh còn tiếp tục được làm việc không.

Khi Nunez tiến đến cầu thang máy, bỗng có tiếng đập ở cửa phía ngoài buộc anh phải quay lại nhìn. Nunez ngoái ra cửa chính. Một người Mỹ da đen đứng tuổi đang vỗ mạnh tay lên lớp kính chắn, ra hiệu xin vào.

Nunez lắc đầu và chỉ đồng hồ.

Người kia lại đập tay và bước hẳn ra chỗ sáng đèn. Ông ta mặc bộ đồ màu lam thẫm rất sang trọng, mái tóc muối tiêu cắt ngắn. Tim Nunez đập thình thình. Trời ạ. Cho dù còn ở cách xa một quãng, Nunez vẫn nhận ra người đàn ông này là ai. Anh vội vã quay lại cửa ra vào và mở khoá.

- Tôi xin lỗi, thưa ngài. Mời ngài vào ạ.

Warren Bellamy - Kiến trúc sư Điện Capitol - bước qua ngưỡng cửa và cảm ơn Nunez bằng một cái gật đầu nhã nhặn. Ông có vóc người mềm mại, dong dỏng, dáng đi thẳng, ánh nhìn xuyên thấu toát ra sự tự tin rằng mình làm chủ được mọi việc xung quanh. Bellamy giữ cương vị giám thị Điện Capitol đã suốt hai mươi lăm năm qua.

- Tôi giúp gì được ngài chăng? - Nunez hỏi.

- Có đấy cảm ơn anh - Bellamy nói với giọng rành rẽ, dứt khoát.

Tốt nghiệp ở một trong tám trường đại học danh giá nhất nước Mỹ, ông có cách diễn đạt chính xác chẳng khác gì người Anh chính gốc - Tôi được biết rằng các anh đã gặp một rắc rối tại đây tối hôm nay - ông lộ vẻ cực kỳ lo lắng.

- Vâng, thưa ngài. Đó là…

- Chỉ huy Anderson đâu?

- Ở tầng dưới cùng với Giám đốc Sato thuộc Văn phòng An ninh của CIA.

Mắt Bellamy càng mở to, lo lắng.

- CIA ở đây à?

- Vâng, thưa ngài. Giám đốc Sato xuất hiện gần như ngay sau sự cố.

- Tại sao? - Bellamy hỏi.

Nunez nhún vai. Tôi biết hỏi ai bây giờ?

Bellamy đi thẳng tới thang máy.

- Họ đâu rồi?

- Họ vừa đi xuống các tầng dưới - Nunez rảo bước theo sau.

Bellamy liếc nhìn lại với vẻ lo ngại.

- Xuống dưới à? Tại sao nhỉ?

- Tôi thật sự không biết. Tôi chỉ nghe nói thế qua bộ đàm.

Bellamy bước nhanh hơn.

- Đưa tôi tới chỗ họ ngay.

- Vâng, thưa ngài.

Hai người vội vã băng qua quãng trống, Nunez thoáng nhìn thấy một chiếc nhẫn vàng rất lớn trên ngón tay Bellamy.

Nunez rút bộ đàm ra.

- Tôi sẽ thông báo cho Chỉ huy biết ngài đang xuống.

- Không - ánh mắt Bellamy sáng quắc - Tôi không muốn thông báo trước.

Nunez đã phạm phải một vài sai lầm tối hôm nay, và anh không muốn tiếp tục phạm sai lầm bằng cách giấu Chỉ huy Anderson về sự hiện diện của Kiến trúc sư trong toà nhà.

- Thưa ngài? - anh lên tiếng, vẻ bất an - Tôi nghĩ Chỉ huy Anderson sẽ muốn…

- Anh có biết rằng chính tôi tuyển dụng Anderson không? - Bellamy nói.

Nunez gật đầu.

- Vậy thì tôi nghĩ anh ta muốn anh làm theo mong muốn của tôi.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 34

Trish Dunne bước vào sảnh SMSC và ngạc nhiên khi nhìn thấy vỉ khách đang đợi. Trông anh ta chẳng hề giống các ông tiến sĩ nhân chủng, đại dương, địa lý và nhiều nhà khoa học khác đã từng vào toà nhà này. Không vận đồ flannel và chẳng có vẻ gì là chúi mũi vào sách vở suốt ngày, bác sĩ Abaddon giống một nhà quý tộc hơn, với bộ đồ may đo không chê vào đâu được. Anh ta cao lớn, thân hình nở nang, gương mặt mịn màng, mái tóc vàng óng được chải chuốt rất kỹ, tạo cho Trish ấn tượng rằng anh ta quen với những thứ xa xỉ hơn là các phòng thí nghiệm.

- Bác sĩ Abaddon phải không ạ? - Trish lên tiếng và chìa tay ra.

Người đàn ông có vẻ do dự, nhưng anh ta cũng nắm lấy bàn tay mũm mĩm của Trish trong bàn tay to lớn của mình.

- Tôi xin lỗi. Thế chị là…?

- Tôi là Trish Dunne. - Trish đáp - Tôi là trợ lý của bà Katherine. Bà ấy nhờ tôi ra đón bác sĩ vào phòng thí nghiệm.

- Ồ, tôi hiểu rồi - Giờ thì người kia gật đầu - Rất vui được gặp cô, Trish. Xin lỗi, đều tại tôi nhầm lẫn. Tôi cứ đinh ninh rằng Katherine chỉ ở đây một mình tối nay - Anh ta ra hiệu về phía đại sảnh - Giờ thì xin phó thác cả cho cô. Mời cô dẫn đường.

Mặc dù người đàn ông trấn tĩnh rất nhanh nhưng Trish vẫn thoáng nhận ra vẻ thất vọng trong ánh mắt anh ta. Chợt cô thấy ngờ ngợ về động cơ giữ bí mật của sếp mình. Katherine chẳng bao giờ tâm sự với Trish về cuộc sống riêng tư, song vị khách này, dẫu trẻ hơn Katherine, nhưng hấp dẫn và ăn mặc rất chải chuốt, rõ ràng xuất thân từ cùng tầng lớp giàu sang và nhiều đặc quyền đặc lợi của chị ấy.

Chuyện bồ bịch đây chăng? Tuy nhiên, cho dù bác sĩ Abaddon có hình dung cuộc thăm viếng tối nay sẽ dẫn tới đâu thì dường như sự hiền diện của Trish cũng không nằm trong dự liệu của anh ta.

Tại chỗ kiểm tra an ninh trong tiền sảnh, nhân viên bảo vệ nhanh tay tháo tai nghe, và Trish có thể bắt được tiếng ồn ào từ trận đấu của đội bóng Redskins. Anh chàng bảo vệ hướng dẫn bác sĩ Abaddon đi qua máy dò kim loại và đưa cho gã đeo phù hiệu an ninh tạm thời.

- Đội nào đang thắng vậy? - Bác sĩ Abaddon vừa niềm nở hỏi vừa bỏ hết điện thoại, chìa khoá và một chiếc bật lửa ra khỏi túi.

- Đội Đỏ dẫn trước ba bàn, - anh bảo vệ đáp, giọng nôn nóng, tỏ rõ ý muốn xem tiếp - Một trận đấu gay cấn quá!

- Ông Solomon sẽ đến ngay bây giờ đấy. - Trish dặn anh bảo vệ - Nhờ anh dẫn ông ấy tới phòng thí nghiệm ngay khi ông ấy đến nhé!

- Vâng - Anh bảo vệ nháy mắt vẻ biết ơn khi hai người đi qua - Xin cảm ơn vì báo trước - Tôi sẽ lưu ý.

Lời nhắn của Trish không chỉ nhắc nhở anh chàng bảo vệ mà còn ngầm bảo bác sĩ Abaddon rằng Trish không phải là người duy nhất tham dự vào buổi tối riêng tư của anh ta với Katherine ở đây.

- Anh quen Katherine thế nào vậy? - Trish hỏi, liếc mắt nhìn vị khách bí ẩn.

Bác sĩ Abaddon cười khan.

- Ồ, đó là một câu chuyện dài. Chúng tôi đang cùng phối hợp với nhau một vài việc.

Hiểu rồi, Trish nghĩ. Không phải việc của tôi.

- Đây là một cơ ngơi tuyệt vời, - Abaddon lên tiếng, ngoảnh nhìn xung quanh trong khi theo Trish tiến xuống hành lang lớn - Tôi chưa đến đây bao giờ cả.

Giọng nói nhẹ nhàng của anh ta trở nên hoà nhã thêm theo mỗi bước chân, Trish nhận thấy người này đang dụng tâm để ý tất cả mọi thứ. Nhờ ánh sáng rực rỡ trong hành lang, cô nhận thấy da mặt anh ta trông không được thật cho lắm. Kỳ cục. Tuy nhiên, khi họ đi qua hành lang vắng vẻ. Trish vẫn giới thiệu sơ bộ với anh ta về mục đích và chức năng của SMSC, kể cả các khoang và những thứ chứa bên trong.

Vị khách lộ vẻ thán phục.

- Nghe như thể nơi này có một kho tàng khổng lồ gồm toàn mẫu vật vô giá. Tôi cứ tưởng phải có bảo vệ ở khắp mọi nơi.

- Không cần, - Trish nói, đưa tay trỏ dãy ống kính mắt cá chạy dài trên trần nhà - An ninh ở đây được tự động hoá. Mỗi phân của hành lang này đều được ghi hình 24 tiếng suốt 7 ngày trong tuần, và hành lang này chính là xương sống của cả toà nhà. Không thể vào được bất kỳ phòng nào từ hành lang này mà không có thẻ và số PIN.

- Một cách sử dụng máy quay rất hiệu quả.

- Tạ ơn Trời, chúng tôi chưa bao giờ bị trộm cắp cả. Vả chăng, đây không phải là bảo tàng khiến ai đó phải tới ăn cướp, nào có ai ra chợ đen để tìm mua những bông hoa đã tuyệt chủng, những chiếc thuyền độc mộc của người Inuit, hay xác những con mực khổng lồ đâu.

Bác sĩ Abaddon cười khùng khục.

- Cô nói rất đúng.

- Hiểm hoạ an ninh lớn nhất của chúng tôi là lũ gặm nhấm và côn trùng - Trish giải thích rằng người ta ngăn ngừa toà nhà khỏi sự phá hoại của côn trùng bằng cách làm lạnh toàn bộ rác thải và bằng một kết cấu kiến trúc gọi là "Tử địa", dùng các bức tường kép vây lấy toàn bộ toà nhà như lớp vỏ bọc, tạo thành một không gian không thích hợp cho sự sống.

- Rất tuyệt vời, - Abaddon nói - Thế phòng thí nghiệm của bà Katherine và ông Peter ở đâu?

- Khoang 5 - Trish đáp - Phải đi hết lối này tới cuối hành lang.

Abaddon đột ngột dừng lại, ngoái sang phải, nhìn về phía một ô cửa sổ nhỏ.

- Chúa ơi! Cô có nhìn thấy thứ đó không?

Trish cười.

- Có đó là Khoang 3. Người ta gọi là Thuỷ trì.

- Thuỷ trì à? - Abaddon hỏi lại, áp mặt vào sát lớp kính.

- Có hơn 11.000 lít ethanol lỏng trong đó. Anh còn nhớ tôi vừa đề cập tới xác con mực khổng lồ chứ?

- Đó là con mực à? - Bác sĩ Abaddon rời ánh nhìn khỏi cửa sổ, mắt mở lớn - Nó to thật?

- Một con Architeuthis cái, - Trish nói - Nó dài hơn 12m.

Bác sĩ Abaddon rõ ràng vô cùng thích thú trước con mực và dường như không thể nào rời mắt khỏi lớp vách kính. Hình ảnh ấy khiến Trish liên tưởng tới một cậu bé con đứng ở cửa hàng bán sinh vật cảnh. ao ước được vào trong và xem một chú cún con. Năm giây sau, anh ta vẫn đăm đăm nhìn qua cửa sổ.

- Được rồi, được rồi - cuối cùng Trish đành lên tiếng, vừa cười vừa nhét thẻ và nhập mã PIN của cô - Nào. Tôi sẽ cho anh xem con mực.

Khi bước vào không gian lờ mờ của Khoang 3, Mal’akh lướt mắt dọc các bức tường để tìm máy quay an ninh. Cô trợ lý bé nhỏ mập mạp của Katherine bắt đầu huyên thuyên về mẫu vật trong phòng.

Mal’akh đâu có để tâm. Gã chẳng hứng thú với bất kỳ thứ gì ở mấy con mực khổng lồ. Mối quan tâm duy nhất của gã là dùng cái không gian kín đáo, tối tăm này để giải quyết một trở ngại ngoài dự tính.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 35

Cầu thang bằng gỗ dẫn xuống tầng đáy Điện Capitol cũng dốc và nông như các cầu thang Langdon vừa đi qua. Anh thở gấp hơn, phổi như thắt lại. Không khí dưới này lạnh lẽo và ẩm ướt vô chừng. Langdon bất giác nhớ lại một dãy cầu thang tương tự mà anh đã gặp vài năm trước ở Địa Ngục môn. Nghĩa địa Vatican.

Anderson đi đầu, dẫn đường với cây đèn pin trên tay. Tiếp đến là Langdon. Sato theo sát đằng sau, bàn tay nhỏ bé của bà ta thỉnh thoảng lại thúc vào lưng anh. Mình sẽ đi càng nhanh càng tốt. Anh hít vào thật sâu, cố gắng không để tâm tới những bức tường chật hẹp hai bên. Cầu thang này vốn chẳng rộng rãi gì so với vai anh, thành thử cái túi đeo trên người cứ cọ quệt vào vách tường.

- Lẽ ra ông nên để cái túi lại trên kia - Sato góp ý.

- Không sao. - Langdon đáp, hoàn toàn không muốn cái túi rời khỏi tầm mắt mình. Anh nhớ tới gói nhỏ của Peter và chưa hình dung nổi nó liên quan thế nào với thứ gì đó ở tầng đáy này.

- Chỉ vài bước chân nữa thôi, - Anderson nói - Gần tới rồi.

Cả nhóm đi sâu hơn vào bóng tối, tách khỏi tầm ánh sáng của ngọn đèn duy nhất trên cầu thang. Khi rời chân khỏi bậc thang gỗ cuối cùng, Langdon cảm thấy sàn nhà dưới chân mình là nền đất.

Hành trình vào trung tâm Trái đất đây. Sato bước xuống sau anh.

Anderson giơ đèn lên, kiểm tra xung quanh. Tầng đáy không hẳn là một tầng nhà mà chỉ là một hành lang cực kỳ chật hẹp chạy vuông góc với cau thang. Anderson rọi đèn sang trái rồi sang phải. Langdon thấy lối đi chỉ dài khoảng 15 mét và có những cánh cửa gỗ nhỏ ở cả hai bên. Những cánh cửa sát nhau đến mức phòng ốc đằng sau chúng có lẽ không thể rộng hơn 3 mét.

Kho lưu trữ ACME 1 kết hợp với hầm mộ Domatilla 2, Langdon nghĩ thầm trong khi Anderson xem tấm sơ đồ. Cái phần nhỏ xíu mô tả tầng đáy được đánh dấu X để chỉ vị trí của SBB13. Langdon nhận thấy bố cục khu này rất giống một lăng tẩm với mười bốn ngôi mộ chạy thành hai hàng đối diện nhau, mỗi bên bảy mộ, song có một khoang bị bỏ đi để lấy chỗ bố trí cái cầu thang mà họ vừa theo xuống.

Tổng cộng là mười ba.

Anh ngờ rằng "mười ba" nhà lý luận của nước Mỹ sẽ tranh luận gay gắt nếu họ biết rằng có đúng mười ba gian phòng kho bên dưới Điện Capitol. Nhiều người cứ băn khoăn không hiểu vì sao Quốc ấn của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có đúng 13 ngôi saio, 13 mũi tên, 13 bậc kim tự tháp, 13 đường sọc trên tấm khiên, 13 chiếc lá ô liu, 13 quả ô liu. 13 chữ cái trong dòng chữ annuit coeptis ("Người phê chuẩn nhiệm vụ của chúng ta"), 13 chữ cái trong dòng chữ e pluribus unum ("Trong rất nhiều, có một"), và nhiều nhiều nữa.

- Bị bỏ hoang hay sao ấy, - Anderson nói, rọi quầng sáng đèn vào gian phòng ngay trước mặt họ. Cánh cửa gỗ nặng nề mở toang.

Quầng sáng soi rõ một gian phòng bằng đá rất hẹp, khoảng 3 mét chiều rộng và 9 mét chiều sâu, tương tự một lối đi cụt không dẫn tới đâu cả. Gian phòng chẳng có gì ngoài vài cái thùng gỗ cũ nát và mấy mảnh giấy bọc đồ nhàu nhĩ.

Anderson rọi đèn lên tấm biển đồng gắn trên cửa. Tấm biển toàn gỉ đồng, nhưng vẫn có thể đọc được các chữ: SBB IV

- SBB Bốn, - anh ta nói.

- Thế SBB13 ở đâu? - Sato hỏi, có vài làn hơi uốn lượn toả ra từ miệng bà ta do không khí lạnh lẽo ở tầng này.

Anderson xoay ánh đèn về đầu phía nam của hành lang.

- Đằng kia.

Langdon nhìn xoáy vào lối đi hẹp và rùng mình, cảm thấy vã mồ hôi mặc dù ở đây khá lạnh.

Họ đi qua cả dãy ô cửa, tất cả các phòng trông đều giống nhau, cửa khép hờ, rõ ràng là bị bỏ phế từ lâu. Đến cuối dãy, Anderson xoay sang phải, nhấc đèn rọi thẳng vào phòng SBB13. Tuy nhiên, quầng sáng đèn pin bị chặn lại bởi cánh cửa gỗ nặng nề.

Không như các phòng khác, cửa phòng SBB13 đóng chặt.

Cánh cửa cuối cùng này trông giống hệt những cửa khác - bản lề to nặng, tay nắm bằng thép, và biển số bằng đồng đã gỉ xanh. Bảy chữ cái nằm trên biển số đúng là những chữ cái trên bàn tay Peter.

SBB XIII

Xin hãy bảo rằng cửa bị khoá đi, Langdon nhủ thầm.

Sato nói không do dự.

- Thử mở xem nào.

Viên Chỉ huy cảnh sát lộ vẻ miễn cưỡng, nhưng vẫn bước tới, nắm lấy tay nắm thép to nặng và kéo nó xuống. Tay nắm không nhúc nhích. Anh ta rọi đèn, soi rõ một ổ khoá kiểu cũ rất to.

- Thử bằng chìa chính xem, - Sato gợi ý.

Anderson xỏ chiếc chìa khoá mở cánh cửa lối vào ở phía trên, nhưng nó không vừa.

- Tôi lầm chăng, - Sato nói, giọng đầy cay nghiệt - hay lực lượng An ninh các anh không cần tiếp cận được mọi ngóc ngách của một toà nhà trong trường hợp khẩn cấp?

Anderson thở hắt ra và nhìn lại Sato.

- Thưa bà, người của tôi đang tìm chìa khoá phụ, nhưng…

- Bắn vỡ ổ khoá đi, - Sato ra lệnh, hất đầu về phía ổ khoá phía dưới tay nắm.

Mạch đập của Langdon như vọt lên.

Anderson hắng giọng, nói một cách khó khăn.

- Thưa bà, tôi đang đợi thông báo về chiếc chìa khoá phụ. Tôi chắc là phá tung lối vào thì không dễ…

- Thế ngồi tù vì cản trở cuộc điều tra của CIA thì dễ hơn chăng?

Anderson có vẻ bàng hoàng. Sau một lúc lâu. anh miễn cưỡng đưa đèn cho Sato và rút súng ra.

- Đợi đã! - Langdon lên tiếng, thấy không thể cứ thờ ơ đứng ngoài được nữa - Nghĩ kỹ đi. Peter đã phải hy sinh cả một bàn tay chứ không chịu tiết lộ thứ gì đằng sau cánh cửa. Các vị có chắc rằng chúng ta cần làm thế này không? Phá khoá một cánh cửa chỉ để đáp ứng yêu cầu của một tên khủng bố.

- Ông có muốn cứu Peter Solomon không? - Sato hỏi.

- Dĩ nhiên, nhưng…

- Vậy thì tôi đề nghị ông làm đúng những gì gã bắt cóc đòi hỏi.

- Mở một cánh cổng cổ ư? Bà nghĩ đây là cánh cổng chắc?

Sato rọi đèn vào mặt Langdon.

- Thưa Giáo sư, tôi không biết nó là cái quái gì. Cho dù đây là phòng kho hay lối vào bí mật của một kim tự tháp cổ thì tôi vẫn định mở nó ra. Tôi nói thế đủ rõ chưa?

Langdon nheo mắt vì chói sáng và gật đầu.

Sato hạ đèn xuống, rọi vào ổ khoá cũ kỹ trên cánh cửa.

- Chỉ huy! Tiến hành đi.

Chừng như vẫn băn khoăn trước kế hoạch này, Anderson rút khẩu súng rất chậm, và đăm đăm nhìn nó với vẻ do dự.

- Ôi lạy Chúa! - Sato vươn bàn tay nhỏ bé giật lấy vũ khí của Anderson, đoạn nhét đèn pin vào bên tay để không của anh - Rọi đèn đi.

Cầm khẩu súng với vẻ tự tin của một người đã được huấn luyện về vũ khí. Sato lanh lẹ bật chốt an toàn, lên đạn và nhằm vào ổ khoá.

- Đợi đã!- Langdon kêu lên, nhưng đã quá muộn.

Súng nổ ba phát.

Langdon cảm giác màng nhĩ vỡ tung. Bà ta điên rồi?! Tiếng súng ở không gian chật hẹp nghe thật đinh tai nhức óc.

Anderson cũng chấn động không kém, anh ta run run rọi đèn lên cánh cửa đầy vết đạn.

Ổ khoá đã bung, phần gỗ xung quanh vỡ nát. Khoá mở, cánh cửa cũng hé ra.

Sato chĩa súng lên và ấn đầu nòng vào cửa, đẩy mạnh. Cánh cửa bật vào khoảng tối đen phía trong.

Langdon căng mắt nhìn nhưng chẳng thấy gì. Cái mùi quái quỷ gì thế nhỉ? Một mùi hôi thối khác lạ thoát ra từ bóng tối.

Anderson bước vào ô cửa và rọi đèn lên sàn, thận trọng lần theo suốt dọc chiều dài phần nền bẩn thỉu. Gian phòng này cũng dài và hẹp như những phòng khác. Tường xây bằng đá gồ ghề, làm cho căn phòng phảng phất không khí một buồng giam cổ xưa. Nhưng cái mùi đó…

- Chẳng có gì ở đây cả, - Anderson nhận xét, di chuyển quang sáng đèn xa thêm trên sàn. Cuối cùng, khi ánh sáng chạm tới cuối phòng, viên Chỉ huy nâng cao nó lên để rọi được cả bức tường xa nhất.

- Chúa ơi…! - anh ta thét.

Tất cả mọi người cùng trông theo và nhảy lùi lại.

Langdon trân trối nhìn chỗ sâu nhất của gian phòng, không sao tin nổi vào mắt mình.

Trước vẻ hãi hùng của anh, một thứ cũng đang trừng trừng nhìn lại.

--- ------ ------ ------ -------

1 Tập đoàn Acme hay Công ty sản xuất mọi thứ là một doanh nghiệp hư cấu tồn tại trong nhiều phim hoạt hình, nổi tiếng với những sản phẩm cực kỳ nguy hiểm và kỳ quặc thường gặp sự cố vào đúng những thời khắc tồi tệ nhất. Tên Acme mang tính châm biếm vì từ acme xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là đỉnh cao - ND.

2 Hầm mộ Domifilla (đặt theo tên Thánh Domitilla) là một trong những hầm mộ rất lớn và ấn tượng, chạy dài 15 km dưới lòng đất ở Rome. Đây là hệ thống hầm mộ cổ nhất và cũng là nơi duy nhất còn thấy hài cốt. Trên các lối đi còn có một bức tranh tường từ thế kỷ II mô tả Bữa tiệc ly và nhiều hiện vật giá trị khác. Cuối cùng, đây là hầm mộ duy nhất có một nhà thờ ngầm dưới đất, lối vào hầm mộ phải đi qua nhà thờ có từ thế kỷ thứ IV này - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 36

- Lạy Chúa lòng lành…? - Anderson giật lui một bước ở ngưỡng cửa, ánh đèn chới với.

Langdon cũng bật ngược trở lại, giống hệt Sato, người giật mình lần đầu trong buổi tối hôm nay.

Sato chĩa khẩu súng về phía bức tường hậu và ra hiệu cho Anderson rọi đèn lần nữa. Viên Chỉ huy nhấc đèn lên. Quầng sáng mờ dần khi chạm tới bức tường phía xa, nhưng ánh sáng vẫn đủ soi rõ hình dáng một gương mặt ma quái và vàng vọt, trừng trừng nhìn lại họ qua hốc mắt trống rỗng.

Một cái sọ người.

Cái sọ nằm trên một cái bàn gỗ ọp ẹp kê dựa vào bức tường hậu của gian phòng. Hai đoạn xương ống chân nằm bên cạnh cái sọ, cùng với một vài thứ được bố trí có chủ định trên bàn như ở một nơi thờ cúng - một cái đồng hồ cát cổ, một cái bình thót cổ bằng pha lê, một cây nến, hai cái đĩa đựng thứ bột nhờ nhờ, và một tập giấy. Đứng dựa vào tường bên cạnh cái bàn là hình dáng đáng sợ của một lưỡi hái dài, với phần lưỡi cong quen thuộc.

Sato bước vào phòng.

- Chà… xem ra Peter Solomon cất giữ nhiều bí mật hơn tôi tưởng.

Anderson gật đầu, tiến theo sát bà ta.

- Tàng trữ xương cốt trong phòng riêng - Anh ta nhấc cao đèn và soi khắp không gian còn lại của căn phòng trống - Lại còn cái mùi đó? anh ta nói thêm, mũi nhăn lại - Gì thế nhỉ?

- Lưu huỳnh - Langdon đáp từ phía sau - Có hai cái đĩa trên bàn. Đĩa bên phải đựng muối. Đĩa kia đựng lưu huỳnh.

Sato quay ngoắt lại, vẻ nghi ngờ.

Làm thế quái nào mà ông biết điều đó?

- Bởi vì, thưa bà, có những căn phòng giống hệt thế này ở khắp nơi trên thế giới.

° ° °

Trên họ hai tầng, nhân viên an ninh Nunez đang tháp tùng Kiến trúc sư Điện Capitol, Warren Bellamy, đi dọc hành lang chạy hết chiều dài tầng hầm phía đông. Nunez dám khẳng định anh vừa nghe thấy ba phát súng dưới lòng đất. Không thể xảy ra chuyện đó được.

- Cửa xuống tầng đáy đang mở, - Bellamy nói, nheo mắt nhìn dọc hành lang tới một cánh cửa he hé ở phía xa.

Một buổi tối kỳ lạ, Nunez nghĩ bụng. Chẳng ai xuống đó cả.

- Tôi rất mừng nếu biết chuyện gì đang diễn ra. - anh ta nói, lần tay lấy bộ đàm.

- Quay lại vị trí của anh đi, - Bellamy ra lệnh - Từ đây, tôi tự xoay xở được!

Nunez chần chừ.

- Ngài chắc chứ?

Warren Bellamy dừng lại, đặt một bàn tay rắn chắc lên vai Nunez.

- Con trai, ta đã làm việc ở Điện Capitol hai mươi lăm năm rồi. Ta nghĩ ta có thể tự tìm được lối đi.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 37

Trong đời mình, Mal’akh đã từng nhìn thấy một vài không gian kỳ quái, nhưng rất ít nơi ganh đua được với thế giới bất phàm của Khoang 3. Thuỷ trì. Trông như thể một nhà khoa học điên khùng đã chiếm lấy siêu thị Walmart và chất các bình mẫu vật đủ hình đủ dạng lên mọi giàn và giá đựng đồ để tạo ra hiện trạng của căn phòng rộng mênh mông này. Với kiểu chiếu sáng như trong phòng rửa ảnh, Khoang 3 tràn ngập thứ "ánh sáng an toàn" màu đỏ nhờ nhờ phát ra từ bên dưới các giá đỡ, toả ngược lên trên và soi thẳng tới những bình chứa đựng đầy ethanol. Mùi hoá chất bảo quản khiến người ta buồn nôn.

- Khoang này chứa hơn 20.000 mẫu vật. - cô gái mũm mĩm giới thiệu - Cá, động vật gặm nhấm, động vật có vú, bò sát.

- Tôi hy vọng tất cả đều chết hẳn rồi chứ? - Mal’akh hỏi, cố tỏ ra lo lắng.

Cô gái cười.

- Vâng, vâng. Tất cả đều chết rồi. Nhận việc ở đây xong, suốt sáu tháng đầu tôi không dám bước vào phòng này đấy.

Mal’akh có thể hiểu lý do tại sao. Nhìn đến đâu cũng chỉ thấy tiêu bản của đủ mọi loại sinh vật đã chết - kỳ nhông, sứa, chuột, sâu bọ, chim, và nhiều giống khác mà gã không xác định được. Chừng như sợ bản thân bộ sưu tập còn chưa đủ kinh dị, người ta mới lắp những ngọn đèn đỏ nhờ nhờ kia. Chúng giữ cho các mẫu vật nhạy sáng nọ không bị ánh sáng trực tiếp chiếu vào quá lâu, khiến khách tham quan có cảm giác mình đang đứng trong một bể thuỷ sinh khổng lồ, xung quanh là bóng tối với các sinh vật vô hồn đang âm thầm theo dõi.

- Kia là một con cá vây tay, - Trish giới thiệu và trỏ một bình chứa bằng Plexiglas rất lớn đựng con cá xấu xí nhất mà Mal’akh từng nhìn thấy - Người ta cứ nghĩ loài này đã tuyệt chủng cùng với khủng long, nào ngờ mấy năm trước có người lại tìm được nó ngoài khơi châu Phi và chuyển tặng cho viện Smithsonian.

May cho cô đấy, Mal’akh nghĩ, hầu như chẳng buồn nghe. Gã còn bận lướt nhìn các bức tường để tìm kiếm máy quay an ninh. Gã mới nhìn thấy một cái - bố trí ngay ở cửa chính - không có gì lạ bởi vì cửa là lối ra vào duy nhất ở đây.

- Còn kia là thứ anh muốn xem… - Trish nói, dẫn Mal’akh tới cái bể khổng lồ mà gã nhìn thấy từ cửa sổ - Tiêu bản dài nhất của chúng tôi - Cô dang rộng cánh tay để mô tả con vật kinh khủng, chẳng khác gì người dẫn chương trình đang giới thiệu một chiếc xe hơi mới - Một con Architeuthis.

Bể chứa con mực trông giống một loạt buồng kính điện thoại được đặt nghiêng và đục thông với nhau. Bên trong cỗ quan tài bằng Plexiglas trong suốt, dài thượt này là một hình dáng nhợt nhạt và khó xác định Mal’akh trân trối ngó cái đầu hình củ hành và đôi mắt to bằng quả bóng rổ.

- Thứ này khiến cho con cá vây tay của cô trông vẫn còn hấp dẫn chán, - gã nhận xét.

- Cứ đợi tới lúc anh nhìn phần tua của nó nhé!

Trish lật phần nắp bể lên. Mùi ethanol ùa ra khi cô nhoài người vào bể và bật một cái công tắc ngay phía trên vạch chất lỏng. Một dãy đèn huỳnh quang nhấp nháy sáng lên dọc theo toàn bộ phần đáy bể. Con Architeuthis liền hiện ra với toàn bộ vẻ rực rỡ của nó - một cái đầu khổng lồ gắn vào khối thân đồ sộ trơn trượt gồm toàn những xúc tu và giác hút sắc như dao cạo.

Trish bắt đầu kể một con Architeuthis có thể đánh gục một con cá voi như thế nào.

Mal’akh hờ hững nghe.

Đã đến lúc rồi.

° ° °

Mỗi lần vào Khoang 3, Trish Dunne lại cảm thấy hơi bất an, nhưng cảm giác ớn lạnh vừa chạy qua người cô rất khác lạ.

Rất bản năng. Rất nguyên thuỷ.

Trish cố gắng phớt lờ, nhưng nó mau chóng nổi lên rõ rệt và bám riết lấy cô. Mặc dù không xác định nổi căn nguyên nỗi lo lắng của mình, nhưng linh tính mách bảo Trish rằng đã đến lúc phải rời khỏi nơi này.

- Dẫu sao đó cũng chỉ là con mực, - cô kết luận, tiến lại bể và tắt đèn - Có lẽ chúng ta nên vào chỗ Katherine…

Một bàn tay to lớn bịt cứng lấy miệng Trish, giật mạnh đầu cô ra sau. Ngay lập tức, một cánh tay chắc khỏe siết lấy cổ cô, ép mạnh cô vào một bộ ngực cứng như đá. Trong khoảng khắc, Trish đờ đẫn vì bất ngờ.

Tiếp đến là nỗi kinh hãi.

Gã kia đưa tay sờ soạng ngực Trish, tóm lấy tấm thẻ từ và giật ra. Dây đeo miết vào gáy cô bỏng rát trước khi đứt tung. Chiếc thẻ rơi xuống sàn ngay dưới chân họ. Trish vùng vẫy, cố gắng thoát thân, nhưng bàn tay gã nọ vẫn bịt chặt miệng cô. Gã cúi xuống và ghé sát miệng vào tai cô, thì thào.

- Khi anh buông tay khỏi miệng cưng, cưng không được kêu, rõ chưa?

Trish cuống quít gật đầu, phổi như rách toang vì thiếu không khí.

Mình ngạt thở quá!

Gã đàn ông bỏ tay khỏi miệng Trish, và cô há miệng, hít thật sâu.

- Hãy để cho tôi đi? - cô hổn hển van nài - Anh làm gì vậy?

- Cho anh biết số PIN của cưng nào, - gã đàn ông nói.

Trish hoàn toàn bối rối. Katherine! Giúp em! Gã đàn ông này là ai?!

- Bảo vệ có thể nhìn thấy anh đấy! - cô nói, nhưng biết rõ rằng họ ở ngoài tầm nhìn của các máy quay. Không có ai đang quan sát cả.

- Số PIN của cưng, - gã đàn ông nhắc lại - Số PIN khớp với thẻ của cưng ấy.

Nỗi sợ hãi lạnh buốt xâm chiếm ruột gan Trish, cô quẫy đạp dữ dội, vùng vẫy cánh tay còn tự do và cào lên mắt gã đàn ông. Những ngón tay của cô chạm vào thịt và cào sâu một bên má. Bốn vết rách thẫm màu lộ ra trên da thịt gã. Khi đó, cô nhận ra những vết thẫm màu trên da thịt gã kia không phải là máu. Cô vừa cào rách lớp mặt nạ hoá trang của gã, để lộ ra những hình xăm xám xịt phía dưới.

Con quái vật này là ai? Với sức mạnh kinh người, gã đàn ông xoay mạnh Trish và nhấc bổng cô lên, giơ cô lơ lửng phía trên cái bể ngâm mực khổng lồ vẫn để ngỏ. Khuôn mặt cô gần sát với dung dịch ethanol. Mùi hoá chất xộc vào mũi cô bỏng rát.

- Số PIN của mày là gì? - gã kia nhắc lại.

Mắt Trish cay xè, cái xác tái nhợt của con mực nằm chìm phía dưới, rất gần mặt cô.

- Nói cho tao biết, - gã đàn ông ra lệnh, hạ Trish xuống sát mặt dung dịch - Là gì nào?

Cổ họng Trish rát bỏng.

- Không-tám-không-bốn! - cô nói vội, gần như nghẹt thở - Hãy thả tôi ra! Không-tám-không-bốn!

- Mày nói dối, - gã đàn ông đe doạ, hạ tay xuống thấp hơn nữa khiến tóc Trish chạm vào ethanol.

- Tôi không nói dối! - cô đáp và ho sặc sụa - Mùng 4 tháng Tám! Đó là sinh nhật tôi!

- Cảm ơn nhé, Trish.

Hai bàn tay rất khỏe của gã đàn ông nghiến chặt vào đau Trish, và một sức mạnh kinh người ấn mạnh cô xuống thấp, làm mặt cô ngập vào làn bể. Hai mắt cô bỏng rát. Gã đàn ông nhấn mạnh hơn, khiến cả đầu cô gái chìm hẳn trong dung dịch ethanol. Trish cảm thấy mặt mình áp vào cái đầu con mực.

Thu hết sức lực trong người, cô quẫy đạp dữ dội, cong người về phía sau, cố gắng nhấc đầu mình lên khỏi bể dung dịch. Nhưng hai bàn tay chắc khỏe kia vẫn không nhúc nhích.

Mình phải thở

Vẫn chìm trong dung dịch, Trish cố gắng không mở mắt và miệng, cố gắng không hít vào, dù hai phổi đau rát. Không. Đừng! Nhưng cuối cùng phản xạ hô hấp của Trish đã thắng thế.

Miệng cô há ra, hai lá phổi mở căng hết cỡ, hối hả hút lấy dưỡng khí mà cơ thể đang cần. Dòng ethanol cuồn cuộn ộc vào miệng cô.

Khi các hoá chất xộc tới phổi, Trish cảm nhận một cơn đau đớn chưa từng hình dung nổi trong đời. Thật may, nó chỉ kéo dài vài giây trước khi thế giới quanh cô vụt tắt.

° ° °

Mal’akh đứng cạnh bể, thở dốc và xem xét hiện trường.

Người phụ nữ bất động nằm gục trên thành bể, mặt vẫn chìm trong ethanol. Nhìn xác cô gái. Mal’akh chợt nhớ lại một người phụ nữ khác từng bị gã sát hại.

Isabel Solomon.

Đã lâu lắm rồi. Một sinh mạng khác.

Mal’akh chòng chọc nhìn cái xác mềm nhũn. Rồi gã ôm lấy hông Trish và dùng chân kê, nhấc cô lên, đẩy vào qua mép bể. Trish Dunne trượt xuống dung dịch ethanol, đầu trước, thân sau, và rơi tùm xuống. Mặt nước lắng dần, chỉ còn thấy cô gái nổi lập lờ phía trên sinh vật biển khổng lồ kia. Khi lớp quần áo ngấm dung dịch và nặng dần, Trish bắt đầu chìm xuống lòng bóng tối, từng chút, từng chút một, cuối cùng nằm yên phía trên con mực.

Mal’akh lau tay và đậy nắp Plexiglas, khoá bể lại.

Thuỷ trì có thêm một mẫu vật mới.

Gã nhặt chiếc thẻ trên sàn và đút vào túi: 0804.

Lúc mới nhìn thấy Trish ở sảnh. Mal’akh cho rằng cô là một trở ngại. Sau đó, gã nhận ra tấm thẻ và mã PIN của cô chính là những yếu tố bảo đảm cho âm mưu của gã. Nếu phòng lưu trữ dữ liệu được bảo vệ đúng như Peter nói thì sẽ hơi khó khăn để thuyết phục Katherine mở ra. Giờ thì ta đã có chìa khoá. Gã rất hài lòng vì không phải phí thời gian phỉnh phờ Katherine làm theo ý gã nữa.

Lúc đứng thẳng lên. Mal’akh nhìn thấy bóng mình phản chiếu trong ô cửa sổ, với lớp hoá trang đã bị cào rách nát. Nhưng chẳng sao.

Khi Katherine hiểu ra mọi việc thì đã quá muộn rồi.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 38

- Phòng này là của Hội Tam điểm ư? - Sato hỏi, rời mắt từ cái đầu lâu sang phía Langdon.

Langdon thản nhiên gật đầu.

Người ta gọi nó là Gian buồng Suy niệm. Những căn phòng loại này được thiết kế như những nơi rất lạnh lẽo, giản đơn để cho một hội viên Tam điểm có thể suy niệm về cái chết của chính mình. Bằng cách ngồi thiền định, ngẫm nghĩ về tính tất yếu của cái chết, một hội viên Tam điểm có thể ngộ ra nhiều điều rất giá trị về bản chất của cuộc sống.

Sato nhìn quanh một lượt cái không gian quái dị này, rõ ràng là chưa tin tưởng lắm.

Đây là một dạng phòng thiền ư?

Hoàn toàn đúng. Những gian buồng này luôn chứa cùng một loại biểu tượng: đầu lâu và xương bắt chéo, lưỡi hái, đồng hồ cát, lưu huỳnh, muối, giấy trắng, nến và vài thứ khác. Các biểu tượng của cái chết gợi cho hội viên Tam điểm nhiều suy nghĩ, xem sống thế nào cho tốt khi còn tồn tại trên cõi đời này.

Trông cứ như một miếu thờ thần chết vậy, - Anderson nói.

Đó cũng là một nhận định.

Hầu hết các sinh viên môn biểu tượng học của tôi đều có chung một phản ứng ban đầu - Langdon thường gợi ý họ đọc cuốn Các biểu tượng Của Hội Tam điểm do Beresniak soạn, trong đó có những bức ảnh rất đẹp về các Gian phòng Suy niệm.

- Và sinh viên của ông không hề kinh hãi khi biết các hội viên Tam điểm ngồi thiền với đầu lâu và lưỡi hái? - Sato gặng hỏi.

- Cũng không kinh hãi hơn là bao so với cảnh tín đồ Thiên Chúa giáo cầu nguyện dưới chân người bị đóng đinh thập giá, hay tín đồ Hindu tụng kinh trước mặt vị thần voi bốn tay Ganesh. Việc hiểu sai các biểu tượng của một nền văn hoá là nguyên nhân phổ biến gây ra sự kỳ thị.

Sato quay đi, rõ ràng là không hứng thú lắm tới bài giảng. Bà ta tiến về phía chiếc bàn. Anderson cố gắng rọi đèn theo, nhưng quầng sáng bắt đầu mờ dần. Anh ta vỗ vỗ vào đế đèn để làm cho nó sáng hơn một chút.

Ba người tiến sâu hơn vào khoảng không gian chật hẹp. Mùi lưu huỳnh cay xè xộc vào lỗ mũi Langdon. Tầng đáy rất ẩm ướt, và hơi ẩm trong không khí chính là tác nhân kích thích lưu huỳnh. Sato đến bên chiếc bàn và đăm đăm nhìn xuống cái sọ cùng những đồ vật đi kèm. Anderson theo chân bà ta, cố hết sức soi rọi chiếc bàn bằng ánh sáng đang mờ dần của chiếc đèn pin.

Sato kiểm tra mọi thứ trên bàn rồi chống tay lên hông, thở dài.

- Cái đống đồng nát này là gì nhỉ?

Langdon biết rằng đồ vật trong căn phòng này được lựa chọn và bài trí rất tỉ mỉ.

- Là các biểu tượng của quá trình biến cải. - anh giải thích, cảm thấy gò bó khi tiến tới và cùng đứng với hai người kia bên chiếc bàn - Đầu lâu là biểu tượng cho quá trình cải biến cuối cùng của con người thông qua giai đoạn phân rã, nó cũng nhắc nhở rằng một ngày nào đó tất cả chúng ta đều sẽ trút bỏ xác thịt. Lưu huỳnh và muối là các chất xúc tác giả kim để thúc đẩy quá trình này. Đồng hồ cát tượng trưng cho sức mạnh khả biến của thời gian - Anh trỏ cây nến không cháy - Thứ này đại diện cho ngọn lửa nguyên sơ và việc đánh thức con người khỏi giấc ngủ mê muội của mình, đó là một quá trình thay đổi thông qua khai sáng.

- Thế thứ kia? - Sato hỏi, tay trỏ vào góc.

Anderson xoay cây đèn pin về phía lưỡi hái to tướng đứng dựa vào bức tường hậu.

- Không phải là biểu tượng của cái chết như nhiều người lầm tưởng, - Langdon nói - Lưỡi hái thực ra là một biểu tượng cho sự nuôi dưỡng của trời đất, người ta dùng nó để thu hoạch những món quà tự nhiên.

Sato và Anderson đều im lặng, rõ ràng là đang cố ghi nhận không gian kỳ quặc xung quanh.

Langdon chỉ muốn rời khỏi đây thật mau.

- Căn phòng có vẻ dị thường với các vị, - anh bảo họ - nhưng chẳng có gì để xem ở đây cả, thật sự thì nó rất bình thường. Vô khối nơi hội họp của Hội Tam điểm cũng có những căn buồng giống hệt thế này.

- Nhưng đây không phải là nơi hội họp của Hội Tam điểm! - Anderson tuyên bố - Đây là Điện Capitol, và tôi muốn biết căn phòng này có tác dụng quái quỷ gì trong toà nhà của tôi.

- Đôi khi các hội viên Tam điểm bố trí riêng những không gian này trong văn phòng hoặc tư gia của mình để làm nơi thiền định. Chuyện đó không phải là hiếm - Langdon biết một bác sĩ mổ tim ở Boston đã biến một ngăn nhỏ trong văn phòng mình thành Gian buồng Suy niệm để suy ngẫm về cái chết trước khi tiến hành ca phẫu thuật.

Sato có vẻ bồn chồn.

- Ý ông là Peter Solomon xuống đây để suy niệm về cái chết ư?

- Thật sự thì tôi không biết, - Langdon thành thực đáp - Có lẽ ông ấy tạo ra gian phòng này cho các huynh đệ Tam điểm đang làm việc trong toà nhà, dành cho họ một không gian tinh thần tách biệt hẳn với những hỗn loạn của thế giới trần tục… một nơi để nhà làm luật quyền thế suy niệm trước khi đưa ra những quyết định gây ảnh hưởng đến người khác.

- Một tình cảm đáng trân trọng, - Sato nói giọng mỉa mai - nhưng tôi có cảm giác dân Mỹ sẽ thấy bất ổn khi biết các nhà lãnh đạo của mình ngồi cầu nguyện trong mấy gian buồng chứa lưỡi hái và đầu lâu.

Ồ, không hề, Langdon nghĩ thầm và tin rằng thế giới sẽ khác hẳn nếu có nhiều nhà lãnh đạo dành thời gian suy ngẫm về ý nghĩa của cái chết trước khi phát động chiến tranh.

Sato bĩu môi và cẩn thận xem xét tất cả bốn góc gian buồng.

- Dứt khoát phải có gì đó ở chỗ này ngoài đống xương người và mấy cái bát hoá chất, thưa Giáo sư. Có kẻ đưa ông từ nhà riêng ở Cambridge tới đây chỉ để có mặt trong gian buồng này mà.

Langdon nắm chặt cái túi đeo bên sườn, vẫn không hiểu nổi gói nhỏ anh mang theo có liên hệ gì với gian buồng này.

- Thưa bà, tôi xin lỗi, nhưng tôi không thấy có gì khác thường ở đây cả - Langdon hy vọng rằng cuối cùng họ cũng có thể tiến hành việc tìm kiếm Peter.

Ánh đèn của Anderson lại chập chờn, và Sato quay phắt về phía anh ta, lộ rõ vẻ cáu kỉnh.

- Trời đất ơi, phiền phức ghê! - Bà ta thọc tay vào túi và lôi ra một cái bật lửa hút thuốc. Bật lửa lên, bà ta giơ tay thắp ngọn nến để trên bàn. Bấc nến nổ lách tách và cháy sáng, toả ra thứ ánh sáng ma quái trong không gian ngột ngạt này. Những cái bóng dài nhảy nhót trên tường đá. Khi ngọn lửa sáng hơn, một cảnh tượng bất ngờ hiện ra trước mắt họ.

- Nhìn kìa! - Anderson nói và giơ tay chỉ.

Dưới ánh nến, họ nhìn thấy một bức tranh graffiti đã mờ, nội dung là bảy chữ cái viết hoa nguệch ngoạc chạy suốt bức tường hậu:

VITRIOL

- Từ ngữ gì mà vớ vẩn thế, - Sato lên tiếng trong khi ánh nến chiếu rõ một cái bóng đáng sợ hình đầu lâu vắt ngang dãy chữ cái.

- Nói cho đúng thì đó là một cụm từ viết tắt. - Langdon nói - Nó được viết trên tường hậu của hầu hết những gian buồng kiểu này, một dạng tốc ký của câu thần chú thiền định của Hội Tam điểm: Visita interiora terrae, rectificando invenies occultum lapidem

Sato nhìn anh, vẻ rất thán phục.

- Nghĩa là gì?

- Hãy ghé thăm lòng đất, và bằng cách chỉnh sửa. anh sẽ tìm thấy hòn đá được cất giấu.

Ánh mắt Sato sáng ngời.

- Thế hòn đá được cất giấu có liên hệ gì với một kim tự tháp được giấu kín không nhỉ?

Langdon nhún vai, không muốn gợi ra sự so sánh.

- Những kẻ thích thêu dệt về kim tự tháp bí mật ở Washington sẽ bảo bà rằng occultum lapidem là nói đến kim tự tháp đá. Những người khác sẽ bảo nó ám chỉ Hòn đá Triết học - một chất mà các nhà giả kim tin rằng có thể mang lại cho họ cuộc sống vĩnh hằng hoặc biến chì thành vàng. Những người khác nữa thì lại bảo nó nhắc đến Điện Thánh, một gian phòng bằng đá được giấu kín ở trung tâm Đại Đền 1. Một số lại nói nó mang ý nghĩa Thiên Chúa giáo, chỉ những lời dạy được giấu kín của Thánh Peter. Tất cả các truyền thống bí truyền đều diễn giải "hòn đá" theo cách của mình, nhưng occultum lapidem luôn là một nguồn sức mạnh và sự khai sáng.

Anderson hắng giọng.

- Có thể Solomon nói dối gã điên kia? Biết đâu ông ấy bảo gã rằng dưới này có gì đó… song thật sự là chẳng có gì.

Langdon cũng đang có những ý nghĩ tương tự.

Đột nhiên, ánh nến chao đảo như bị gió tạt. Nó lụi đi trong chốc lát rồi cháy sáng trở lại.

- Chết rồi. - Anderson nói - Tôi hy vọng không ai đóng lối cửa cầu thang - Anh ta sải bước khỏi gian buồng và tiến ra hành lang tăm tối - Ai đấy?

Langdon không để ý nhìn anh ta đi ra. Mắt anh đột nhiên bị hút vào bức tường hậu. Cái gì thế nhỉ?

- Ông trông thấy không? - Sato hỏi, mắt cũng đăm đăm nhìn bức tường.

Langdon gật đầu, tim đập rộn lên. Mình vừa nhìn thấy cái gì nhỉ?

Chỉ mới khoảng khắc trước đó, bức tường hậu dường như lung lay, cứ như thể có một làn sóng năng lượng quét qua nó.

Giờ Anderson lại sải bước vào phòng.

- Không có ai ngoài kia - Khi anh ta bước vào, bức tường lại lay động - Trời ơi! - anh ta kêu lên và nhảy bật trở lại.

Cả ba đứng bất động một lúc lâu, trân trối nhìn bức tường hậu. Langdon cảm thấy cơn ớn lạnh chạy suốt toàn thân khi nhận ra những gì vừa nhìn thấy. Anh ngập ngừng vươn tay, cho tới khi đầu ngón tay chạm vào bề mặt bức tướng hậu của gian buồng.

- Không phải là tường, - anh nói.

Anderson và Sato bước lại gần hơn, chăm chú nhìn.

- Nó là một tấm toan, - Langdon nói.

- Nhưng nó gợn sóng, - Sato nói nhanh.

Phải, một cách rất kỳ lạ. Langdon kiểm tra lại bề mặt tấm toan.

Lớp óng ánh trên mặt toan đã khúc xạ lại ánh nến một cách rất lạ bởi vì tấm toan vừa gợn sóng lùi xa khỏi căn phòng… bay về phía sau qua mặt phẳng bức tường hậu.

Langdon duỗi các ngón tay rất nhẹ nhàng ấn lớp toan về phía sau.

Giật mình, anh rụt phắt tay lại. Có một chỗ hổng!

- Kéo sang một bên đi, - Sato ra lệnh.

Tim Langdon đập loạn lên. Anh vươn tay và nắm lấy mép tấm toan, từ từ kéo lớp vải sang một bên. Anh trân trối nhìn những gì ẩn giấu sau đó, không tin nổi vào mắt mình. Lạy Chúa.

Sato và Anderson đứng lặng đờ khi nhìn qua chỗ hổng ở bức tường hậu.

Cuối cùng, Sato lên tiếng.

- Rõ ràng chúng ta đã tìm thấy kim tự tháp.

--- ------ ------ ------ -------

1 Theo quan niệm Do Thái, thế giới của Chúa rất vĩ đại và thiêng liêng. Mảnh đất thiêng liêng nhất trên thế giới là đất Israel. Ở Israel, thành phố thiêng liêng nhất là Jerusalem. Tại đây, nơi thiêng liêng nhất là Đại Đền, và trong Đại Đền, vị trí thiêng liêng nhất là Điện Thánh. Nơi này từng cất giữ hai tấm thẻ ghi lại Mười điều răn. Những tấm thẻ này đã biến mất khi người Babylon phá huỷ Đại Đền. Sau này, Điện Thánh chỉ là một gian phòng nhỏ, không có gì, nơi mỗi năm một lần, Đại Tư tế vào để thay mặt Israel cầu khấn Chúa Trời - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 39

Robert Langdon đăm đăm nhìn chỗ hổng ở bức tường hậu gian buồng. Ẩn sau tấm toan là một lỗ hổng vuông vức được trổ lõm vào tường. Chỗ hổng đó, mỗi chiều khoảng gần 1 mét, có vẻ như được tạo ra bằng cách gỡ bỏ một vài hàng gạch. Trong bóng tối. Langdon thoáng nghĩ cái lỗ đó là ô cửa sổ mở sang một gian buồng khác.

Còn giờ thì anh thấy không phải như vậy.

Chỗ hổng chỉ ăn sâu vào tường tầm 1 mét thì hết. Nhìn cái hốc khoét vội vàng. Langdon nhớ tới hốc tường được thiết kế để đặt một pho tượng trong viện bảo tàng, và ô tường này cũng bày một vật nhỏ nhắn vừa in.

Vật ấy cao khoảng 23 centimet, đẽo từ đá hoa cương đặc. Bề mặt nó láng bóng với bốn mặt được mài nhẵn, sáng rõ trong ánh nến.

Langdon không hiểu nổi nó có tác dụng gì ở đây. Một kim tự tháp bằng đá?

- Trông vẻ ngạc nhiên của ông, tôi đoán thứ này không hề phổ biến trong một Gian buồng Suy niệm - Sato lên tiếng, vẻ rất hả hê.

Langdon lắc đầu.

- Có lẽ ông nên xem xét lại những lời kể trước đây về truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm được cất giấu ở Washington chăng? - Giọng bà ta đầy tự mãn.

- Bà Giám đốc, - Langdon đáp trả tức thì - cái kim tự tháp nhỏ bé này không phải là Kim tự tháp Tam điểm.

- Nhưng trùng hợp làm sao khi chúng ta tìm thấy một kim tự tháp cất giấu tại trung tâm Điện Capitol, trong một gian phòng bí mật thuộc về một thủ lĩnh Hội Tam điểm?

Langdon dụi mắt và cố gắng suy nghĩ.

- Thưa bà, kim tự tháp này không giống truyền thuyết tí nào cả. Kim tự tháp Tam điểm được mô tả là rất lớn, với phần chóp đúc bằng vàng đặc.

Hơn nữa, Langdon biết rằng cái kim tự tháp nhỏ bé này - với đỉnh bằng phẳng - thậm chí còn không phải là một kim tự tháp đích thực. Không có chóp, nó chỉ là một biểu tượng khác mà thôi. Vẫn được biết đến bằng tên gọi Kim tự tháp Dang dở, nó là một biểu tượng nhắc nhở rằng hành trình tiến tới tiềm năng đầy đủ của con người luôn là một công việc đang phải thực hiện. Mặc dù ít người nhận ra, nhưng biểu tượng này là biểu tượng phổ biến nhất trên Trái đất. Hơn hai mươi tỉ bản in. Xuất hiện trên tất cả các tờ tiền 1 đô la đang lưu hành, Kim tự tháp Dang dở kiên nhẫn chờ đợi cái chóp sáng ngời của nó, nằm lơ lửng phía bên trên như lời nhắc nhở về định mệnh vẫn chưa hoàn thành của nước Mỹ, về công việc còn phải tiến hành, vừa với tư cách một quốc gia vừa với tư cách của những cá nhân.

- Nhấc nó xuống đi. - Sato bảo Anderson, mắt dán chặt vào cái kim tự tháp - Tôi muốn nhìn kỹ hơn - Bà ta bắt đầu dọn chỗ trên bàn bằng cách thô bạo gạt hết cái sọ và những khúc xương sang một bên.

Langdon bắt đầu cảm thấy họ như những kẻ cướp lăng mộ, mạo phạm linh đường của một con người.

Anderson thận trọng bước qua Langdon, chui vào trong hốc tường và bấu chặt hai bàn tay hộ pháp vào hai mặt kim tự tháp. Sau đó, cảm thấy khó nhấc lên được ở góc đứng bất tiện này, anh ta kéo cái kim tự tháp về phía mình và nặng nề hạ nó xuống mặt bàn gỗ, rồi lùi lại để nhường chỗ cho Sato.

Vị Giám đốc OS nhấc cây nến lại gần kim tự tháp và săm soi bề ngoài nhẵn bóng của nó. Bà ta chậm rãi rê những ngón tay nhỏ thó trên bề mặt, kiểm tra kỹ từng phân phần chóp bằng, và sau đó là các mặt. Bà ta vòng tay xung quanh để sờ phía sau, rồi cau mày vẻ thất vọng thấy rõ.

- Giáo sư, lúc trước ông nói người ta xây Kim tự tháp Tam điểm để bảo vệ các thông tin bí mật nhỉ!

- Truyền thuyết nói thế.

Vậy thì, giả sử kẻ bắt cóc Peter tưởng đây là Kim tự tháp Tam điểm, chắc chắn gã sẽ tin rằng nó chứa đựng những thông tin rất ghê gớm.

Langdon cau có gật đầu.

- Phải, cứ cho là hắn tìm thấy thông tin ấy thì nội dung cũng đã được mã hoá, và rất khó giải… trừ phi gặp được người thích hợp nhất.

- Nghĩa là sao?

Mặc dù càng lúc càng thấy sốt ruột nhưng Langdon vẫn trả lời bằng giọng từ tốn.

- Các kho báu trong truyền thuyết luôn được bảo vệ bằng các cuộc kiểm tra mức độ thích hợp. Như các vị còn nhớ, theo truyền thuyết Thanh gươm cắm trong đá, tảng đá không chịu nhả thanh gươm ra cho đến khi gặp Arthur, người được thiên định là sẽ đủ sức điều khiển sức mạnh ghê gớm của nó. Kim tự tháp Tam điểm dựa trên ý tưởng tương tự. Trong trường hợp này, thông tin là kho báu, và người ta nói rằng nó được viết bằng một ngôn ngữ mã hoá, một ngôn ngữ bí ẩn với những từ ngữ thất truyền, chỉ người thích hợp mới đọc được.

Môi Sato thoáng một nụ cười.

- Điều đó lý giải vì sao ông bị triệu tới đây tối nay.

- Xin lỗi tôi không hiểu?

Rất thản nhiên, Sato xoay tròn cái kim tự tháp tại chỗ, rồi xoay ngược nó lại đúng 180 độ. Mặt thứ tư của kim tự tháp được ánh nến chiếu rõ.

Robert Langdon tròn mắt nhìn với vẻ kinh ngạc.

- Xem ra, có kẻ tin rằng ông là người thích hợp - Sato nhận xét.
 
Bên trên