Biểu Tượng Thất Truyền

hoahongden12

Active Member

Nữ nhân viên lương thấp thuộc Phòng An ninh ưu tiên kiểm tra thật kỹ bảng ghi chép cuộc gọi để xác định địa chỉ ở Kalorama Heights. Phải đây không nhỉ? Lối xe chạy có cổng chắn trước mặt cô thuộc về một trong những khu nhà lớn nhất và yên tĩnh nhất địa bàn này, thành thử hơi lạ khi 911 lại nhận được một cuộc gọi khẩn cấp liên quan đến nó.

Đối với các cuộc gọi chưa chứng thực, 911 thường liên hệ với đơn vị an ninh khu vực trước khi huy động cảnh sát. Cô nhân viên an ninh hay nghĩ khẩu hiệu của đơn vị - "Phòng tuyến đầu tiên của các bạn" - rất dễ trở thành "báo động nhầm, giỡn chơi, chó mèo đi lạc, và lời ca than của những láng giềng lập dị". Đêm nay, như mọi khi, cô đến đây mà không hề biết chi tiết về một mối lo cụ thể nào đó. Quá nhiều so với mức lương mình được trả.

Công việc của cô chỉ đơn giản là xuất hiện cùng với ngọn đèn vàng xoay tròn nhấp nháy, ước định tài sản và báo cáo bất kỳ điều gì khác thường. Đôi khi, một chuyện chẳng đâu vào đâu cũng có thể kích hoạt hệ thống báo động nhà dân, và cô chỉ cần dùng thẻ đặc biệt của mình để cài đặt lại chương trình là xong. Tuy nhiên, ngôi nhà này lại im lìm. Không có tiếng còi báo động. Từ ngoài đường nhìn vào, tất cả đều tối om và yên tĩnh.

Cô nhân viên an ninh gọi qua hệ thống điện thoại ở cổng, nhưng không có tiếng trả lời. Cô nhập mã ưu tiên của mình để mở cổng và cho xe chạy vào. Vẫn để xe nổ máy và đèn nóc nhấp nháy, cô tiến tới cửa trước và bấm chuông. Không ai trả lời. Không ánh đèn đóm và cũng chẳng có gì chuyển động.

Miễn cưỡng làm theo đúng thủ tục, cô bật đèn pin để bắt đầu đi tuần quanh ngôi nhà, kiểm tra cửa ra vào và cửa sổ xem có dấu hiệu đột nhập không. Khi cô vòng qua góc nhà, một chiếc Limousine dài màu đen phóng ngang cửa trước, hơi giảm tốc rồi chạy tiếp. Đám hàng xóm tọc mạch đây mà.

Cô từ từ đi vòng quanh nhà, nhưng chẳng phát hiện điều gì bất thường. Ngôi nhà rộng hơn cô nghĩ, khi ra đến sân sau, cô rùng mình vì lạnh. Rõ ràng nhà không có ai.

- Trung tâm? - cô gọi qua bộ đàm - Tôi đang gọi từ Kalorama Heights. Chủ nhà đi vắng. Không có dấu hiệu bất thường. Đã kiểm tra xung quanh. Không có vết tích đột nhập. Báo động nhầm.

- Tốt rồi, - trung tâm trả lời - Chúc ngủ ngon.

Cô nhân viên an ninh giắt bộ đàm vào thắt lưng, bắt đầu bước vòng trở lại, mong chóng quay trở vào chiếc xe ấm áp của mình. Tuy nhiên đang đi, cô bỗng chú ý một thứ mà lúc trước bỏ sót - một đốm sáng màu xanh rất nhỏ phía sau nhà.

Thắc mắc, cô lần tới chỗ đó và nhìn rõ nguồn phát sáng - một ô cửa sổ con ở vị trí rất thấp, chắc chắn là ở tầng hầm của ngôi nhà. Kính cửa sổ đã được làm tối lại, hình như bằng một lớp sơn bên trong. Chắc là một kiểu phòng tối đây? Cái đốm sáng xanh mà cô nhìn thấy phát ra qua một điểm nhỏ xíu trên cửa sổ nơi sơn đen bị tróc.

Cô cúi xuống, cố gắng nhìn qua, nhưng chẳng nhìn thấy gì nhiều qua cái lỗ bé xíu đó. Cô gõ nhẹ lên cửa sổ, băn khoăn không biết liệu có ai đó đang làm việc ở trong chăng.

- Xin chào? - cô gọi to.

Không có tiếng trả lời, nhưng khi cô gõ lên cửa sổ, mảng sơn đột nhiên tróc ra và rơi xuống, giúp cô nhìn rõ mọi thứ bên trong. Cô ghé xuống, gần như áp mặt vào cửa sổ để bao quát một lượt gian hầm. Cô lập tức ước sao mình chưa từng trông thấy gì cả.

Nhân danh đức Chúa, thứ gì vậy chứ?

Cô nhân viên an ninh chết khiếp, cứ cúi lom khom ở đó một lúc, trân trối ngó cảnh tượng khủng khiếp bày ra trước mắt. Cuối cùng, tay run bắn, cô lần tìm bộ đàm đeo ở thắt lưng.

Nhưng cô chẳng bao giờ tìm thấy nó.

Một cặp kìm điện áp mạnh vào gáy cô, liền đó là cơn đau buốt chạy suốt thân thể. Các cơ co rút lại, cô ngã chúi về phía trước, thậm chí còn không kịp nhắm mắt trước khi đập mặt xuống nền đất lạnh.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 61

Đêm nay không phải là lần đầu tiên Warren Bellamy bị bịt kín mắt.

Cũng như tất cả các huynh đệ Tam điểm, ông từng đội chiếc "mũ trùm" trong quá trình hành lễ để lên các cấp cao hơn của Hội. Tuy nhiên, tình trạng đó diễn ra giữa những bằng hữu đáng tin cậy. Còn tối nay thì khác. Mấy gã đàn ông tay chân thô bạo này trói nghiến ông lại, trùm một cái túi lên đầu ông và giờ đang kèm chặt ông đi qua các giá sách thư viện.

Đám đặc vụ đã đe doạ dùng vũ lực với Bellamy để truy hỏi xem Robert Langdon đang ở đâu. Biết rằng cái thân già của mình không thể chịu nổi đòn thù nên Bellamy đã nói dối họ thật nhanh.

- Langdon không hề theo tôi xuống đây! - ông vừa nói vừa gắng hớp không khí - Tôi đã bảo anh ấy chạy lên ban công và nấp sau bức tượng Moses, nhưng tôi không biết giờ anh ấy ở đâu!

Câu chuyện rõ ràng có sức thuyết phục vì hai đặc vụ vội vã chạy đuổi theo. Hai đặc vụ còn lại im lặng dẫn ông qua các giá sách.

Niềm an ủi duy nhất của Bellamy là biết rằng Langdon và Katherine đang đưa kim tự tháp đến nơi an toàn. Chỉ lát nữa sẽ có người liên lạc với Langdon và thu xếp cho anh một nơi nương náu.

Cứ tin tưởng người ta. Người ấy rất am hiểu Kim tự tháp Tam điểm và những bí mật liên quan đến nó, chẳng hạn vị trí của cầu thang xoáy bí mật dẫn xuống lòng trái đất, tới nơi cất giấu kho tri thức cổ xưa hùng mạnh đã được chôn giấu từ lâu. Khi cùng Langdon và Katherine Solomon chạy trốn khỏi phòng đọc, Bellamy đã liên lạc được với người đó, và ông tin tưởng rằng người đó hoàn toàn nắm bắt được điều ông muốn nói trong tin nhắn ngắn gọn của mình.

Lúc này, di chuyển trong bóng tối đặc quánh, Bellamy hình dung ra kim tự tháp và phần chóp bằng vàng nằm trong túi Langdon. Đã bao nhiều năm rồi, hai vật này mới xuất hiện trong cùng một căn phòng.

Bellamy không bao giờ quên được cái đêm đau đớn ấy. Đêm bắt đầu hàng chuỗi ngày tháng thống khổ của Peter. Bellamy được mời tới tư gia Solomon ở Potomac để dự lễ sinh nhật lần thứ 18 của Zachary Solomon: Zachary, mặc dù là một đứa trẻ nổi loạn, nhưng vẫn là một thành viên gia tộc Solomon, có nghĩa là tối nay, theo truyền thống gia đình, nó sẽ được nhận phần thừa kế. Bellamy là một trong những người bạn thân nhất của Peter, đồng thời cũng là một bằng hữu Tam điểm đáng tin cậy, nên được mời tham dự với tư cách nhân chứng.

Ông đến rất sớm và chờ đợi trong thư phòng riêng của Peter Solomon. Căn phòng cổ kính tuyệt vời này toát ra mùi da, mùi củi cháy, và mùi chè lá. Warren vừa ngồi xuống thì Peter dẫn cậu con trai Zachary vào phòng. Trông thấy Bellamy, thằng bé 18 tuổi gày gò cau mày.

- Ông làm gì ở đây thế?

- Làm nhân chứng ấy mà, - Bellamy đáp - Chúc mừng sinh nhật, Zachary nhé.

Thằng bé lầm bầm và nhìn đi chỗ khác.

- Ngồi xuống đi, Zach - Peter nói.

Zachary ngồi phịch xuống một chiếc ghế tựa trước bàn gỗ đồ sộ của cha mình. Solomon cài chốt cửa. Bellamy tìm một chỗ ngồi bên cạnh.

Solomon hỏi Zachary bằng một giọng nghiêm trang.

- Con có biết tại sao con ở đây không?

- Tôi nghĩ là có, - Zachary nói.

Solomon thở dài.

- Ba biết là đã lâu chúng ta không gặp nhau. Ba đã gắng hết sức để làm một người cha tốt và để chuẩn bị cho khoảnh khắc, này của con.

Zachary chẳng nói chẳng rằng.

- Con biết đấy, mọi đứa trẻ nhà Solomon, khi đến tuổi trưởng thành đều được tặng món quà thừa kế là một phần tài sản gia đình, với hy vọng nó là hạt giống… một hạt giống cho con trưởng thành và sử dụng để đóng góp vào sự phát triển của nhân loại.

Solomon đi tới một cái hốc trên tường, mở khoá và lấy ra một túi tài liệu lớn màu đen.

- Con trai, tập hồ sơ này chứa tất cả những gì cần thiết để chuyển phần tài sản thừa kế sang tên con - ông đặt nó lên bàn - Mục đích là mong con sử dụng số tiền này để xây dựng một cuộc sống ý nghĩa, thịnh vượng và bác ái.

Zachary với lấy tập hồ sơ.

- Cảm ơn.

- Gượm đã, - Peter ngăn lại, tay chặn lên tập hồ sơ - Có vài điều ba cần giải thích.

Zachary ném cho cha một cái nhìn khinh khỉnh và ngồi phịch xuống ghế.

- Có nhiều khía cạnh liên quan đến phần thừa kế của gia đình Solomon mà con chưa rõ hết - Người cha đăm đăm nhìn thẳng vào mắt Zachary - Con là con trai lớn của ba, Zachary, nghĩa là con được phép lựa chọn.

Thằng bé nhổm dậy, trông đầy hào hứng.

- Lựa chọn này có thể quyết định hướng đi tương lai của con, vì thế ba khuyên con hãy cân nhắc cho thật kỹ.

- Lựa chọn gì?

Cha nó hít một hơi thật sâu.

- Lựa chọn… tiền bạc hoặc tri thức.

Zachary nhìn cha bằng ánh mắt vô cảm.

- Tiền bạc hoặc tri thức à? Tôi chẳng hiểu.

Solomon đứng dậy, lại tiến đến cái hốc, rồi bê ra một kim tự tháp đá nặng trịch mang đầy vết chạm khắc các biểu tượng của Hội Tam điểm. Peter đặt nó lên bàn, cạnh tập hồ sơ.

- Kim tự tháp này ra đời rất lâu rồi, và được giao phó cho gia đình ta đã bao thế hệ.

- Kim tự tháp à? - Zachary chẳng lấy gì làm hứng thú.

- Con trai, kim tự tháp này là một tấm bản đồ… cho biết vị trí của một trong những kho báu thất lạc lớn nhất trên đời. Tiền nhân tạo ra bản đồ để một ngày nào có thể tìm lại kho báu - Giọng Peter trở nên đầy tự hào - Và tối nay, theo truyền thống, ba có thể giao nó cho con… với những điều kiện nhất định.

Zachary nghi ngờ ngó cái kim tự tháp.

- Kho báu gì cơ?

Bellamy dám khẳng định rằng bạn mình không mong đợi một câu hỏi sỗ sàng như thế. Tuy nhiên, Peter vẫn rất kiên nhẫn.

- Zachary, thật khó giải thích nếu như không hiểu biết nhiều. Nhưng kho báu này… về cơ bản… được gọi là những Bí ẩn Cổ xưa.

Zachary phá lên cười sằng sặc, rõ ràng cho rằng cha nó đang đùa.

Bellamy nhận ra vẻ u uất tăng lên trong mắt Peter.

- Ba không biết diễn giải thế nào cho dễ hiểu, Zach ạ. Theo truyền thống, khi một đứa trẻ nhà Solomon được 18 tuổi, nó sẽ bắt đầu những năm tháng học hành cao hơn về…

- Tôi đã bảo rồi! - Zachary vặc ngay - Tôi không thích học đại học!

- Ba không nói đến đại học, - Giọng Peter vẫn rất bình tĩnh và nhẹ nhàng - Ba đang nói về Hội Tam điểm, về một nền giáo dục tập trung vào những bí ẩn của khoa học nhân loại. Nếu con muốn cùng ba gia nhập hàng ngũ của họ, con sẽ nhận được học vấn cần thiết để ý thức được tầm quan trọng của quyết định tối nay.

Zachary đảo mắt.

- Xin miễn cho tôi bài giảng đó đi. Tôi biết tôi là thành viên đầu tiên nhà Solomon không muốn gia nhập Hội Tam điểm. Nhưng có sao? Ông không hiểu điều đó ư? Tôi không hứng thú với việc chải chuốt cùng một đám toàn những lão già!

Cha nó im lặng một lúc lâu. Bellamy nhận thấy những nếp nhăn tuổi tác đã bắt đầu xuất hiện quanh đôi mắt vẫn còn trẻ trung của Peter.

- Có ba hiểu, - cuối cùng Peter lên tiếng.- Thời đại thay đổi rồi. Ba biết rằng đối với con, Hội Tam điểm có vẻ quá xa lạ, thậm chí còn quá tẻ nhạt. Nhưng ba muốn con nhớ, rằng cánh cửa sẽ vẫn luôn rộng mở nếu con thay đổi suy nghĩ.

- Đừng phí thời gian, - Zach càu nhàu.

- Thế là đủ! - Peter ngắt lời và đứng dậy - Ba nhận thấy cuộc đời là một cuộc đấu tranh đối với con, Zachary ạ, nhưng ba không phải là cọc chỉ đường duy nhất của con. Còn có những người tốt bụng khác đang chờ con, sẵn sàng chào đón con vào Hội Tam điểm và chỉ cho con thấy những tiềm năng đích thực của bản thân.

Zachary cười khùng khục và liếc sang Bellamy.

- Có phải vì thế mà ông ở đây không, ông Bellamy? Để hai huynh đệ Tam điểm các người kéo bè kéo cánh áp đảo tôi?

Bellamy im lặng, chỉ hướng cái nhìn kính cẩn về phía Peter Solomon, như nhắc cho Zachary biết ai là người nắm quyền lực trong căn phòng này.

Zachary ngoảnh sang nhìn cha mình.

- Zach, - Peter lên tiếng - chúng ta chưa đi tới đâu cả… hãy để ba nói với con điều này. Dù con có hiểu trách nhiệm đặt lên vai mình tối nay hay không, thì gia đình vẫn có nghĩa vụ giao phó nó lại cho con - ông ra dấu về phía kim tự tháp - Bảo vệ ngọn tháp là một đặc quyên hiếm hoi. Ba khuyên con nên dành vài hôm suy nghĩ về cơ hội này rồi hẵng đưa ra quyết định.

- Cơ hội ư? - Zachary khiêu khích - Ngồi trông một hòn đá ư?

- Trên đời này có rất nhiều bí mật vĩ đại, Zach ạ, - Peter nói kèm một tiếng thở dài - Những bí mật vượt hẳn mọi tưởng tượng của con.

Ngọn tháp này bảo vệ những bí mật ấy. Quan trọng hơn là sẽ đến một lúc, biết đâu ngay trong cuộc đời con thôi, chúng ta sẽ giải mã được kim tự tháp và khai phá những bí mật bên trong. Đó là thời điểm vĩ đại cho quá trình chuyển hoá của con người… và con có cơ hội đóng một vai trò trong thời khắc ấy. Ba muốn con hãy cân nhắc thật cẩn thận. Tiền bạc rất sẵn, nhưng tri thức thì vô cùng hiếm hoi - ông ra dấu về phía tập tài liệu và sau đó về kim tự tháp - Ba mong con nhớ, rằng tiền bạc mà thiếu tri thức thì thường dẫn đến một kết cục thảm hại.

Nét mặt Zachary cho thấy nó đang nghĩ rằng cha mình loạn trí.

- Cho dù ông nói gì, thưa ông bô, thì cũng không có chuyện tôi từ chối phần thừa kế của mình vì thứ này - Nó trỏ kim tự tháp.

Peter khoanh tay trước ngực.

- Nếu con chọn chấp nhận trách nhiệm, ba sẽ giữ hộ tiền và kim tự tháp cho tới khi con hoàn thành quá trình giáo dục trong Hội Tam điểm. Việc này phải mất hàng năm trời, nhưng con sẽ đủ chín chắn khi nhận cả hai thứ. Tiền bạc và tri thức. Một sự kết hợp hùng mạnh.

Zachary nhảy nhổm lên.

- Lạy Chúa, ông bô ơi! Ông không chịu thôi đi à? Ông không thấy rằng tôi chẳng quan tâm mẹ gì đến Hội Tam điểm, kim tự tháp đá cùng những bí mật cổ lỗ à? - Nó cúi xuống và nhặt lấy tập hồ sơ màu đen, huơ huơ trước mặt cha mình - Đây là quyền thừa kế của tôi! Quyền thừa kế của các thành viên nhà Solomon trước đây! Tôi không tin thể tin nổi là ông lại định lừa tôi từ chối món thừa kế này bằng mấy câu chuyện vớ vẩn về bản đồ mới cả kho báu! - Nó kẹp tập hồ sơ dưới nách, bước qua mặt Bellamy ra cửa phòng.

- Zachary, đợi đã! - Peter chạy theo khi Zachary bước vào bóng đêm - Dù làm gì, con cũng đừng bao giờ tiết lộ về cái kim tự tháp vừa nãy! - Giọng ông thất thanh - Đừng hé ra với bất kỳ ai! Đừng bao giờ!

Zachary không buồn trả lời, cứ thế biến thẳng vào đêm tối.

Peter Solomon quay lại bàn của mình và ngồi phịch xuống chiếc ghế da, đôi mắt xám đong đầy đau khổ. Im lặng hồi lâu, ông nhìn lên Bellamy và cố nở một nụ cười.

- Thế đấy?

Bellamy thở dài, cùng chia sẻ nỗi đau của bạn.

- Peter, tôi không muốn tỏ ra thiếu tế nhị… nhưng… anh tin nó ư?

Solomon trân trân nhìn khoảng không.

- Ý tôi là - Bellamy nhấn mạnh - đừng nên nói gì về cái kim tự tháp cả.

Gương mặt Solomon vô hồn.

- Tôi thực sự không biết phải nói gì, Warren. Tôi không chắc mình còn hiểu nó nữa không.

Bellamy đứng lên và chậm rãi đi đi lại lại trước chiếc bàn lớn.

- Peter, anh đã tuân theo nghĩa vụ của gia đình, nhưng giờ đây, xem xét những gì vừa diễn ra, tôi nghĩ chúng ta cần thận trọng. Tôi phải giao lại cho anh cái chóp để anh tìm một nơi mới cho nó. Cần có ai đó khác trông nom nó.

- Tại sao? - Solomon hỏi.

- Nếu Zachary bép xép với người ngoài về cái kim tự tháp… và nhắc đến sự có mặt của tôi hôm nay…

Nó chẳng biết gì về cái chóp, và nó còn quá dại khờ nên không thể hiểu được ý nghĩa quan trọng của kim tự tháp. Không cần một chỗ mới cho nó đâu. Tôi sẽ giữ cái kim tự tháp trong hốc tường, và anh cứ để cái chóp ở đúng chỗ anh giữ. Như chúng ta vẫn làm bấy nay.

Chỉ sáu năm sau, vào ngày Giáng sinh, trong khi gia đình vẫn chưa nguôi ngoai về cái chết của Zachary, một gã đàn ông cao lớn tuyên bố đã giết thằng bé trong ngục đột nhập vào nhà Solomon.

Mục tiêu của hắn là cái kim tự tháp, nhưng cuối cùng hắn lại tước đoạt sinh mạng của Isabel Solomon.

Mấy ngày sau, Peter triệu tập Bellamy đến văn phòng. Ông khoá chặt cửa lại và nhấc kim tự tháp ra khỏi hốc tường, đặt nó lên bàn giữa hai người.

- Lẽ ra tôi nên nghe theo anh.

Bellamy biết Peter rất day dứt vì sai lầm vừa rồi.

- Sẽ ổn thôi mà.

Solomon mệt mỏi thở hắt ra.

- Anh có mang theo cái chóp không?

Bellamy rút từ trong túi ra một gói hình hộp vuông vức nhỏ nhắn. Lớp giấy nâu đã ngả màu được buộc chắc bằng dây và đóng dấu sáp hình chiếc nhẫn của Solomon. Bellamy đặt cái gói lên bàn, biết rằng đêm nay hai nửa của Kim tự tháp Tam điểm đã ở gần nhau hơn thường lệ.

- Hãy tìm ai khác trông giữ thứ này. Đừng nói cho tôi biết người đó là ai.

Solomon gật đầu.

- Tôi biết một chỗ anh có thể giấu kim tự tháp - Bellamy đề xuất. Ông cho Solomon biết về tầng đáy Điện Capitol - Chẳng đâu ở Washington an toàn hơn nó.

Bellamy nhớ lại rằng Solomon đã rất thích thú với ý tưởng đó, bởi vì quả là rất thích hợp khi cất giấu cái kim tự tháp ở ngay trái tim biểu tượng của quốc gia, đúng là Solomon, Bellamy nghĩ thầm. Một người luôn lý trí hoá mọi việc ngay cả khí gặp khó khăn.

Mười năm sau ngày ấy, bị bịt mắt dẫn đi trong Thư viện Quốc hội, Bellamy hiểu rằng khó khăn tối nay còn lâu mới kết thúc. Lúc này, ông đã biết Solomon chọn ai để bảo vệ cái chóp… và ông cầu Chúa cho Robert Langdon hoàn tất nhiệm vụ.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 62

Mình đang ở dưới phố số 2.

Mắt Langdon vẫn nhắm chặt khi băng chuyền chạy trong bóng tối về phía Toà nhà Adams 1 Anh cố gắng không tưởng tượng ra cả tấn đất đá phía trên đầu và đường hầm chật hẹp mà lúc này anh đang di chuyển qua. Tiếng Katherine thở cách anh vài thước, nhưng cô tuyệt nhiên không nói một lời.

Cô ấy còn bị sốc. Langdon không muốn nói với Katherine về bàn tay của Peter. Mày phải nói, Robert. Cô ấy cần biết.

- Katherine? - Cuối cùng Langdon lên tiếng, mắt vẫn nhắm chặt - Chị ổn chứ?

Một giọng thất thần, run run đáp lại đâu đó phía trước.

- Robert, kim tự tháp mà anh mang theo là của Peter, phải không?

- Đúng, - Langdon thừa nhận.

Tiếp theo là một khoảng im lặng kéo dài.

- Tôi nghĩ… cái kim tự tháp đó là lý do khiến mẹ tôi bị giết.

Langdon biết bà Isabel Solomon bị sát hại mười năm về trước, nhưng anh không nắm rõ các tình tiết, và Peter cũng chẳng bao giờ đề cập đến kim tự tháp.

- Chị đang nói về chuyện gì cơ?

Katherine hồi tưởng những sự kiện hãi hùng đêm hôm ấy, nhớ lại gã đàn ông xăm trổ đầy mình đã đột nhập tư gia họ ra sao. Giọng cô còn đầy bàng hoàng.

- Chuyện lâu rồi, nhưng tôi chẳng bao giờ quên rằng hắn đã đòi một cái kim tự tháp. Hắn nói hồi trong tù, hắn nghe Zachary kể về cái kim tự tháp… ngay trước khi hắn giết thằng bé.

Langdon sửng sốt lắng nghe. Thật không thể tưởng tượng nổi gia đình Solomon lại có một bi kịch như thế. Katherine vẫn tiếp tục kể, rằng cô tưởng kẻ đột nhập đã bị giết, đêm hôm đó… nào ngờ cũng chính gã đàn ông ấy lại xuất hiện hôm nay, tự nhận là bác sĩ tâm lý của Peter và lừa cô tới nhà.

- Hắn biết những điều riêng tư về anh trai tôi, về cái chết của mẹ tôi và thậm chí công việc của tôi nữa - cô băn khoăn - những điều mà ngoài anh tôi chắc chẳng còn ai kể cho hắn được. Tôi đã tin… và cũng vì thế mà hắn lọt được vào Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian. - Sau cùng, hít một hơi thật sâu, Katherine nói rằng cô gần như tin chắc gã đàn ông đó vừa phá huỷ phòng thí nghiệm của cô.

Langdon nghe mà choáng váng. Cả hai cùng nằm im lặng mất một lúc Langdon biết anh có nghĩa vụ chia sẻ với Katherine những tin tức khủng khiếp còn lại của buổi tối nay. Anh bắt đầu thật chậm rãi, và thật nhẹ nhàng, cho Katherine biết Peter đã tin tưởng giao cho anh một gói nhỏ nhiều năm về trước, tối nay anh bị lừa mang cái gói đó tới Washington, và cuối cùng, anh kể về bàn tay đứt trong Nhà tròn Điện Capitol.

Katherine phản ứng bằng sự im lặng hoàn toàn.

Langdon đoan chắc cô đang choáng váng. Anh ước sao mình có thể nhoài tới để an ủi cô, nhưng nằm nối nhau trong bóng tối chật hẹp thế này thì không xoay xở gì được.

- Anh Peter vẫn ổn - anh thì thào - Anh ấy còn sống, và chúng ta sẽ đưa anh ấy trở về - Langdon cố gắng tạo cho cô hy vọng - Katherine, kẻ bắt cóc anh ấy đã hứa với tôi rằng anh trai chị sẽ còn sống trở về… chừng nào tôi giải mã cái kim tự tháp cho hắn.

Katherine vẫn nín lặng.

Langdon tiếp tục nói. Anh kể cho cô về cái kim tự tháp đá, về mật mã Tam điểm, về cái chóp được niêm phong, và dĩ nhiên cả tiết lộ của Bellamy rằng kim tự tháp này thực ra là Kim tự tháp Tam điểm trong huyền thoại… là tấm bản đồ cho biết vị trí bí mật của một cầu thang xoáy ốc rất dài dẫn sâu xuống lòng đất… sâu hàng trăm thước tới một báu vật cổ xưa đã được chôn giấu lâu đời tại Washington.

Cuối cùng, Katherine cũng lên tiếng, nhưng giọng thản nhiên và điềm tĩnh.

- Robert, mở mắt ra đi.

Mở mắt ra ư? Langdon không muốn, dù chỉ một liếc mắt, xem cái không gian này trông ra sao.

- Anh Robert! - Katherine giục, lần này gấp gáp hơn - Mở mắt ra đi! Chúng ta đến nơi rồi!

Langdon mở choàng mắt đúng lúc cơ thể anh trồi qua một cái lỗ tương tự như cái lỗ ở đầu xuất phát. Katherine đã chuồi khỏi băng chuyền. Cô nhấc cái túi lên, Langdon tung chân nhảy ra xuống nền lát gạch hoa vừa kịp lúc, trước khi băng chuyền ngoặt trở lại. Không gian quanh họ là một phòng lưu thông sách chẳng khác gì gian phòng họ vừa rời khỏi ở toà nhà đằng kia Một tấm biển nhỏ ghi TOÀ NHÀ ADAMS: PHÒNG LUU THÔNG SỐ 3.

Langdon cảm thấy như vừa thoát khỏi một quá trình sinh sản ngầm dưới lòng đất vậy. Tái sinh. Anh lập tức ngoảnh nhìn Katherine.

- Chị ổn chứ?

Mắt Katherine vẫn còn đỏ, chứng tỏ rằng cô vừa mới khóc, nhưng cô gật đầu với thái độ quả quyết cam chịu. Cô xách cái túi của Langdon lên và băng ngang căn phòng, mang túi theo mà không nói một lời, đặt nó lên một chiếc bàn bừa bộn. Cô bật ngọn đèn halogen, mở cái túi ra, gập các mép xuống và nhìn chằm chằm vào trong.

Dưới ánh đèn, ngọn kim tự tháp bằng đá hoa cương hiện lên với những đường nét đơn giản. Katherine lướt ngón tay trên dòng mật mã Tam điểm khắc chìm. Langdon theo dõi, nhận ra cảm xúc sâu sắc đang trào lên trong cô. Hết sức chậm rãi, Katherine thò tay vào túi và lôi cái gói hình hộp ra. Cô giơ nó lên trước ánh sáng, kiểm tra thật kỹ càng.

- Chị thấy đấy, - Langdon nói khẽ - con dấu sáp được đóng bằng chiếc nhẫn Tam điểm của Peter. Anh ấy kể rằng cổ nhân đã dùng chiếc nhẫn này đóng ấn niêm phong cái gói từ hơn một trăm năm trước.

Katherine không nói gì.

- Khi anh trai chị giao cái gói cho tôi. - Langdon kể - anh ấy nói rằng nó sẽ trao cho tôi sức mạnh tạo lập trật tự từ trong hỗn loạn. Tôi không dám chắc về ý nghĩa câu đó, nhưng tôi cho rằng cái chóp chứa đựng một điều rất quan trọng, bởi vì Peter nhấn mạnh rằng không được để nó lọt vào tay kẻ xấu. Ông Bellamy cũng vừa nói với tôi như thế, ông nhắc tôi phải giấu kín kim tự tháp và không để bất kỳ ai mở cái gói ra.

Katherine quay lại, đầy vẻ giận dữ.

- Bellamy bảo anh không được mở cái gói ra ư?

- Phải. Ông ấy là người rất tuân thủ kỷ cương.

Katherine tỏ vẻ hoài nghi.

- Nhưng anh bảo cái chóp này là chìa khoá duy nhất để giải mã kim tự tháp, đúng không?

- Có lẽ thế.

Giọng Katherine vống hẳn lên.

- Anh còn nói kẻ bắt cóc yêu cầu anh giải mã kim tự tháp. Đó là cách duy nhất giúp chúng ta đưa Peter trở về, phải không?

Langdon gật đầu.

- Vậy thì, Robert, tại sao chúng ta lại không mở cái gói ra và giải mã thứ này ngay bây giờ đi?

Langdon không biết phải trả lời sao.

- Katherine, tôi cũng có ý định y như vậy, nhưng Bellamy bảo tôi rằng việc giữ nguyên bí mật của kim tự tháp còn quan trọng hơn bất kỳ điều gì… kể cả sinh mạng anh trai chị.

Những nét kiều diễm của Katherine đanh lại. Cô đưa tay gạt một lọn tóc ra sau tai rồi lên tiếng, giọng đầy kiên quyết.

- Cái kim tự tháp đá này, bất kể là gì, cũng đã làm cả gia đình tôi trả giá. Trước hết là cháu tôi, Zachary, rồi đến mẹ tôi, và giờ là anh trai tôi. Chúng ta hãy đối diện với sự thật, anh Robert, nếu tối nay anh không gọi đến để cảnh báo tôi…

Langdon nhận ra mình đang mắc kẹt giữa logic của Katherine và những lời dặn dò của Bellamy.

- Tôi là một nhà khoa học. - cô nói - đồng thời còn xuất thân từ một gia đình Tam điểm danh giá. Tin tôi đi, tôi đã nghe đủ mọi chuyện liên quan đến Kim tự tháp Tam điểm và lời hứa hẹn về kho báu vĩ đại sẽ khai sáng nhân loại. Nói thật, tôi khó lòng tin rằng có một thứ như thế. Tuy nhiên, nếu quả thực nó tồn tại… thì có lẽ đã đến lúc khai phá rồi.

Katherine đưa một ngón tay rê rê bên dưới sợi dây cũ buộc cái gói.

Langdon bật dậy.

- Katherine, đừng? Đợi đã!

Cô dừng lại, những ngón tay vẫn nằm dưới sợi dây.

- Robert, tôi nhất định không để anh tôi phải mất mạng vì thứ này. Cho dù cái chóp nói gì… hay những dòng chữ khắc tiết lộ kho báu lớn cỡ nào… thì tối nay, những bí mật đó cũng phải chấm hết.

Dứt lời, Katherine kiên quyết bứt đứt sợi dây, và con dấu sáp vỡ bung ra.

--- ------ ------ ------ -------

1 Toà nhà John Adams Building là một trong ba toà nhà của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Ban đầu, toà nhà này được xây dựng như nhà phụ của Toà nhà chính (Thomas Jefferson Building). Nó mở cửa từ ngày 3 tháng 1 năm 1939 - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 63

Tại một khu vực khá yên tĩnh ngay phía tây Embassy Row 1 ở Washington, có một khu vườn nằm trong dãy tường bao kiểu Trung cổ nghe đồn hoa hồng nơi đây được trồng từ thế kỷ thứ XII. Vọng lâu Carderock của khu vườn - được mệnh danh là Ngôi nhà Bóng mát - nằm giữa những lối đi ngoằn ngoèo lát bằng đá khai thác từ mỏ riêng của George Washington.

Tối nay, sự im lặng của khu vườn bị phá vỡ. Một chàng thanh niên chạy bổ qua cánh cổng gỗ, miệng hét to.

- Bác ơi! - cậu gọi to, căng mắt nhìn trong ánh trăng - Bác có ở đây không?

Giọng đáp lại vô cùng yếu ớt, rất khó nghe.

- Trong vọng lâu… hít thở chút không khí.

Chàng thanh niên tìm thấy ông bác tiều tuỵ đang đắp chăn ngồi trên chiếc ghế băng bằng đá. Ông già lưng còng, vóc nhỏ thó như người tí hon. Năm tháng đã đè nặng xuống lưng và lấy đi thị lực của con người này, nhưng ở ông vẫn còn một thứ khí chất mạnh mẽ đáng kể.

Chàng trai trẻ vừa thở hổn hển vừa nói với ông già.

- Cháu mới… nhận một cuộc gọi… từ bạn của bác… Warren Bellamy.

- Thế hả? - ông già ngẩng lên - Chuyện gì vậy?

- Ông ấy không nói rõ, xem ra vội vã lắm. Ông ấy bảo rằng có để lại một tin nhắn trên thư thoại của bác, và bác phải nghe luôn đấy.

- Warren chỉ nói vậy thôi à?

- Không hẳn - Chàng trai ngập ngừng - Bellamy dặn cháu hỏi bác một câu - Một câu hỏi rất lạ - ông ấy bảo bác cần trả lời ngay.

Ông già nghiêng lại gần hơn.

- Câu hỏi gì?

Nghe chàng trai lặp lại câu hỏi của Bellamy, khuôn mặt già nua bỗng u ám hẳn đi, dù là dưới ánh trăng cũng có thể nhận ra điều đó.

Ông lập tức gạt tấm chăn và gắng đứng dậy.

- Đỡ bác vào nhà. Ngay bây giờ?

--- ------ ------ ------ -------

1 Embassy Row là tên gọi không chính thức một khu phố hay khu vực nơi tập trung nhiều đại sứ quán hoặc các cơ quan ngoại giao. Tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ, khu vực này dọc Đại lộ Massachusetts, vùng tây bắc - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 64

Không còn gì là bí mật nữa, Katherine Solomon nghĩ.

Trên bàn, con dấu sáp nguyên vẹn qua nhiều thế hệ nay lăn lóc từng mảnh. Katherine bóc nốt lớp giấy nâu bạc màu bọc cái gói quý giá của anh trai mình. Langdon đứng bên cạnh, vẻ bồn chồn.

Katherine lôi ra khỏi lớp giấy một cái hộp nhỏ bằng đá xám. Giống hệt một khối đá hoa cương mài nhẵn, cái hộp không hề có bản lề, khoá, hay khe nào để lách vào trong. Nó khiến Katherine nhớ đến cái hộp giải đố của người Trung Quốc.

- Trông như khối đặc ấy, - cô nhận xét, đưa ngón tay lần hết các mép - Anh có chắc máy X quang cho thấy nó rỗng không? Với một cái chóp ở bên trong?

- Đúng thế mà. - Langdon khẳng định, nhích lại gần Katherine và chăm chú xem xét cái hộp bí ẩn. Hai người săm soi nó từ nhiều góc độ khác nhau, cố gắng tìm cách mở.

- Đây rồi, - Katherine reo lên, móng tay cô vừa dò được một khe hở kín đáo chạy dọc theo cạnh trên của hộp. Cô đặt cái hộp xuống bàn và cẩn thận cạy nắp. Cái nắp tách ra rất dễ dàng, hệt như nắp hộp trang sức.

Khi cái nắp rơi xuống, Langdon và Katherine cùng hít mạnh. Lòng hộp đang toả sáng, thứ ánh sáng rực rỡ gần như siêu nhiên. Katherine chưa bao giờ nhìn thấy khối vàng nào lớn đến thế, và cô cũng nhận ngay ra rằng chất kim loại quý giá này phát quang do đang khúc xạ ánh sáng của ngọn đèn bàn.

- Tuyệt vời quá, - cô thì thào. Mặc dù bị niêm phong trong lòng hộp đá tối tăm suốt hơn một thế kỷ, cái chóp vẫn không hề xỉn màu hay mờ đi, vàng có khả năng kháng cự quy luật phân huỷ, đó là một trong những lý do khiến người cổ đại cho rằng nó có phép màu.

Katherine bỗng ghé lại gần, nhìn chằm chằm vào cái đỉnh nhỏ xíu, tim cô đập nhanh hơn.

- Có một dòng chữ khắc.

Langdon tiến sát lại, vai họ chạm vào nhau. Đôi mắt xanh biếc của anh ánh lên vẻ tò mò. Anh kể cho Katherine nghe về một thói quen của người Hy Lạp cổ đại, họ thường tạo ra một biểu hình, tức một mật mã được chia làm nhiều phần. Anh cũng cho biết cái chóp tách rời kia đang nắm giữ chìa khoá để giải mã kim tự tháp. Cho dù chứa nội dung gì, thì chắc chắn dòng chữ khắc này cũng sẽ an định hỗn loạn và lập lại trật tự.

Katherine cầm chiếc hộp nhỏ nhắn giơ ra ánh sáng và ngắm nghía cái chóp. Mặc dù rất nhỏ, những dòng chữ khắc vẫn hiện lên rõ rệt, đó là một mẩu văn tự được chạm tinh xảo ở một mặt chóp. Katherine đọc thấy sáu chữ đơn giản.

Cô đọc lại lần nữa.

- Không- sau cùng cô kêu lên - Sao lại như thế được!

° ° °

Bên kia phố, Giám đốc Sato rảo bước trên lối đi dài bên ngoài Điện Capitol, tiến về điểm hẹn trên phố Số 1. Bà ta rất không bằng lòng với tin tức mới nhất từ nhóm tác chiến. Langdon đã tháo thoát. Kim tự tháp biến mất. Chẳng thấy cái chóp nào. Tuy bắt được Bellamy, nhưng ông ta không chịu, chí ít là chưa chịu, tiết lộ sự thật.

Ta sẽ buộc lão phải khai.

Bà ta liếc mắt qua vai, nhìn về một trong những hình ảnh mới nhất của Washington, đó là phần mái vòm điện Capitol sừng sững trên trung tâm khách tham quan vừa xây dựng. Phần mái vòm rực sáng chỉ càng nhấn mạnh ý nghĩa của thứ đang bị đe doạ tối nay. Thời khắc nguy hiểm.

Điện thoại reo, Sato thở phào khi thấy màn hình hiển thị tên chuyên gia phân tích của mình.

- Nola hả, - bà ta bắt máy - Cô tìm được gì rồi?

Nola Kaye thông báo cho bà ta toàn tin xấu. Bản quét phần chữ khắc trên chóp tháp quá mờ, không đọc nổi, dùng đến thiết bị lọc tăng cường hình ảnh cũng vô hiệu.

Mẹ kiếp. Sato cắn môi.

- Thế còn cái ma trận 16 chữ cái thì sao?

- Tôi đang cố đây, - Nola đáp - nhưng tới giờ tôi vẫn chưa tìm ra lớp mật mã thứ hai. Tôi đã cho máy tính đảo lại vị trí các chữ cái và tìm kiếm bất kỳ chi tiết gì khả dĩ nhận dạng, nhưng có đến hơn 20 nghìn tỉ khả năng.

- Cứ tiếp tục đi, rồi cho tôi biết - Sato cau có tắt máy.

Không còn hi vọng gì vào việc dùng tấm ảnh và bản chụp X quang để giải mã kim tự tháp nữa. Ta cần chính cái kim tự tháp đó cùng chóp của nó… và ta không còn nhiều thời gian.

Sato đến phố Số 1 đúng lúc một chiếc SUV Escalade màu đen với cửa sổ lắp kính tối màu lao vọt qua dải phân cách vàng vàng và đỗ két trước mặt bà ta, ngay tại điểm hẹn. Một nhân viên đặc vụ nhảy ra.

- Có tin gì về Langdon chưa? - Sato hỏi.

- Hi vọng khả quan, - anh chàng kia đáp, giọng vô cảm - Nhóm hỗ trợ vừa tới. Tất cả các lối ra khỏi thư viện đã bị vây chặt. Thậm chí huy động cả yểm trợ trên không. Chúng tôi sẽ dùng hơi cay lùa hắn ra và hắn không còn chỗ nào để chạy đâu.

- Bellamy sao rồi?

- Trói ở ghế sau kia.

Tốt lắm. Vai Sato vẫn đau nhức.

Nhân viên đặc vụ trao cho Sato một cái túi nhựa Ziploc trong có điện thoại di động, chìa khoá và ví.

- Tư trang của Bellamy.

- Không còn gì khác sao?

- Không, thưa bà. Kim tự tháp và cái gói chắc chắn ở chỗ Langdon.

- Được rồi, - Sato nói - Bellamy biết rất nhiều nhưng không chịu nói. Tôi muốn đích thân thẩm vấn lão.

- Vâng, thưa bà. Ta về Langley chứ?

Sato hít một hơi thật sâu và đi qua lại đi bên chiếc SUV một lát. Có những quy tắc ngặt nghèo kiểm soát việc thẩm vấn công dân Mỹ. Tra vấn Bellamy là hoàn toàn bất hợp pháp trừ phi được tiến hành tại Langley có ghi hình, nhân chứng, luật sư, và đủ thứ khác…

- Không về Langley, - bà ta đáp, cố gắng nghĩ ra một nơi nào đó gần hơn, và kín đáo hơn.

Nhân viên đặc vụ chẳng nói chẳng rằng, vẫn đứng nghiêm bên cạnh chiếc SUV, chờ nghe lệnh.

Sato châm điếu thuốc, rít một hơi dài và đăm đăm nhìn cái túi Ziploc đựng đồ đạc của Bellamy. Bà ta chú ý thấy chùm chìa khoá có mắc một cái điều khiển từ xa in bốn chữ cái - USBG. Dĩ nhiên, Sato biết thiết bị đó dùng để ra vào toà nhà chính phủ nào. Toà nhà nọ rất gần và vào giờ này, rất kín đáo.

Bà ta mỉm cười, đút cái điều khiến vào túi. Hoàn hảo.

Sato cho nhân viên đặc vụ biết nơi mình muốn đưa Bellamy tới, chắc mẩm anh ta sẽ tỏ ra ngạc nhiên, nhưng người nhân viên chỉ gật đầu và mở cửa bên cho sếp, cái nhìn lạnh tanh chẳng thể hiện điều gì.

Sato rất thích những nhân viên chuyên nghiệp.

° ° °

Trong hầm Toà nhà Adams. Langdon nhìn chằm chặp dòng chữ khắc rất khéo trên bề mặt chóp vàng mà không dám tin vào mắt mình.

Đó là tất cả những gì nó nói ư?

Katherine giơ cái chóp ra ánh sáng và lắc đầu.

- Phải có gì đó nữa chứ, - cô khăng khăng, giọng ấm ức - Đây là thứ mà anh trai tôi đã bảo vệ suốt bao nhiêu năm qua ư?

Langdon phải thừa nhận rằng anh cũng rất bối rối. Theo lời Peter và Bellamy, cái chóp sẽ giúp họ giải mã kim tự tháp đá. Trước những lời khẳng định ấy, Langdon cứ nghĩ đến một gợi mở sáng tỏ và hữu ích hơn. Nhưng dòng chữ này thì quá rõ ràng mà lại vô tác dụng. Một lần nữa, anh đọc sáu từ khắc rất tinh xảo trên mặt chóp tháp.

Bí mật giấu

trong Tổ Chức

Bí mật giấu trong Tổ Chức?

Thoạt nhìn, dòng chữ khắc có vẻ khá rành mạch, ngụ ý rằng những chữ cái trên kim tự tháp rất lộn xộn, là vô "tổ chức" nào, và rằng bí mật của chúng nằm ở việc tìm ra cách sắp xếp cho đúng.

Tuy nhiên, câu này, ngoài ý nghĩa hiển nhiên, xem chừng còn một lý do nữa.

- Các chữ Tổ và Chức được viết hoa, - Langdon nhận xét.

Katherine gật đầu.

- Tôi có thấy.

Bí mật giấu trong Tổ Chức. Langdon chỉ có thể liên tưởng đến một hàm ẩn hợp lý.

Tổ Chức ở đây chắc là chỉ Hội Tam điểm.

- Nhất trí, - Katherine nói - nhưng vẫn vô ích. Nó chẳng cho chúng ta biết điều gì.

Langdon cũng phải thừa nhận như vậy. Rốt cuộc, toàn bộ câu chuyện về Kim tự tháp Tam điểm lại xoay quanh một bí mật được cất giấu ngay trong Hội Tam điểm.

- Robert! Peter nói cái chóp sẽ đem lại cho người ta sức mạnh để tổ chức lại mọi sự ở ngay nơi mà những kẻ khác chỉ thấy hỗn loạn phải không?

Langdon gật đầu thất vọng. Lần thứ hai trong tối nay, anh cảm thấy mình bất lực.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 65

Giải quyết xong vị khách không mời - một nữ nhân viên Phòng An ninh ưu tiên, Mal’akh sơn lại chỗ cửa sổ mà cô gái vừa ghé mắt vào và nhìn thấy phần nào không gian làm việc thiêng liêng của gã.

Lúc này, leo lên khỏi mê cung tầng hầm nhuốm màu lam dìu dịu, gã đi qua một ô cửa bí mật mở thẳng vào phòng khách. Tới nơi, gã dừng lại, chiêm ngưỡng bức vẽ ấn tượng về Ba Kiều nữ, tận hưởng mùi vị và âm thanh quen thuộc của căn nhà.

Ta sắp ra đi mãi mãi. Mal’akh biết rằng sau đêm nay, gã không thể trở lại đây được nữa. Sau đêm nay, gã nghĩ và mỉm cười, ta cũng không còn cần đến nơi này.

Gã tự hỏi liệu Robert Langdon có hiểu được sức mạnh thật sự của kim tự tháp đá… hoặc là tầm quan trọng của cái vai trò mà số phận đã lựa chọn cho anh ta không. Langdon vẫn chưa gọi cho ta, Mal’akh thầm nghĩ, sau khi kiểm tra kỹ càng các tin nhắn trên điện thoại di động. Đã 10 giờ 2 phút. Hắn còn chưa đầy hai tiếng nữa.

Mal’akh đi lên gác, tới phòng tắm ốp đá cẩm thạch Italia và bật công tắc vòi tắm nước nóng. Gã cẩn thận cởi bỏ quần áo, háo hức bắt đầu nghi thức tẩy uế của mình.

Gã uống hai ly nước lọc để làm dịu cái dạ dày đang co bóp, sau đó đi tới tấm gương khổ lớn và ngắm nghía thân hình trần truồng của mình. Hai ngày nhịn đói đã làm rão các cơ bắp, và Mal’akh không khỏi ngưỡng mộ sự thay đổi của mình. Lúc bình minh lên, ta sẽ còn tiến xa nữa.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 66

- Chúng ta nên rời khỏi đây, - Langdon nói với Katherine - Chẳng chóng thì chầy họ cũng sẽ bới ra chỗ này.

Anh hy vọng Bellamy đã tìm được cách trốn thoát.

Katherine vẫn chăm chú quan sát cái chóp bằng vàng, chừng như không tin nổi là dòng chữ khắc lại chẳng hề có tác dụng gì như vậy.

Cô đã lấy cái chóp ra khỏi hộp, kiểm tra kỹ từng mặt, và giờ lại cẩn thận đặt nó trở vào.

Bí mật giấu trong Tổ Chức, Langdon nghĩ bụng. Hay ghê.

Anh tự hỏi phải chăng Peter đã hiểu sai về nội dung cái hộp. Kim tự tháp và chóp vàng được tạo ra từ rất lâu trước khi Peter ra đời, và Peter chỉ đơn giản là tuân thủ những điều tiền nhân dặn dò, giữ kín một bí mật mà với bản thân ông có lẽ cũng huyền bí chẳng kém gì với Langdon và Katherine.

Mình kỳ vọng điều gì nhỉ? Langdon tự hỏi. Tối nay, càng biết thêm về truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm, anh càng thấy nó hoang đường. Mình phải tìm kiếm một cầu thang xoáy ẩn kín với một tảng đá lớn chắn lối chăng? Có điều gì đó mách bảo Langdon rằng anh đang đuổi theo những cái bóng. Tuy nhiên, giải mã kim tự tháp xem ra là cơ hội tốt nhất để cứu Peter.

- Robert, năm 1514 có ý nghĩa gì với anh không?

Mười lăm-mười bốn ư? Câu hỏi nghe chừng vô thưởng vô phạt.

Langdon nhún vai.

- Không. Nhưng sao cơ?

Katherine đưa cho anh cái hộp đá.

- Nhìn này. Cái hộp có ngày tháng. Anh xem kỹ dưới ánh đèn ấy.

Langdon ngồi xuống một chỗ bên chiếc bàn và ngắm nghía cái hộp vuông vức dưới ánh sáng. Katherine đặt bàn tay mềm mại lên vai anh, cúi sát vào để chỉ cho anh thấy dòng chữ nhỏ xíu khắc ngoài hộp, gần góc bên dưới của một mặt mà cô vừa phát hiện ra.

- Mười lăm-mười bốn A.D. - cô nói, trỏ vào trong cái hộp.

- Đúng, dòng chữ khắc ghi rõ con số 1514, sau đó là một dạng cách điệu rất lạ hai chữ cái A và D.

- Ngày tháng này, - Katherine nói, giọng đầy hy vọng - có lẽ là mắt xích chúng ta đang thiếu chăng? Khối vuông có khắc ngày tháng trông rất giống một hòn đá móng của Hội Tam điểm, biết đâu nó sẽ dẫn tới một hòn đá móng thật sự thì sao? Có lẽ là một công trình được xây dựng năm 1514 sau Công nguyên chăng?

Langdon không chú ý đến lời cô.

Mười lăm mười bốn A.D, không phải là ngày tháng.

Bất kỳ học giả về nghệ thuật trung cổ nào cũng có thể nhận ra hình vẽ này là một biểu ký rất nổi tiếng. Nhiều triết gia, nghệ sĩ và tác giả ngày xưa ký tên tác phẩm của mình bằng những biểu tượng độc đáo riêng thay vì dùng tên chính thức. Thói quen này làm tăng thêm sức hấp dẫn bí ẩn đối với tác phẩm của họ và cũng để bảo vệ họ khỏi bị ngược đãi nếu như các tác phẩm nghệ thuật ấy bị xếp vào loại đi ngược lại truyền thống. Trong trường hợp biểu ký này, các chữ cái A.D, không phải là Anno Domini (sau Công nguyên)… mà là chữ cái tiếng Đức, chứa đựng một hàm nghĩa hoàn toàn khác.

Langdon lập tức nhận thấy tất cả các tình tiết ăn khớp đâu vào đó. Chỉ trong vài giây, anh đã tin chắc mình biết chính xác cách giải mã kim tự tháp.

- Katherine, chị cừ lắm, - anh nói và thu dọn đồ đạc - Chúng ta đã tìm được thứ mình cần ròi. Đi nào. Tôi sẽ giải thích trên đường đi.

Katherine có vẻ ngạc nhiên.

- Ngày tháng 1514 sau Công nguyên có nghĩa gì đó với anh thật à?

Langdon nháy mắt với cô và tiến thẳng ra cửa.

- A.D, không phải là ngày tháng đâu. Katherine ạ. Nó chỉ một con người đấy..
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 67

Phía tây Embassy Row, sau dãy tường bao, bên trong khu vườn có vọng lâu Ngôi nhà Bóng mát và những khóm hồng từ thế kỷ XII, tất cả lại chìm vào im ắng. Ở mé bên kia một lối vào, chàng thanh niên đang giúp ông bác lưng còng băng qua bãi cỏ rộng.

Bác để cho mình dẫn đường cơ à?

Bình thường, ông già mù khước từ mọi sự giúp đỡ, ông thích tự lần đi theo trí nhớ. Tuy nhiên đêm nay, rõ ràng ông rất vội, phải vào nhà ngay để trả lời cuộc gọi của Warren Bellamy.

- Cảm ơn cháu, - ông già nói khi vào tới toà nhà có thư phòng riêng của mình - Bác có thể tự tìm đường được rồi.

- Bác, cháu rất vui được ở lại giúp…

- Tối nay thế là đủ - ông già nói, buông cánh tay người giúp đỡ và hấp tấp tiến vào bóng tối - Chúc cháu ngủ ngon.

Chàng thanh niên ra khỏi toà nhà, băng qua bãi cỏ rộng và quay trở lại chỗ ở đơn sơ của mình, cũng trong khuôn viên ấy. Lúc bước vào căn hộ, cậu cảm thấy sự tò mò cứ thôi thúc trong lòng. Rõ ràng ông già rất bồn chồn trước câu hỏi của Bellamy… mà câu hỏi ấy cũng thật kỳ lạ, gần như là vô nghĩa.

Có hay không, sự hỗ trợ cho con trai bà goá?

Dù tưởng tượng thế nào, chàng thanh niên cũng không thể đoán nổi ý nghĩa của câu hỏi này. Bối rối, cậu bước tới máy tính và gõ lệnh tìm kiếm cả cụm từ.

Cậu vô cùng kinh ngạc khi thấy xuất hiện vô số trang tham khảo, tất cả đều trích dẫn chính xác câu hỏi. Cậu thích thú đọc thông tin. Warren Bellamy không phải là người đầu tiên trong lịch sử đưa ra câu hỏi kỳ lạ này. Chính những từ ấy đã từng vang lên nhiều thế kỷ trước… trên môi vua Solomon khi ngài ai điếu một người bạn bị sát hại. Câu hỏi đến nay vẫn được các hội viên Tam điểm nhắc đến và sử dụng như một ám hiệu cầu cứu. Xem ra Warren Bellamy đang gửi đi một thông điệp khẩn thiết, cho một huynh đệ trong Hội Tam điểm.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 68

Albrecht Durer.

Vừa vội vã theo Langdon băng qua tầng hầm Toà nhà Adams, Katherine vừa cố gắng chắp ghép các đầu mối. Chữ D, là Albrecht Durer - Điêu khắc gia kiêm hoạ sĩ người Đức nổi tiếng thế kỷ XVI này là một trong những nghệ sĩ mà Peter yêu thích, Katherine ít nhiều cũng biết đến các tác phẩm của ông. Dù vậy, cô vẫn không suy đoán được Durer có tác dụng gì trong trường hợp này, chưa kể ông đã qua đời hơn bốn trăm năm rồi.

Tác phẩm của Durer khá hoàn hảo về mặt biểu tượng, - Langdon giải thích khi họ men theo một lối đi nhỏ gắn các biển đề LỐI RA - Có thể coi ông ấy như một tư duy Phục hưng tột bậc, một nghệ sĩ, một triết gia, một nhà giả kim, và một người học trò trọn đời theo đuổi những Bí mật cổ xưa. Cho đến giờ, chưa có ai thực sự hiểu được những thông điệp ẩn giấu trong nghệ thuật của Durer.

- Có thể thế - Katherine nói - Nhưng cụm từ 1514 Albrecht Durer hướng dẫn ra sao về cách giải mã kim tự tháp?

Họ tới một cánh cửa khoá chặt và Langdon sử dụng thẻ của Bellamy để đi qua.

- Con số 1514 chỉ cho chúng ta một tác phẩm rất cụ thể của Durer, - Langdon nói trong lúc bước vội vã lên cầu thang. Họ tiến vào một hành lang rộng. Langdon đưa mắt nhìn quanh và trỏ sang trái - Lối này!

Họ lại tiếp tục rảo bước.

Thực tế, Albrecht Durer giấu con số 1514 trong bức Melencolia I, tác phẩm nghệ thuật bí ẩn nhất của ông, hoàn thành năm 1514. Nó được coi là tác phẩm khai sáng trường phái Phục hưng Bắc Âu.

Peter đã từng cho Katherine xem bức Melencolia I. Trong một cuốn sách cổ về chủ nghĩa thần bí, nhưng cô không thể nhớ ra con số 1514 giấu ở chỗ nào.

- Chắc chị cũng biết. - Langdon nói, giọng đầy hào hứng - bức Melencolia I mô tả sự phấn đấu của con người nhằm hiểu được những Bí mật cổ xưa. Chủ nghĩa thần bí trong Melencolia phức tạp đến nỗi so với nó, nghệ thuật của Leonardo da Vinci cũng trở nên quá lộ liễu.

Ketherine đột ngột dừng phắt lại, quay nhìn Langdon.

- Anh Robert, bức MelencoliaI hiện hữu ngay ở Washington này. Nó được treo tại Phòng trưng bày Quốc gia.

- Vâng - Langdon mỉm cười - và có gì đó mách bảo tôi rằng đây không phải là sự trùng hợp. Giờ này phòng trưng bày đóng cửa rồi, nhưng tôi quen người quản lý và…

- Thôi đi Robert, tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra khi anh đến bảo tàng - Katherine đi vượt lên, đến gần một chiếc máy tính đặt trên bàn kê trong góc tường gần đó.

Langdon bước theo, vẻ không vui lắm.

- Hãy làm theo cách đơn giản hơn.

Giáo sư Langdon, người rất sành nghệ thuật, rõ ràng cảm thấy khổ tâm khi nguyên tác đang ở ngay trong gang tấc mà phải sử dụng Internet để xem. Katherine bước ra sau bàn và bật máy tính. Khi máy hoạt động, một vấn đề khác lại nảy sinh.

- Không có biểu tượng tìm kiếm rồi.

- Đây là mạng thư viện nội bộ mà, - Langdon trỏ một biểu tượng ngay trên màn hình nền - Thử cái này xem.

Katherine bấm vào biểu tượng có ghi SƯU TẬP SỐ HOÁ. Máy tính truy cập vào một màn hình mới, và Langdon lại trỏ tiếp.

Katherine bấm vào biểu tượng anh chọn: SƯU TẬP BẢN IN ĐẸP. - Màn hình lại thay đổi.

BẢN IN ĐẸP: TÌM KIẾM.

Gõ cụm "Albrecht Durer" vào xem.

Katherine nhập tên và bấm phím tìm. Chỉ vài giây sau, màn hình bắt đầu hiển thị một loạt ảnh nhỏ, cho thấy nhiều tác phẩm khá gần gũi về phong cách, cùng một kiểu điêu khắc đen trắng phức tạp. Rõ ràng Durer đã thực hiện hàng chục bản khắc tương tự nhau.

Katherine lướt qua danh sách tác phẩm nghệ thuật sắp xếp theo thứ tự chữ cái.

Adam và Eve

Bốn kỵ sĩ thành Apocalypse

Bữa tiệc Ly

Jesus chịu nạn

Phản Chúa

Nhìn những tiêu đề đầy tính chất Thiên Chúa giáo, Katherine nhớ ra rằng Durer từng thực hành Chủ nghĩa Cơ Đốc thần bí, một sự kết hợp giữa Thiên Chúa giáo sơ khai, thuật giả kim, thiên văn học và khoa học.

Khoa học…

Hình ảnh phòng thí nghiệm ngùn ngụt cháy ập vào tâm trí Katherine. Suốt từ lúc trốn chạy, cô chưa có lấy một phút bình tâm để suy xét từng chi tiết, nhưng lúc này đầu óc cô dồn hết về người trợ lý của mình, Trish. Hy vọng cô ấy thoát nạn.

Langdon đang nói gì đó về tác phẩm Bữa tiệc Ly của Durer, nhưng Katherine nghe rất lơ đễnh. Cô vừa nhìn thấy đường dẫn tới bức tranh Melencolia I Cô bấm chuột, màn hình chuyển sang những thông tin tổng quát.

Melencoha I

Alrecht Durer

(vẽ khắc trên giấy sần)

Bộ sưu tập Rosenwald

Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia Washington D.C.

Katherine kéo xuống dưới, một bức hình số hoá với độ phân giải cao hiện ra, phô bày kiệt tác Durer với tất cả vẻ lộng lẫy của nó.

Katherine ngẩn ngơ ngắm tác phẩm, hầu như quên bẵng nó kỳ lạ ra sao.

Langdon cười thông cảm.

- Tôi đã nói mà, nó rất khó hiểu.

Bức Melencolia I diễn tả một nhân vật với đôi cánh lớn đang trong tư thế suy ngẫm, ngồi đằng trước một toà nhà bằng đá, xung quanh là cả đống tạp nham những đồ vật kỳ lạ: chiếc cân đĩa, con chó gầy giơ xương, dụng cụ thợ mộc, đồng hồ cát, vài khối đá góc cạnh, một cái chuông, một tiểu thiên thần, một thanh kiếm và một cái thang.

Katherine mang máng nhớ ra Peter đã từng nói với cô rằng nhân vật có cánh là thể hiện cho "con người thiên tài" - một nhà tư tưởng vĩ đại tay chống cằm, vẻ rất phiền muộn vì không thể đạt tới sự khai sáng. Xung quanh thiên tài là tất cả những biểu tượng cho khả năng hiểu biết: nào là khoa học, toán học, triết học, tự nhiên, hình học, và thậm trí là nghề mộc… nhưng vẫn không thể leo lên chiếc thang để đạt tới sự khai sáng đích thực. Thậm chí con người thiên tài cũng gặp khó khăn trong việc lĩnh hội những Bí mật cổ xưa.

- Về mặt biểu tượng, tác phẩm này biểu hiện sự nỗ lực bất thành của nhân loại trong việc biến đổi tri thức con người thành sức mạnh thần thánh. Theo thuật ngữ giả kim thì nó thể hiện sự bất lực của chúng ta trong việc biến chì thành vàng - Langdon lên tiếng.

- Không phải là một thông điệp mang tính động viên - Katherine tán thành. Cô vẫn chưa nhìn thấy con số 1514 mà Langdon nói đến - Vậy thì nó giúp gì cho ta chứ?

- Trật tự trong hỗn loạn, - Langdon nhách miệng cười - Đúng như anh trai chị đã nói.

Anh thò tay vào túi, rút ra ma trận chữ cái sao chép từ bức mật mã Tam điểm.

- Hiện thời thì sơ đồ này vô nghĩa - Anh trải tờ giấy ra bàn.

Katherine chăm chú nhìn sơ đồ. Tuyệt nhiên không thấy ý nghĩa gì.

- Nhưng Durer sẽ thay đổi nó.

- Bằng cách nào?

- Bằng nghệ thuật giả kim dưới dạng ngôn ngữ - Langdon trỏ lên màn hình máy tính - Hãy quan sát thật kỹ nhé. Trong kiệt tác này có ẩn giấu một thứ giúp cho 16 chữ cái của chúng ta trở nên ý nghĩa - Anh chờ đợi - Chị đã nhìn ra chưa? Hãy tìm con số 1514 đi.

Katherine chẳng mảy may hứng thú với trò chơi lớp học.

- Tôi không thấy gì cả… quả cầu, cái thang, con dao, khối đá nhiều cạnh, cái cân? Tôi chào thua.

- Nhìn này! Ở phần nền ấy. Khắc trên toà nhà sau lưng thiên thần. Bên dưới quả chuông. Durer đã đục một hình vuông đầy những con số.

Giờ thì Katherine đã nhìn thấy hình vuông gồm nhiều con số, trong đó có số 1514.

- Katherine, hình vuông đó chính là chìa khoá để giải mã kim tự tháp đấy!

Cô nhìn anh đầy kinh ngạc.

- Đây không phải là hình vuông thông thường - Langdon cười rất tươi - Thưa cô Solomon, đó là một ma phương.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 69

Họ đưa mình tới chỗ quái nào thế này?

Bellamy vẫn bị bịt kín mắt ở băng sau chiếc SUV. Sau một lúc dừng đỗ chóng vánh ở đâu đó gần Thư viện Quốc hội, chiếc xe tiếp tục chạy… nhưng chỉ chừng một phút, chắc vừa đủ chạy qua một dãy nhà, rồi lại dừng.

Bellamy nghe loáng thoáng vài tiếng nói.

- Xin lỗi, không được… - một giọng đầy quyền uy vang lên -… giờ này đóng cửa…

Người lái chiếc SUV cũng đáp lại bằng giọng quyền uy không kém.

- Cuộc điều tra của CIA… an ninh quốc gia…

Rõ ràng những lời đối đáp cùng giấy tờ trình ra rất có sức thuyết phục, bởi vì giọng kia thay đổi lập tức.

- Vâng, dĩ nhiên rồi… lối dành riêng… -. Có tiếng rít rất to nghe như tiếng cửa ga-ra. Khi nó mở ra, giọng đó nói thêm - Tôi sẽ theo các vị chứ? Vào trong rồi, các vị sẽ không thể đi qua nữa…

- Không. Chúng tôi đã có cách.

- Nếu người bảo vệ có tỏ vẻ ngạc nhiên thì cũng đã muộn. Chiếc SUV lại chạy. Nó chạy thêm khoảng năm mươi thước rồi dừng. Cánh cổng nặng nề đóng lại phía sau họ.

Im lặng.

Bellamy nhận ra mình đang run bắn.

Cửa sập chiếc SUV mở tung cùng một tiếng két. Bellamy cảm thấy vai đau buốt khi có ai đó dùng hai tay lôi ông ra, xốc ông đứng lên. Chẳng hé một lời, người ta thô bạo kéo ông băng qua lối đi rộng rãi. Nơi đây nồng mùi đất rất lạ mà Bellamy không xác định, được. Có tiếng bước chân khác đi cùng họ, nhưng chưa biết là ai vì chưa thấy lên tiếng lần nào.

Cả nhóm dừng lại trước một cánh cửa. Bellamy nghe thấy tiếng bấm điều khiển điện tử. Cánh cửa mở lạch xạch. Bellamy bị dẫn đi qua vài hành lang, ông nhận ra không khí ấm áp và ẩm ướt hơn. Một bể bơi trong nhà chăng? Không phải! Không có mùi clo… mùi này còn quen thuộc hơn nhiều.

Mình đang ở xó xỉnh nào nhỉ? Bellamy biết rằng chỗ này chỉ cách Điện Capitol một hoặc hai dãy nhà. Họ dừng bước lần nữa, Bellamy lại nghe tiếng bấm cửa. Cánh cửa này mở ra kèm theo tiếng rít xè xè. Bellamy bị đẩy vào trong, và ngửi thấy một mùi không thể lẫn đi đâu được.

Giờ thì Bellamy đã nhận ra họ đang ở đâu. Lạy Chúa! Ông thường xuyên đến đây, mặc dù chưa bao giờ đi theo lối dành riêng. Toà nhà kính đồ sộ này chỉ cách Điện Capitol chừng ba trăm thước, về mặt cấu trúc cũng là một phần trong Quần thể Capitol. Chính mình điều hành nơi này! Bellamy sực hiểu chùm chìa khoá của ông đã giúp họ đi qua các cửa.

Những cánh tay chắc nịch đẩy Bellamy, dẫn ông theo một lối đi quen thuộc, ngoằn ngoèo. Không khí ấm áp, ẩm ướt của nơi này thường làm ông cảm thấy thư thái. Nhưng tối nay, ông lại vã mồ hôi.

Ho làm gì ở đây nhỉ?

Bellamy đột ngột bị kéo khựng lại và đặt ngồi xuống một chiếc ghế băng. Cái người vai u thịt bắp nào đó mở còng tay cho ông vừa đủ thời gian để khoá nó vào chiếc ghế băng phía sau.

- Các người muốn gì ở tôi? - Bellamy hỏi, tim đập mạnh.

Câu trả lời duy nhất ông nhận được là tiếng giày đinh xa dần và cánh cửa kính đóng lại.

Tiếp đến là im lặng.

Im lặng hoàn toàn.

Họ chỉ bỏ mặc mình ở đây thôi sao?

Bellamy xoay xở tìm cách giải phóng hai bàn tay, mồ hôi mồ kê đầm đìa. Mình thậm chí còn không tháo được cái bịt mắt!

- Giúp tôi với - ông hô lớn - Có ai không?

Mặc dù hoảng hốt kêu cứu, Bellamy biết rằng sẽ chẳng ai nghe thấy tiếng ông. Nhà kính khổng lồ, mà người ta thường gọi là Rừng rậm này, hoàn toàn kín mít khi các cửa đóng lại.

Họ bỏ mình trong Rừng rậm, ông nghĩ bụng. Từ giờ đến sáng sẽ chẳng ai tìm thấy mình.

- Đúng lúc ấy ông nghe thấy tiếng động.

Một tiếng động mơ hồ, nhưng khiến Bellamy kinh hoàng hơn bất kỳ âm thanh nào ông từng nghe thấy trong đời. Có cái gì đó đang thở. Rất gần.

Không chỉ có mình ông trên ghế.

Xèo một tiếng, một que diêm bùng lên gần mặt Bellamy, gần đến nỗi ông cảm nhận được cả sức nóng. Bellamy co rúm lại, theo bản năng giật mạnh chiếc còng.

Không hề báo trước, một bàn tay đặt lên mặt ông, gỡ bỏ vuông vải bịt mắt.

Ngọn lửa trước mặt soi rõ đôi mắt đen của Inoue Sato. Bà ta dí que diêm vào điếu thuốc vắt vẻo trên môi, chỉ cách mặt Bellamy vài phân, đoạn chòng chọc nhìn ông dưới ánh trăng lọt qua trần kính. Bà ta có vẻ rất thích thú trước nỗi sợ hãi của viên Kiến trúc sư Điện Capitol.

- Thế nào, ngài Bellamy, - Sato lên tiếng, tay vẩy vẩy que diêm - Chúng ta bắt đầu từ đâu nhỉ?
 

hoahongden12

Active Member

Một ma phương. Katherine gật đầu nhìn ô vuông toàn con số trong tác phẩm của Durer. Chắc người khác phải nghĩ Langdon mất trí, nhưng Katherine nhanh chóng nhận ra rằng anh có lý.

Thuật ngữ ma phương dùng để chỉ một thứ đầy chất toán học chứ không phải ma mị gì. Nó là tên gọi của một ma trận gồm các con số sắp xếp liên tiếp sao cho tổng các hàng, cột và đường chéo là như nhau. Ma phương do các nhà toán học Ai Cập và Ấn Độ phát minh ra từ khoảng bốn nghìn năm về trước, nhiều người tin rằng nó chứa đựng trong mình những sức mạnh diệu huyền. Katherine đọc sách và được biết thậm chí hiện nay, dân mộ đạo ở Ấn Độ vẫn vẽ các ma phương 9 ô Kubera Kolam lên bàn thờ pooia 1, về cơ bản, người hiện đại xếp ma phương vào loại "toán học giải trí", nhưng có một số người vẫn tìm thấy niềm vui từ ô số này qua việc phát hiện ra các hình thể "kỳ bí". Chẳng khác nào trò chơi sudo 2 dành cho những thiên tài.

Katherine phân tích nhanh ô vuông của Durer, cộng các con số theo hàng và cột.

- Bốn mươi tư, - cô nói - Mọi hướng cộng lại đều thành 44.

- Chính xác, - Langdon đáp - Nhưng chị có nhận ra rằng ma phương này nổi tiếng là vì Durer gắn kèm theo nó những chi tiết dường như vô lý không? - Anh nhanh nhẹn chỉ cho Katherine thấy, ngoài việc sắp xếp cho các hàng, cột và đường chéo cộng lại thành 44. Durer còn tìm cách khiến bốn ô vuông góc một phần tư, bốn ô vuông chính giữa, và thậm chí bốn ô vuông ở bốn góc cộng lại cũng ra tổng đó - Nhưng điều kỳ lạ nhất là Durer đã bố trí được con số 15 và 14 sát nhau ở hàng dưới cùng như một cách chỉ thời điểm ông hoàn thành kiệt tác?

Katherine nhìn lướt các con số, vô cùng kinh ngạc trước các kiểu kết hợp.

Giọng Langdon càng thêm sôi nổi.

- Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nhờ bức Melencolia I mà một ma phương xuất hiện trong nghệ thuật Âu châu. Nhiều nhà sử học tin rằng đây là cách mã hoá của Durer, suy ra Bí mật cổ xưa đã vượt khỏi phạm vi các trường Nghệ thuật Thần bí Ai Cập và rơi vào tay các hội kín châu Âu - Langdon ngập ngừng - Điều đó đưa chúng ta trở lại với… thứ này.

Anh trỏ mảnh giấy chép hình ma trận chữ cái trên kim tự tháp đá.

- Bố cục rất giống nhau, phải không? - Langdon hỏi.

- Một hình vuông mỗi chiều bốn ô.

Langdon cầm bút chì và cẩn thận ghi lại ma phương số của Durer lên mảnh giấy, cạnh ô vuông chữ cái. Katherine cảm thấy mọi việc dễ dàng đi nhiều. Langdon vẫn đứng lom khom, bút chì trong tay, nhưng lạ thay, sau khi vô cùng hào hứng, anh lại tỏ ra đắn đo.

- Robert?

Langdon ngoảnh nhìn Katherine, vẻ mặt rõ ràng là bối rối.

- Chị có chắc chúng ta phải làm việc này không? Anh Peter…

- Robert, nếu anh không muốn giải mã những chữ này thì để tôi - Cô giơ tay định giằng lấy chiếc bút chì.

Nhận thấy không thể ngăn cản được Katherine, Langdon đành thuận theo và lại tập trung chú ý vào kim tự tháp. Anh thận trọng áp chồng ma phương lên ma trận chữ của kim tự tháp và gán từng chữ cái với từng con số. Sau đó, anh tạo ra một ma trận khác, sắp xếp các chữ cái trong bức mật mã Tam điểm theo một trật tự mới trên cơ sở bố cục ma phương của Durer.

Khi Langdon làm xong, cả hai người cùng kiểm tra kết quả.

Katherine nghi hoặc.

- Vẫn chưa rõ.

Langdon im lặng một lúc lâu.

- Thực ra, không phải là chưa rõ đâu - Mắt anh lại sáng lên vì phát hiện mới - Nó là… chữ Latinh.

° ° °

Trong hành lang dài, tối om, ông già mù gắng sức dò dẫm để về văn phòng của mình càng nhanh càng tốt. Đến nơi. Ông gần như đổ sụp xuống ghế, xương cốt già nua thư thái vì được nghỉ. Máy trả lời đang phát tín hiệu. Ông nhấn nút và lắng nghe.

- Warren Bellamy đây, - giọng thì thào gấp gáp của người bạn đồng thời là một huynh đệ Tam điểm vang lên - Tôi e rằng có tin khẩn…

° ° °

Katherine Solomon đưa mắt nhìn ma trận chữ cái, xem xét lại nội dung. Hoàn toàn đúng, giờ đây một từ Latinh hiện rõ trước mắt cô. Jeova.

Katherine không học chữ Latinh, nhưng từ này rất quen thuộc vì cô đã đọc nhiều tài liệu tiếng Do Thái cổ. Jeova. Jehovah. Cô tiếp tục lướt xuống dưới, đọc ma trận như đọc một cuốn sách, kinh ngạc nhận ra mình có thể nắm bắt được bộ văn bản của kim tự tháp.

Jeova Sanctus Unus.

Katherine hiểu ngay ý nghĩa. Cụm từ này xuất hiện rất nhiều trong các bản dịch hiện đại của kinh văn Do Thái. Trong Torah 3 chúa của người Do Thái được biết đến với nhiều tên gọi - Jeova, Jehovah, Jeshua, Yahweh. Nguồn cội, Elohim - nhưng nhiều bản dịch tiếng La Mã đã biến danh pháp này thành một cụm từ Latinh duy nhất: Jeova Sanctus Unus.

- Đức Chúa đích thực ư? - cô thì thào tự nhủ. Chắc chắn cụm từ này không thể giúp họ tìm được Peter - Đó là thông điệp bí mật của kim tự tháp ư? Một Đức Chúa đích thực? Tôi cứ nghĩ đây là một tấm bản đồ cơ đấy.

Langdon cũng lúng túng không kém, vẻ hào hứng trong mắt anh đã tan biến.

- Cách giải mã này rõ ràng là đúng, nhưng…

- Kẻ giam giữ anh trai tôi muốn biết vị tr í- Katherine vén tóc ra sau tai - Kết quả này sẽ không làm hắn hài lòng đâu.

- Katherine, - Langdon thở dài - Tôi cũng sợ như vậy. Suốt đêm, tôi có cảm giác chúng ta đang phải xử lý cả một mớ huyền tích. Có lẽ dòng chữ khắc này trỏ tới một địa điểm ẩn dụ, cho chúng ta biết rằng chỉ có thể tiếp cận tiềm năng thật sự của con người thông qua một Đức Chúa đích thực.

- Chẳng có nghĩa gì! - Katherine đáp, hàm bạnh ra vì thất vọng - Gia đình tôi đã bảo vệ cái kim tự tháp này hàng bao thế hệ. Một Đức Chúa đích thực? Đó là bí mật ư? Và CIA coi đây là vấn đề an ninh quốc gia ư? Hoặc là họ đang nói dối hoặc là chúng ta còn bỏ sót điều gì!

Langdon nhún vai.

Bỗng nhiên, điện thoại của anh đổ chuông.

° ° °

Trong văn phòng xếp đầy những cuốn sách cũ. Ông già còng người trên bàn, cầm chặt ống nghe trong bài tay viêm khớp.

Chuông đổ liên tục.

Cuối cùng, một giọng nói ngập ngừng vang lên.

- A lô? - Giọng trầm tĩnh nhưng không chắc chắn lắm.

Ông già thì thào.

- Tôi nghe đồn anh cần một chỗ kín đáo.

Người ở đầu dây bên kia giật mình.

- Ai đấy? Có phải Warren Bell…

- Xin đừng nói tên, - ông già ngắt lời - Cho tôi biết có phải anh đã bảo vệ được tấm bản đồ người ta uỷ thác cho anh không?

Lại giật mình im lặng.

- Vâng… nhưng tôi không nghĩ điều này quan trọng. Nó chẳng thể hiện gì nhiều. Nếu đó là một bản đồ thì dường như nó mang tính ẩn dụ hơn là…

- Không, bản đồ rất thật, tôi dám cam đoan với anh, và nó chỉ tới một địa điểm hữu hình. Anh phải giữ nó an toàn. Tôi khó lòng giải thích cho anh hiểu nó quan trọng đến thế nào. Anh đang bị truy đuổi, nhưng nếu anh có thể kín đáo tới chỗ tôi, tôi sẽ cho anh một chỗ ẩn náu… và câu trả lời.

Người kia ngập ngừng, rõ ràng là không chắc chắn lắm.

- Anh bạn, - ông già lại nói, thận trọng cân nhắc từ ngữ - ở một chỗ trú trong thành Rome, phía bắc sông Tiber, có mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn khác mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke. Anh biết chỗ tôi rồi chứ?

Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu, sau cùng trả lời.

- Vâng, tôi biết.

Ông già mỉm cười. Tôi chắc thể nào anh cũng đoán ra, Giáo sư ạ.

- Đến ngay đi. Nhất định đừng để bị bám đuôi.

--- ------ ------ ------ -------

1 Pooja hay puja là một nghi lễ trong tạ ơn hoặc một nghi thức tôn giáo trong Ấn Độ giáo, được tiến hành như một hình thức lễ vật dâng lên các vị thần, những người tôn quý, hoặc khách đặc biệt. Nghi lễ này được tiến hành trong nhiều dịp và ở nhiều bối cảnh, từ puja hằng ngày thực hiện tại nhà, đến các nghi lễ ở đền miếu và các lễ hội lớn. Puja hình thành từ ý tưởng dâng lễ lên cho thần để nhận được sự phù hộ của thần - ND.

2 Sudoku là lên tiếng Nhật (nghĩa đen là "số độc nhất") của một loại trò chơi logic, cách chơi là điền số từ 1 đến 9 vào những ô trống sao cho mỗi cột dọc, mỗi hàng ngang, mỗi phân vùng nhỏ (ô 3x3) có đủ các số từ 1 đến 9 mà không được lặp lại. Bảng câu đố hình vuông, mỗi chiều có 9 ô nhỏ, hợp thành 9 cột. 9 hàng và được chia thành 9 ô lớn 3x3. Một vài ô nhỏ được đánh số, đó là những gợi ý duy nhất để bạn tìm lời giải. Tuỳ theo mức độ nhiều hay ít của các gợi ý, các câu đố được xếp loại dễ, trung bình, khó hay cực khó - ND.

3 Torah (tiếng Do Thái nghĩa là "lời răn", hoặc "luật lệ") là 5 cuốn sách của Moses và cũng là toàn bộ các văn bản tôn giáo và luật pháp cơ bản của Do Thái giáo - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 71

Mal’akh trần truồng đứng trong phòng tắm hơi, giữa hơi nước nóng cuồn cuộn. Gột xong dấu mùi ethanol cuối cùng, gã thấy mình thanh khiết trở lại. Hơi nước ngâm dầu khuynh diệp ngấm vào da, nhiệt độ cao khiến các lỗ chân lông gã nở rộng. Mal’akh bắt đầu tiến hành nghi thức.

Trước tiên, gã trát hoá chất tẩy lông khắp người và cả mảng da đầu xăm trổ kín mít để loại bỏ hoàn toàn mọi thứ lông, tóc. Những người không có lông lá là thần thánh của bảy hòn đảo Heliades 1 sau đó, gã xoa đều dầu Abramelin lên lớp da thịt đã mềm mại và dễ hấp thu của mình. Abramelin là dầu thiêng của mẹ Magi vĩ đại. Rồi gã vặn hết cỡ vòi tắm sang trái, nước trút xuống lạnh như băng. Gã đứng hẳn một phút dưới làn nước buốt giá để các lỗ chân lông khép lại và giữ lấy hơi ấm cùng năng lượng. Cái lạnh còn có tác dụng gợi nhớ dòng sông băng giá, nơi khởi đầu cho hành trình biến đổi này.

Khi bước ra khỏi phòng tắm, Mal’akh rùng mình, nhưng chỉ vài giây sau, hơi ấm bên trong lan toả qua từng thớ thịt và làm gã ấm lên. Mal’akh cảm thấy trong người nóng sực như lò lửa. Gã đứng trần truồng trước gương và ngắm nghía hình thể của mình… có lẽ là lần cuối cùng, nhìn thấy bản thân trong bộ dạng một kẻ phàm tục hèn mọn.

Hai bàn chân gã là móng vuốt của một con chim ưng. Đôi chân là cặp cột tượng trưng cho trí tuệ cổ đại: Boaz và Jachin. Hông và bụng gã là cổng vòm của sức mạnh thần bí. Ngay bên dưới cổng vòm ấy, cơ quan sinh dục cỡ lớn mang đầy những biểu tượng xăm trổ thể hiện định mệnh của gã. Đã có lúc, cái khối thịt nặng nề này là nguồn khoái cảm nhục dục của gã. Nhưng giờ thì không như vậy nữa.

Ta đã giữ mình thanh khiết.

Như các tu sĩ tĩnh thân dòng Katharoi 2, Mal’akh đã tự cắt bỏ tinh hoàn, hy sinh khả năng giao cấu thể xác vì một thứ xứng đáng hơn. Thần thánh làm gì có giới tính. Vứt bỏ sự kém hoàn hảo về giới tính của loài người cùng với cám dỗ nhục dục trần tục, Mal’akh trở thành Ouranos 3 Attis 4, Sporus 5 và những pháp sư tĩnh thân vĩ đại trong truyền thuyết về vua Arthur. Mọi biến thái vật chất sẽ dẫn tới biến thái tinh thần. Đó là bài học của tất cả các vị thần vĩ đại… từ Osiris, Tammuz, Jesus, tới Shiva và cả Phật tổ.

Ta phải trút bỏ cái lốt người phàm bấy nay.

Bất ngờ, Mal’akh đẩy dần ánh mắt lên cao, qua hình phượng hoàng hai đầu trên ngực, qua những con dấu cổ trang trí trên mặt, và lên thẳng đỉnh đầu. Gã nghiêng đầu về phía gương, cố nhìn khoảng da tròn nhẵn nhụi vẫn nằm chờ đợi ở đó. Đây là vị trí rất thiêng liêng trên cơ thể, với tên gọi "cái thóp", là vùng sọ không liền khi người ta mới chào đời, là con mắt nhìn vào não bộ. Mặc dù cánh cổng sinh lý học này khép lại dần theo năm tháng nhưng nó vẫn là một dấu tích mang tính biểu trưng cho sự liên hệ đã mất giữa thế giới bên trong và bên ngoài.

Mal’akh ngắm nghía mảng da trơn thiêng liêng đó. Bao quanh nó là một vòng tròn hình hàm vĩ xà (ouroboros), mô tả một con rắn huyền bí đang ăn đuôi của chính mình. Mảng thịt nhẵn nhụi dường như cũng nhìn lại gã… rạng rỡ đầy hứa hẹn.

Không lâu nữa. Robert Langdon sẽ khám phá ra kho báu vĩ đại mà Mal’akh cần. Hễ gã nắm lấy kho báu ấy, khoảng trống trên đỉnh đầu này sẽ được lấp kín, đó là lúc sẵn sàng để tiến vào quá trình chuyển đổi cuối cùng.

Mal’akh băng ngang phòng ngủ, mở ngăn tủ dưới cùng và lấy ra một tấm lụa trắng dài. Tương tự các lần trước đó, gã quấn nó quanh bẹn và mông, rồi đi xuống gác.

Gã vào phòng làm việc, kiểm tra máy tính thì thấy có một bức thư điện tử.

Từ một người quen:

NHỮNG GÌ ANH CẦN GIỜ TRONG TẦM TAY.

TÔI SẼ LIÊN LẠC VỚI ANH TRONG VÒNG MỘT GIỜ NỮA. CỨ KIÊN NHẪN.

Mal’akh mỉm cười. Đã đến lúc thực hiện thao tác chuẩn bị cuối cùng.

--- ------ ------ ------ -------

1 Heliades là một thiên đường gồm bảy hòn đảo ở phương nam, nằm đâu đó ngoài khơi Aithiopia và Ấn Độ, tại Ấn Độ Dương. Đây là một vùng đất thanh bình, không có mùa đông, với những cánh rừng hoa trái quanh năm. Cư dân ở đây là một chủng tộc xinh đẹp và đức hạnh. Họ cao ráo và hoàn toàn không có lông - trừ trên đầu, cằm và lông mày. Họ có đôi tai có van và lưỡi chẻ nên họ có thể nói chuyện với hai người khác nhau cùng một lúc, cũng như bắt chước được tiếng các loài. Họ mặc áo choàng bằng vải lanh nhuộm màu tía. Cư dân Heliades (thần dân của Mặt trời) sống rất lâu. Đến tuổi 150, họ phải trải qua một hình thức chết mà không đau đớn. Mỗi hòn đảo có một vị vua, người lớn tuổi nhất đảo, trị vì. Ở nơi này không có gia đình. Trẻ em được nuôi chung và kiến thức làm cha mẹ bị cấm ngặt. Lúc mới chào đời, trẻ sơ sinh được đặt lên lưng một con chim thần để xác định khuynh hướng tinh thần của chúng. Những đứa trẻ không qua được "bài kiểm tra này sẽ bị loại bỏ và bị bỏ mặc cho tới chết - ND.

2 Katharoi là từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "thuần khiết", dùng để chỉ một trường phái Thiên Chúa giáo với các yếu tố đối ngẫu xuất hiện ở vùng Languedoc nước Pháp và các vùng khác của châu Âu trong thế kỷ XI-XIII. Các tín đồ phái này hình thành một nhóm bài tăng lữ đối lập với Nhà thờ Công giáo, phản đối những gì họ xem là sự suy đồi về đạo đức, tinh thần và chính trị của Nhà thờ. Họ cho rằng giao phối và sinh nở khiến cho tinh thần bị lệ thuộc vào xác thịt, do đó có thể gây ra nhiều phiền toái. Những người thuộc tầng lớp trên (Perfecti) phải sống độc thân hoàn toàn - ND.

3 Uranus hay Ouranus nghĩa là "bầu trời". Trong thần thoại Hy Lạp, Uranus được hình tượng hoá như là con trai và cũng là chồng của Đất Mẹ Gaia. Uranus và Gaia là thuỷ tổ của hầu hết các thần Hy Lạp. Theo truyền thuyết, đêm đêm Uranus trùm lên trái đất và giao cấu với Gaia, nhưng lại rất ghét những đứa con mà bà có với ông. Uranus giam những đứa con út của Gaia ở Tartarus, sâu trong lòng đất, khiến cho Gaia đau xót. Bà đúc một lưỡi hái và bảo các con trai của mình dùng nó để thiến Uranus. Chỉ có Cronus, đứa út dám làm việc này. Cronus phục kích và thiến cha mình, vứt tinh hoàn xuống biển. Sau khi bị thiến, Bầu trời không còn trùm lên Mặt đất nữa, mà ở nguyên một chỗ - ND.

4 Attis theo thần thoại cổ là người tình của nữ thần Cybele. Attis không chung thuỷ nên bị Cybele trả thù bằng cách làm cho ông ta hoá điên và tự thiến mình. Các thày tế thờ cúng Attis đều tự hoạn - ND.

5 Sporus là một thanh niên xinh đẹp có vẻ ngoài rất giống Poppaea Sabina, vợ của bạo chúa Nero. Khi Sabina chết năm 63 sau Công nguyên, Nero say mê thanh niên này, bắt anh ta phải thiến rồi cho mặc quần áo phụ nữ, và gọi anh ta bằng cái tên Sabina. Nero thậm chí còn công khai cưới Sporus vào năm 67 sau Công nguyên - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 72

Đặc vụ CIA tụt xuống khỏi ban công phòng đọc, lòng vô cùng cay cú

Lão Bellamy nói dối. Anh ta không phát hiện ra dấu nhiệt nào gần bức tượng Moses cũng như bất kỳ đâu trên gác.

- Thế thì tay Langdon biến đi đằng quái nào nhỉ?

Gã đặc vụ lần lại lộ trình của Langdon tới trung tâm phân phối của thư viện, địa điểm duy nhất xuất hiện dấu nhiệt. Một lần nữa, anh ta đi xuống cầu thang nằm bên dưới cái bục hình bát giác. Các băng chuyền đang chạy phát ra tiếng ồn nghe thật khó chịu, vào tới nơi, gã đặc vụ chỉnh thiết bị nhìn đêm và quan sát căn phòng một lượt. Chẳng có gì cả. Anh ta nhìn về phía những giá sách, cánh cửa bị phá hỏng vẫn còn nghi ngút hơi nóng do vụ nổ. Chẳng thấy…

Mẹ kiếp!

Anh ta nhảy bật lại khi một vệt phát quang bất ngờ lọt vào tầm nhìn Đó là hai hình người lờ mờ như cặp ma trơi, xuất hiện trên mặt tường cạnh một băng chuyền. Các dấu nhiệt.

Gã đặc vụ thừ người nhìn hai bóng ma theo băng chuyền di chuyển quanh phòng rồi biến mất sau một lỗ hổng hẹp trên tường.

Họ dùng băng chuyền để thoát thân ư? Đúng là điên rồ.

Ngoài việc nhận ra họ đã để sổng Robert Langdon qua một lổ hổng trên tường, gã đặc vụ còn hiểu rằng mình đang gặp phải một vấn đề khác. Langdon không chỉ có một mình?

Anh ta định tắt thiết bị nhìn và gọi cho đội trưởng, thì đội trưởng đã gọi lại trước.

- Các vị trí chú ý, có một chiếc Volvo bỏ không ở ngay quảng trường trước thư viện. Tên chủ xe là Katherine Solomon. Nhân chứng nói rằng cô ta vào thư viện cách đây không lâu. Chắc hẳn cô ta đang ở cùng Robert Langdon. Giám đốc Sato ra lệnh phải tìm cả hai ngay lập tức - Tôi vừa phát hiện dấu nhiệt của bọn họ - gã đặc vụ ở phòng phân phối thông báo.

- Lạy Chúa tôi! - viên đội trưởng hỏi - Băng chuyền chạy đi chỗ nào thế?

Gã kia kiểm tra biểu đồ tham chiếu nhân viên trên bảng tin.

- Toà nhà Adams, - anh ta đáp - Cách đây một dãy nhà.

- Các vị trí chú ý! Dồn hết về Toà nhà Adams! NGAY LẬP TỨC!
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 73

Chỗ ẩn náu. Câu trả lời

Mấy từ đó cứ ong ong trong tâm trí Langdon khi anh cùng Katherine bước qua cửa ngách Toà nhà Adams ra trời đêm mùa đông lạnh lẽo. Người gọi bí mật kia đã chỉ dẫn vị trí của mình theo kiểu mã hoá, nhưng Langdon vẫn hiểu. Katherine có vẻ tin tưởng đích đến ấy một cách đáng ngạc nhiên: Còn nơi nào tốt hơn để tìm một Đức Chúa Đích thực?

Vấn đề là làm sao tới được đó.

Langdon nhìn quanh, cố gắng xác định phương hướng. Trời tối om, nhưng may là trong trẻo. Họ đang đứng trong một khoảnh sân nhỏ. Phía xa, Mái vòm Điện Capitol hiện lên tráng lệ, Langdon sực nhớ đã mấy tiếng rồi kể từ khi đặt chân tới đây, bây giờ anh mới được bước chân ra ngoài trời.

Bài thuyết giảng của mình quá cực nhọc.

- Robert, nhìn kìa, - Katherine trỏ về phía Toà nhà Jefferson 1.

Phản ứng đầu tiên của Langdon khi nhìn thấy toà nhà là sự ngạc nhiên, bởi họ đã di chuyển thật xa dưới lòng đất bằng một cái băng chuyền. Tuy nhiên, phản ứng thứ hai của anh là giật mình cảnh giác.

Lúc này Toà nhà Jefferson rất ồn ào, xe tải và xe con ùn ùn kéo tới, tiếng người la hét, quát tháo. Lại có cả đèn rọi thì phải?

Langdon nắm lấy tay Katherine.

- Mình đi thôi!

Họ băng qua khoảnh sân, lao về phía đông bắc, mau chóng khuất dạng sau một toà nhà hình chữ U rất đẹp. Langdon nhận ra đó là Thư viện Folger Shakespeare. Toà nhà đặc biệt này xem ra là lớp nguỵ trang rất thích hợp cho họ tối nay, vì ở đó có bản thảo gốc tiếng Latin cuốn Newatlantis của Francis Bacon, trình bày một quan điểm viễn tưởng mà những người sáng lập nước Mỹ dựa vào để xây dựng mô hình thế giới mới trên nền tảng tri thức cổ xưa. Mặc dù vậy. Langdon vẫn không dừng lại ở đây.

- Chúng ta cần một chiếc taxi.

Họ đến góc giao giữa phố Số 3 và phố East Capitol. Xe cộ khá thưa thớt, Langdon đưa mắt tìm taxi, lòng thấy mất dần hy vọng. Anh và Katherine vội vã đi dọc phố Số 3, tiến lên phía bắc, cố tránh xa Thư viện Quốc hội. Đi hết cả một dãy nhà Langdon mới nhìn thấy một chiếc taxi đang vòng qua góc phố. Anh ra hiệu cho xe chậm lại, chiếc xe sáp tới.

Radio xe đang bật nhạc vùng Trung Đông. Anh chàng lái xe gốc Ả rập mỉm cười thân thiện. Đợi hai người chui vào xe xong, anh ta hỏi.

- Đi đâu đây?

- Chúng tôi cần tới…

- Khu Tây bắc! - Katherine xen ngang, chỉ theo hướng phố Số 3 chạy xa khỏi Toà nhà Jefferson - Cho xe về Nhà ga Union, sau đó rẽ trái vào Đại lộ Massachusetts. Chúng tôi sẽ cho anh biết phải dừng lại chỗ nào.

Người lái xe nhún vai, đóng vách ngăn bằng kính Plexiglas và lại vặn nhạc lên.

Katherine dùng ánh mắt nhắc nhở Langdon: "Đừng để lộ hành trình". Cô trỏ tay ra cửa sổ. Một chiếc trực thăng màu đen đang bay là là cố tiếp cận khu vực này. Chết thật. Rõ ràng Sato rất quyết tâm lấy lại cái kim tự tháp của Solomon.

Khi chiếc trực thăng đáp xuống giữa hai toà nhà Jefferson và Adams, Katherine quay sang Langdon, nét mặt thêm lo âu.

- Tôi xem điện thoại di động của anh một lát được không?

Langdon đưa điện thoại cho cô.

- Peter kể với tôi rằng anh có khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh - cô vừa nói vừa hạ kính cửa xe xuống - Và anh nhớ tất cả mọi số điện thoại anh từng bấm phải không?

- Phải, nhưng mà…

Katherine ném mạnh điện thoại ra ngoài. Langdon xoay người trên ghế nhìn chiếc điện thoại di động của mình lăn lông lốc và vỡ tung trên vỉa hè phía sau họ.

- Sao chị lại làm thế?

- Ngắt liên lạc, - Katherine nói, ánh mắt nghiêm trang - Kim tự tháp là hy vọng duy nhất để tìm ra Peter. Tôi không định để CIA giằng nó khỏi tay chúng ta.

Trên hàng ghế trước, Omar Amirana lắc lư đầu và rên ư ử theo tiếng nhạc. Đêm trôi thật chậm, anh cảm thấy may mắn vì cuối cùng cũng có khách. Chiếc taxi vừa chạy qua Công viên Stanton thì giọng nói quen thuộc của nhân viên điều hành vang lên trên bộ đàm.

- Trung tâm điều phối đây. Các xe trong khu vực Công viên Quốc gia chú ý. Chúng tôi vừa nhận được một bản tin từ chính quyền, thông báo có hai kẻ bỏ trốn gần Toà nhà Adams…

Omar ngạc nhiên lắng nghe nhân viên điều phối mô tả đúng đôi trai gái ngồi trong xe anh. Anh lén nhìn qua kính chiếu hậu. Omar phải thừa nhận, anh chàng cao ráo kia thật sự trông rất quen. Hay là mình đã nhìn thấy anh ta trên chương trình America"s Most Wanted 2 nhỉ?

Rất thận trọng, Omar với lấy máy bộ đàm.

- Trung tâm điều phối? - Anh nói khẽ vào bộ đàm - Đây là xe một-ba-bốn. Hai người mà trung tâm vừa nhắc đến đang ở trong xe tôi…

Trung tâm lập tức hướng dẫn những việc Omar cần làm. Tay run bắn, người lái xe bấm phím gọi số máy mà nhân viên điều phối vừa đưa. Giọng trả lời rất ngắn gọn và hiệu quả, như của một quân nhân.

- Đặc vụ Turner Simkins, Nhóm tác chiến CIA đây. Ai đấy?

- A tôi là lái xe taxi… - Omar đáp - Trung tâm bảo tôi gọi cho ông để thông báo về hai…

- Những kẻ chạy trốn đang trên xe của anh phải không? Chỉ trả lời đúng hoặc không thôi.

- Đúng.

- Họ có nghe được cuộc trò chuyện này không? Có hoặc không?

- Không. Vách ngăn…

- Anh đang chở họ đi đâu?

- Hướng tây bắc, đến Đại lộ Massachusetts.

- Địa điểm cụ thể?

- Họ không nói.

Đặc vụ CIA lưỡng lự.

- Hành khách nam còn mang theo cái túi da không?

Omar liếc qua kính chiếu hậu, quét nhanh mắt sang bên cạnh.

- Còn! Cái túi đó không có chất nổ hay thứ gì bên trong…

- Nghe kỹ đây, - đặc vụ kia nói - Anh không gặp nguy hiểm chừng nào anh làm theo đúng hướng dẫn của tôi. Rõ chưa?

- Vâng, thưa ông.

- Tên anh là gì nhỉ?

- Omar, - anh chàng lái taxi đáp, mồ hôi vã ra như tắm.

- Nghe này, Omar, - người kia bình tĩnh dặn - Anh hành động rất tốt. Tôi muốn anh lái xe chậm hết mức để tôi kịp cho người chặn đường. Anh có hiểu không?

- Vâng, thưa ông.

- Xe anh có thiết bị đàm thoại nội bộ để trao đổi với khách ngồi sau chứ?

- Vâng, thưa ông.

- Tốt. Vậy đây là những gì tôi muốn anh làm.

--- ------ ------ ------ -------

1 Toà nhà Thomas Jefferson là toà nhà lâu đời nhất trong số ba toà nhà của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, xây dựng trong thời gian 1890 đến 1897. Toà nhà này là nơi tập hợp các tác phẩm của những điêu khắc và hoạ sĩ trường phái "Phục Hưng Mỹ", thể hiện sự tiến bộ của nền văn minh, được nhân cách hoá vào những vĩ nhân. Phần ngoại thất, các vòm cửa sổ được trang trí các đầu tượng chân dung - ND.

2 Chương trình America’s Most Wanted là một chương trình truyền hình Mỹ do hãng 20th Century Fox sản xuất, và là chương trình phát sóng lâu nhất trong lịch sử mạng truyền hình của Fox. Mục đích của chương trình là giới thiệu và hỗ trợ việc thực thi luật pháp trong việc bắt giữ những tội phạm trốn chạy bị truy nã, và cả những người có trong danh sách 10 đối tượng bị truy nã gắt gao nhất của FBI - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 74

Vườn Bách thảo Hoa Kỳ (USBG) - bảo tàng sống của nước Mỹ - nằm ngay cạnh Điện Capitol. Ở chính giữa vườn này là một nhà kính cao ngất, ôm trọn khu rừng mưa nhiệt đới có biệt hiệu Rừng rậm. Trong rừng trồng toàn những thân cao su lừng lững, những cây đa bóp cổ, và một lối đi có mái che dành cho các du khách ưa mạo hiểm.

Bình thường, Warren Bellamy luôn cảm thấy tràn trề sinh lực trước mùi đất ngai ngái của Rừng rậm và ánh mặt trời lấp lóe qua lớp hơi nước mù mịt phì ra từ các vòi xịt trên trần kính. Nhưng đêm nay, Rừng rậm ngập trong ánh trăng lại khiến ông kinh sợ. Người đầm đìa mồ hôi. Bellamy oằn mình chống chọi cơn tê buốt đang lan khắp hai cánh tay vẫn bị trói quặt sau lưng.

Giám đốc Sato đi đi lại lại trước mặt ông, thản nhiên rít thuốc lá - một hành động huỷ hoại sinh thái trong môi trường được chăm chút hết sức cẩn thận này. Gương mặt bà ta gần như ma quái sau đám khói thuốc trộn lẫn ánh trăng chảy xuống từ trần kính phía trên.

- Vậy là tối nay - bà ta tiếp tục - khi ông đến Điện Capitol và phát hiện ra sự có mặt của tôi… ông đã quyết định. Thay vì thông báo cho tôi biết, ông lại lặng lẽ mò xuống SBB, táo gan tấn công Chỉ huy Anderson và tôi, rồi giúp Langdon tẩu thoát cùng kim tự tháp và cái chóp - Bà ta xoa xoa vai - Một lựa chọn thật thú vị.

Dẫu lựa chọn lại tôi sẽ vẫn hành động như vậy, Bellamy nghĩ.

- Peter đâu? - ông giận dữ chất vấn.

- Làm sao tôi biết được? - Sato tỉnh bơ.

- Bà biết tất cả mọi việc! - Bellamy quát lại, chẳng buồn che giấu nỗi nghi ngờ rằng con người này đứng sau tất cả mọi việc - Bà biết đường tìm đến Điện Capitol. Bà biết đường tìm Robert Langdon. Thậm chí bà còn biết chụp X quang túi xách của anh ta để tìm cái chóp. Rõ ràng có kẻ đã cung cấp cho bà rất nhiều thông tin tay trong.

Sato cười lạnh tanh và bước lại gần Bellamy hơn.

- Đó là lý do khiến ông tấn công tôi phải không? Ông coi tôi là kẻ thù chăng? Ông cho rằng tôi đang tìm cách đánh cắp cái kim tự tháp bé xíu ấy? - Sato rít một hơi thuốc và phả khói qua lỗ mũi - Nghe cho kỹ đây. Không ai hiểu rõ hơn tôi về tầm quan trọng của việc giữ bí mật. Cũng như ông, tôi tin rằng có nhiều thông tin mà công chúng tuyệt đối không nên biết. Tuy nhiên đêm nay, có những thế lực đang tự tung tự tác mà tôi e rằng ông chưa lường hết. Cái gã bắt cóc Peter Solomon sở hữu quyền năng rất ghê gớm… một quyền năng mà rõ ràng ông chưa nhận ra. Tin tôi đi, gã là một quả bom hẹn giờ di động… đủ sức kích thích một loạt sự kiện chắc chắn gây đảo lộn cả thế giới này.

- Tôi không hiểu - Bellamy nhổm khỏi ghế, cánh tay đau điếng vì cái còng.

- Ông không cần hiểu. Ông cần tuân lệnh. Bây giờ, hy vọng duy nhất để ngăn chặn thảm hoạ ghê gớm là hợp tác với gã này… và trao cho gã đúng những gì gã muốn. Nghĩa là, ông hãy gọi cho Langdon và bảo anh ta quay lại cùng ngọn tháp và cái chóp. Với sự quản thúc của tôi, anh ta sẽ giải mã các văn tự trên kim tự tháp, thu thập các thông tin gã kia đòi hỏi và cung cấp cho gã đúng những gì gã muốn.

Vị trí của cầu thang xoáy ốc dẫn tới những Bí mật cổ xưa ư?

- Tôi không thể làm như vậy. Tôi đã thề giữ bí mật.

Sato nổi cáu.

- Tôi mặc mẹ chuyện ông thề thốt, tôi sẽ quẳng ông vào tù…

- Cứ việc doạ dẫm - Bellamy thách thức - Tôi sẽ không giúp bà đâu.

Sato hít một hơi thật sâu và thì thào bằng giọng đáng sợ.

- Thưa ông Bellamy, ông chưa hiểu những gì đang thực sự diễn ra đêm nay, phải không?

Sự im lặng căng thẳng kéo dài vài giây, cuối cùng được phá vỡ nhờ tiếng điện thoại của Sato. Bà ta thò tay vào túi, nôn nóng móc điện thoại ra.

- Nói đi. - bà ta ra lệnh và chăm chú nghe trả lời - Taxi của họ đang ở đâu? Bao lâu? Được, tốt lắm. Mang họ tới Vườn Bách thảo. Lối dành riêng ấy, và nhớ phải lấy được cái kim tự tháp chết tiệt cùng chóp của nó nhé.

Sato tắt máy, quay lại phía Bellamy với nụ cười tự mãn.

- Giờ thì tốt rồi… ông sắp hết giá trị sử dụng rồi.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 75

Robert Langdon ngó mông lung ra khoảng không, mỏi mệt đến nỗi xe đang chạy rề rề mà anh cũng chẳng buồn giục tài xế lái nhanh hơn. Bên cạnh anh, Katherine rơi vào trạng thái trầm tư, xem chừng chán nản bởi sự thiếu hụt thông tin về tầm quan trọng của kim tự tháp.

Cô và Langdon vừa dượt lại tất cả các chi tiết quanh ngọn tháp, cái chóp và những sự việc kỳ lạ tối nay, song vẫn chẳng hiểu tại sao kim tự tháp này lại được coi là bản đồ chỉ dẫn.

Jeova Sanctus Unus? Bí mật giấu trong Tổ Chức?

Người liên lạc bí mật đã hứa sẽ cho họ biết câu trả lời nếu họ đến gặp ông. Ở một chỗ trú trong thành Rome, phía bắc sông Tiber.

Langdon biết "thành Rome mới" của tiền nhân đã được đặt tên là Washington ngay từ buổi đầu lịch sử, nhưng những dấu tích về giấc mơ nguyên thuỷ của họ thì vẫn còn: nước sông Tiber vẫn chảy vào sông Potomac, các thượng nghị sĩ vẫn họp bên dưới bản sao mái vòm giáo đường St. Peter, các vị thần Vulcan và Minerva vẫn nhìn xuống ngọn lửa đã tắt từ lâu của Nhà tròn.

Những câu trả lời mà Langdon và Katherine tìm kiếm rõ ràng đang đợi họ ở phía trước, cách đây vài dặm. Hướng Tây bắc, trên Đại lộ Massachusetts. Đích đến của họ trên thực tế là nơi lánh nạn nằm mé bắc nhánh sông Tiber của Washington. Langdon mong sao người lái xe tăng tốc.

Đột nhiên, Katherine bật dậy trên ghế cứ như thể vừa đột ngột nhận ra điều gì.

- Chúa ơi, Robert! - Cô quay sang anh, mặt trắng bệch, do dự một lát rồi nhấn mạnh - Chúng ta đang đi sai đường!

- Không, đường này đúng mà, - Langdon gạt đi - Hướng tây bắc, trên Đại lộ Massachu…

- Không! Ý tôi là chúng ta sẽ tới nhầm chỗ!

Langdon bối rối. Anh đã cho Katherine biết người đàn ông nọ ám chỉ địa điểm nào. Nó có mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke. Chỉ có duy nhất một toà nhà phù hợp với mô tả trên, và chính là điểm đích của chiếc taxi này.

- Katherine, tôi tin chắc đúng là nơi đó.

- Không! - Katherine kêu lên - Chúng ta không cần tới chỗ ông ấy nữa. Tôi đã đoán ra kim tự tháp và cái chóp! Tôi biết chúng chỉ điều gì rồi!

Langdon tỏ ra ngạc nhiên.

- Chị biết rồi!

- Đúng! Chúng ta phải tới Quảng trường Tự Do! 1

Langdon không hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Quảng trường Tự Do, mặc dù gần đây thôi, nhưng nghe chừng chẳng liên quan chút nào.

Jeova Sanctus Unus! - Katherine giải thích - Một đức Chúa đích thực của người Do Thái. Biểu tượng thiêng liêng của người Do Thái là ngôi sao Do Thái, dấu ấn của Solomon, một biểu tượng quan trọng đối với Hội Tam điểm! - Cô moi tờ một đô la trong túi ra - Cho tôi mượn cây bút.

Langdon rút bút khỏi túi áo.

- Xem này - Katherine trải tờ tiền lên đùi, đón cây bút và trỏ vào dấu Quốc ấn ở mặt sau tờ tiền - Nếu áp dấu ấn Solomon lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ… - Cô vẽ biểu tượng ngôi sao Do Thái lên đúng hình kim tự tháp - Hãy xem anh thấy gì nào!

Langdon ngó xuống tờ tiền rồi ngơ ngác nhìn lại Katherine.

- Robert, hãy nhìn kỹ hơn xem Anh không nhận thấy tôi đang chỉ ra thứ gì ư?

Langdon quan sát lại hình vẽ.

Ý cô ấy là sao?

Langdon đã từng nhìn thấy hình ảnh này. Nó rất quen thuộc với giới lý luận, như một "bằng chứng" cho thấy Hội Tam điểm nắm giữ ảnh hưởng bí mật đối với nước Mỹ thời kỳ đầu. Khi ngôi sao sáu cánh được đặt trùng khít lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ, đỉnh ngôi sao sẽ trùng với con mắt thông huyền… và, rất kỳ lạ, năm cánh còn lại trỏ đúng các chữ cái M-A-S-O-N (Hội Tam điểm).

- Katherine, đây chỉ là một sự trùng hợp, tôi không thấy nó có liên hệ gì với Quảng trường Tự Do.

- Xem lại đi! - Katherine yêu cầu, giọng gần như giận dữ - Anh không thấy chỗ tôi đang chỉ sao? Ngay đây này. Anh không nhận ra à?

Chỉ trong tích tắc. Langdon nhìn ra.

° ° °

Đội trưởng nhóm tác chiến CIA Turner Simkins đang đứng bên ngoài Toà nhà Adams, tai áp chặt điện thoại di động, gắng sức lắng nghe cuộc trao đổi diễn ra ở băng sau chiếc taxi. Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Nhóm của anh ta định leo lên một chiếc trực thăng Sikorsky UH-60 cải tiến để bay lên phía tây bắc và lập chốt chặn, nhưng tình hình đột ngột thay đổi.

Vài giây trước, Katherine Solomon cho rằng họ đang đi sai địa điểm. Lời giải thích của cô về đồng đô la và ngôi sao Do Thái nghe thật rối rắm đối với anh chàng đội trưởng, và rõ ràng cũng chẳng mấy minh bạch với Robert Langdon. Chí ít là lúc đầu. Nhưng bây giờ xem chừng Langdon đã hiểu ý cô.

- Chúa ơi, chị nói đúng! - Langdon buột miệng - Thế mà tôi không nhận ra sớm hơn!

Tiếng đó Simkins nghe tiếng đập mạnh vào vách ngăn, rồi tiếng vách ngăn mở ra.

- Thay đổi kế hoạch - Katherine nói như quát với người lái taxi - Đưa chúng tôi tới Quảng trường Tự Do.

- Quảng trường Tự Do ạ? - Omar bồn chồn hỏi lại - Không lên phía tây bắc Massachusetts nữa à?

- Khỏi cần! - Katherine dằn giọng - Quảng trường Tự Do! Rẽ trái từ đây! Đây! Từ đây?

Đặc vụ Simkins nghe thấy tiếng taxi ngoặt gấp. Katherine tiếp tục thảo luận một cách phấn khích, lần này là về bản mẫu Quốc ấn bằng đồng đặt tại Quảng trường Tự Do.

- Thưa bà, xin xác nhận lại - giọng người lái taxi xen vào, nghe rất căng thẳng - Chúng ta sẽ tới Quảng trường Tự Do ở góc Đại lộ Pennsylvania và Phố 13?

- Phải! - Katherine đáp - Mau lên!

- Rất gần thôi. Hai phút nữa.

Simkins mỉm cười. Làm tốt lắm, Omar. Anh ta lao nhanh tới chiếc trực thăng, thét gọi cả đội.

- Chúng ta tóm được họ rồi! Quảng trường Tự Do! Đi!

--- ------ ------ ------ -------

1 Quảng trường Tự Do (Freedom Plaza), thoạt tiên có tên Westem Plaza, là một quảng trường ở Tây Bắc Washington D.C., nằm tại góc giao của Phố 14 và Đại lộ Pennsylvania, ngay sát Công viên Pershing. Thiết kế năm 1880, quảng trường này chủ yếu bằng đá, được lát theo bản mô tả một phần quy hoạch Thành phố Washington của Pierre (Peter) Charles L’Enfant. Phần lớn quảng trường được nâng cao hơn so với cốt nền đường phố. Đầu phía tây của quảng trường có một đài phun nước lớn, còn đầu phía đông có bức tượng Kazimierz Pulaski cưỡi ngựa. Quảng trường được đặt lại tên theo Martin Luther King. Jr., người viết bài diễn thuyết "Tôi có một giấc mơ" tại Khách sạn Willard gần đó. Năm 1988, một hộp thời gian chứa cuốn Kinh thánh, chiếc áo choàng, và vài di vật khác của King được đặt tại đây. Nó sẽ được mở lại vào năm 2088. Vị trí của quảng trường chính là nơi giao nhau của các tuyến tàu điện ngầm. Nhà ga Federal Triangle Metro, đối diện với quảng trường qua Đại lộ Pennsylvania, dành cho tuyến Xanh lam và tuyến Da cam. Còn Ga Metro Center với các tuyến Đỏ, Xanh lam, Da cam thì nằm trên Phố 13, cách đó hai dãy nhà - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 76

Quảng trường Tự Do là một tấm bản đồ.

Nằm ở góc Đại lộ Pennsylvania giao với Phố 13, bề mặt lát đá rộng mênh mông của khu vực này tái hiện đường phố Washington đúng như thiết kế nguyên bản của Pierre L’Enfant. Quảng trường Tự Do là điểm đến quen thuộc của khách du lịch, không chỉ vì tấm bản đồ khổng lồ thú vị mà còn vì luật sư Martin Luther Kinh Jr., từng viết phần lớn bài phát biểu "Tôi có một giấc mơ" tại Khách sạn Willard gần đó. Tên quảng trường được đặt lại cũng là để tôn vinh ông.

Omar Amirana chở du khách tới Quảng trường Tự Do đã rất nhiều lần, nhưng hai hành khách tối nay rõ ràng không phải là người tham quan thông thường. CIA đang truy lùng họ? Omar chưa kịp đỗ lại bên lề thì hai người ấy đã nhảy ra.

- Chờ ở đây nhé! - người đàn ông mặc chiếc áo khoác vải thô dặn Omar - Chúng tôi sẽ quay lại ngay!

Dứt lời, họ chạy vội ra chỗ tấm bản đồ khổng lồ, vừa quan sát hình các đường phố giao cắt nhau, vừa chỉ trỏ trao đổi. Omar nhìn theo, rồi vớ lấy điện thoại di động chỗ bảng điều khiển.

- A lô, ông vẫn còn đó chứ?

- Phải! - một giọng quát to, rất khó nghe do tiếng ầm ầm bên phía anh ta - Giờ họ ở đâu?

- Đã ra chỗ tấm bản đồ. Hình như đang tìm kiếm gì đó.

- Đừng để họ thoát khỏi tầm mắt anh, - đặc vụ kia hét to - Tôi sắp đến nơi rồi!

Omar tiếp tục theo dõi. Hai kẻ bị truy đuổi nhanh chóng tìm được dấu Quốc ấn nổi tiếng, một trong những tấm huy chương bằng đồng lớn nhất trên đời. Họ nấn ná ở đó chốc lát rồi trỏ về phía tây nam. Người đàn ông mặc áo vải tuýt chạy bổ trở lại taxi. Thấy anh ta hổn hển lao đến nơi, Omar nhanh chóng bỏ điện thoại xuống.

- Hướng nào đi Alexandria, Virginia? - anh ta hỏi.

- Alexandria à? - Omar chỉ về tây nam, đúng hướng mà hai người khách vừa trỏ lúc nãy.

- Tôi hiểu rồi! - người đàn ông lào phào, vẫn thở hồng hộc, đoạn xoay ra hét to với người phụ nữ - Chị nói đúng! Alexandria!

Giờ người phụ nữ lại trỏ ngang quảng trường tới tấm biển "Tàu điện ngầm", sáng rực gần đó.

- Tuyến Xanh lam chạy thẳng tới Alexandria. Chúng ta cần đến ga King Street!

Omar phát hoảng. Ôi không.

Người đàn ông quay lại trả tiền cho Omar, trả nhiều hơn cả cuốc xe.

- Cảm ơn. Chúng tôi đi đây - Anh ta vớ lấy tôi da và nhấc chân chạy.

- Đợi chút! Tôi có thể chở các vị! Tôi thường xuyên đến đấy!

Nhưng đã quá muộn. Người đàn ông và người phụ nữ mau chóng băng qua Quảng trường Tự Do, khuất dạng trên cầu thang dẫn xuống ga tàu điện ngầm Metro Center.

Omar vớ lấy điện thoại di động.

- Thưa ông! Họ xuống lối tàu điện ngầm. Tôi không ngăn được. Họ sẽ đón tàu Tuyến Xanh lam để đến Alexandria!

- Cứ ở nguyên tại chỗ! - Chỉ huy nhóm đặc vụ thét to - Tôi sẽ tới nơi trong vòng mười lăm giây nữa!

Omar cúi nhìn mớ tiền mà người đàn ông vừa đưa. Tờ tiền trên cùng rõ ràng là tờ mà họ viết vào. Nó có hình một ngôi sao Do Thái chồng lên dấu Quốc ấn Hoa Kỳ, những cánh sao trùng đúng vào các chữ cái ghép thành từ MASON (Hội Tam điểm).

Bất chợt, có tiếng rung ù ù trỗi lên xung quanh, cứ như thể một chiếc máy kéo sắp đâm vào taxi của Omar. Anh ta ngước mắt nhìn, nhưng đường phố vắng tanh. Tiếng động cứ lớn dần rồi đột nhiên, một chiếc trực thăng đen bóng xuất hiện trong màn đêm và đáp xuống chính giữa tấm bản đồ của Quảng trường Tự Do.

Một nhóm người mặc quần áo đen nhảy ào ra. Hầu hết chạy ngay về phía ga tàu điện ngầm, chỉ có một người hối hả tiến đến chỗ taxi của Omar. Anh ta giật mạnh cánh cửa bên.

- Omar? Phải anh không?

Omar gật đầu, không nói năng gì được.

- Họ có cho anh biết họ đi đâu không? - anh ta hỏi.

- Alexandria! Nhà ga King Street, - Omar thốt lên - Tôi đề nghị chở họ, nhưng…

Họ có nói sẽ tới chỗ nào ở Alexandria không?

- Không? Họ nhìn dấu Quốc ấn đúc đằng kia, sau đó họ hỏi về Alexandria, và trả tôi thứ này - Anh ta đưa cho đặc vụ CIA tờ tiền có hình vẽ kỳ lạ.

Trong khi anh chàng đặc vụ săm soi tờ tiền, Omar đột nhiên chắp nối được tất cả mọi việc. Hội Tam điểm! Alexandria! Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất của Hội Tam điểm ở Mỹ nằm tại Alexandria.

- Chính chỗ đó, - anh ta thốt lên - Đài kỷ niệm George Washington? Nó nằm ngay bên kia Nhà ga King Street.

- Đúng thế, - đội trưởng nhóm đặc vụ tán thành, rõ ràng cũng vừa nhận ra điều tương tự.

Bấy giờ, nhóm đặc vụ ban nãy từ nhà ga chạy trở ra.

- Chúng ta để sổng rồi? - một người nói to - Tuyến Xanh lam vừa khởi hành! Họ không còn dưới đó!

Đặc vụ Simkins xem đồng hồ và quay sang phía Omar.

- Tàu điện ngầm mất bao lâu tới được Alexandria?

- Ít nhất mười phút. Có lẽ còn hơn.

- Omar, anh làm tốt lắm. Cảm ơn anh.

- Vâng. Chuyện này là sao vậy?

Nhưng đặc vụ Simkins đã chạy trở lại chiếc trực thăng. Nó liệng về phía nam, ngang qua Đại lộ Pennsylvania, đoạn biến mất trong màn đêm.

° ° °

Ngay bên dưới đường phố nơi chiếc taxi đỗ, một đoàn tàu điện ngầm đang tăng tốc rời khỏi Quảng trường Tự Do. Trên tàu, Robert Langdon và Katherine Solomon ngồi nín thở, chẳng ai nói một lời trong khi đoàn tàu lao vút đi đưa họ tới đích đến.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 77

Ký ức luôn tái hiện qua cùng một hình ảnh.

Gã ngã… lao thẳng xuống dòng sông phủ kín băng dưới đáy vực sâu. Phía trên, đôi mắt xám lạnh lùng của Peter Solomon soi chằm chặp qua nòng súng của Andros.

Gã rơi… thế giới phía trên cứ lùi xa dần, đến khi đám mây hơi nước mù mịt quanh dòng thác thượng nguồn trùm kín lấy gã thì vạn vật cùng biến mất.

Trong khoảnh khắc, mọi thử trắng xoá, như thiên đường.

Rồi thân thể gã nện thịch xuống lớp băng.

Lạnh. Tối tăm. Đau đớn.

Gã rũ người… một sức mạnh ghê gớm lôi gã đi và đẩy gã dúi dụi qua những tảng đá trong khoảng không giá buốt kinh hồn. Phổi gã rát bỏng do thiếu dưỡng khí, các cơ trên ngực đã co rút vì lạnh nên gã không tài nào hít thở nổi.

Mình đang ở dưới lớp băng.

Băng gần con thác rõ ràng là rất mỏng do dòng nước chảy xiết, nên Andros rơi xuyên qua cả lớp băng ấy, bị dòng nước cuốn đi, và giờ thì mắc kẹt dưới một lớp trần trong suốt. Gã bấu vào mặt dưới lớp băng, cố gắng phá vỡ nó nhưng thiếu điểm tựa. Cơn đau dữ dội từ vết thương trên vai đã tan biến, và cảm giác nhức buốt do viên đạn ghém gây ra cũng vậy, cả hai đều không còn do cơ thể gã đang tê cóng.

Dòng nước chảy xiết xô Andros qua một khúc quanh. Cơ thể gã gào thét đòi dưỡng khí. Đột nhiên, gã vướng vào mấy cành cây, rồi húc phải một thân cây bị đổ. Xem nào! Gã cuống cuồng túm lấy cái cành, cố nhoi "lên mặt nước, tìm chỗ hổng nơi cành cây xuyên qua lớp băng. Khi đầu ngón tay sờ thấy một lỗ hổng nhỏ xíu xung quanh cành cây, gã bèn giật mạnh phần mép, cố gắng phá cho cái lỗ rộng hơn. Một lần, hai lần, chỗ hổng đã rộng ra đến vài phân.

Tì người vào cành cây, Andros ngửa mặt lên và áp miệng vào lỗ hổng nhỏ xíu. Không khí mùa đông ùa vào phổi thật ấm áp, dòng dưỡng khí lại tiếp thêm hy vọng. Gã bấu chặt chân vào thân cây, huých mạnh lưng và vai lên phía trên. Lớp băng xung quanh thân cây đổ bị cành nhánh và mẩu vụn xuyên thủng, thành thử đã yếu đi nhiều, nay gã tì chân vào thân cây là có thể dùng đầu dùng vai húc vỡ lớp băng để nhoi lên màn đêm mùa đông. Không khí tràn vào phổi gã. Lúc ấy hầu như cả người vẫn còn chìm nghỉm dưới nước, gã bèn dưới dần lên, hết dùng hai chân đẩy lại dùng tay kéo, cuối cùng ra khỏi nước, gã nằm thở hổn hển trên lớp băng trần trụi.

Andros gỡ tấm mặt nạ trượt tuyết ướt sũng, nhét vào túi, nhìn lại phía thượng nguồn tìm Peter Solomon, nhưng khúc quanh của dòng sông đã chắn mất tầm mắt. Cơn đau ở ngực lại dội lên, gã lặng lẽ kéo một cành cây nhỏ phủ kín lỗ hổng trên băng để che nó đi. Đến sáng, cái lỗ sẽ đóng băng trở lại.

Andros loạng choạng tiến vào rừng, tuyết bắt đầu rơi. Gã không biết mình chạy bao xa, cuối cùng cũng ra khỏi rừng và leo lên bờ kè bên cạnh con đường nhựa. Bấy giờ tuyết rơi dày hơn, gã gần như hôn mê, thân nhiệt xuống rất thấp, vừa lúc một cặp đèn pha từ xa tiến tới.

Andros vẫy tay rối rít, chiếc xe bán tải mang biến số Vermont lập tức đỗ lại. Một người đàn ông luống tuổi áo đỏ nhảy ra khỏi xe.

Andros lảo đảo tiến lại phía ông ta, tay bịt chặt chỗ ngực đang chảy máu.

- Tôi bị thợ săn… bắn nhầm! Tôi cần tới… bệnh viện!

Không chút do dự, ông già giúp Andros leo lên ghế bên và bật máy sưởi.

- Bệnh viện gần nhất ở đâu?

Andros không biết, nhưng gã trỏ về phía nam.

- Cửa rừng tiếp theo - Chúng ta sẽ không đến bênh viện.

Ngày hôm sau, người ta đưa tin ông già Vermont nọ mất tích, nhưng không ai biết ông biến mất chỗ nào trên lộ trình của mình trong cơn bão tuyết mịt mùng. Cũng chẳng có ai liên hệ vụ mất tích ấy với một tin thời sự cùng lúc chạy trên trang nhất các báo - vụ sát hại Isabel Solomon.

Khi tỉnh giấc. Andros thấy mình đang nằm trong phòng ngủ tồi tàn của một nhà nghỉ rẻ tiền bị bỏ không vì đang mùa giá rét. Gã nhớ là đã tìm cách đột nhập vào đây, xé ga trải giường băng vết thương, rồi chui vào một cái giường ọp ẹp dưới đống chăn bụi mù.

Bụng đói ngấu.

Andros tập tễnh lê tới phòng tắm, trông thấy cả đống mẩu đạn ghém máu me trong bồn rửa, mới lơ mơ nhớ rằng mình đã moi chúng ra khỏi lồng ngực. Gã nhướng mắt nhìn chiếc gương bẩn thỉu rồi từ từ gỡ lớp băng thấm máu để xem xét vết thương. Phần cơ rắn chắc ở ngực và bụng đã ngăn đạn ghém chui vào sâu hơn, nhưng tấm thân hoàn hảo trước đây giờ lỗ chỗ vết thương. Viên đạn duy nhất mà Peter Solomon bắn rõ ràng đã xuyên suốt bả vai gã, để lại một cái lỗ đẫm máu.

Song tệ hơn hết thảy là Andros không lấy được thứ mà vì nó gã phải lặn lội cả quãng đường để tới Potomac. Cái kim tự tháp. Dạ dày cào cấu ghê gớm, gã đành lê bước ra chỗ xe ông già, hy vọng tìm được chút thức ăn. Chiếc xe bán tải bị phủ cả đống tuyết, và Andros tự hỏi không biết gã đã ngủ bao lâu trong cái nhà nghỉ cũ nát này. Ơn Chúa là mình còn tỉnh dậy. Andros không tìm thấy thức ăn ở ghế trước, nhưng trong hộc để đồ có vài viên thuốc giảm đau. Gã bốc một nắm và cố chiêu mấy vốc tuyết để nuốt trôi.

Mình cần thức ăn.

Vài giờ sau, chiếc xe bán tải chạy ra khỏi khu nhà nghỉ cũ. Trông nó chẳng còn dấu vết gì của chiếc xe tiến vào hai ngày trước đó. Mui ca bin đã bay mất, các nắp đậy bánh xe, ba đờ xốc và tất cả những thứ có thể tháo dỡ cũng chung số phận. Biển số Vermont không còn, và được thay bằng biển số của một chiếc xe tải bảo trì cũ đỗ cạnh thùng Dumpster 1 của nhà nghỉ. Andros cũng vứt hết vào Dumpster mấy tấm ga thấm máu, mảnh đạn ghém và mọi bằng chứng cho biết gã đã từng xuất hiện ở đây.

Andros chưa từ bỏ cái kim tự tháp, nhưng tạm thời phải biết chờ đợi. Gã cần giấu mình, dưỡng lành vết thương và trên hết, cần ăn. Gã tìm được một quán ăn ven đường, gọi trứng, thịt nướng, bánh khoai tây và ba ly nước cam. Ăn xong, gã còn gọi thêm đồ ăn mang đi. Ra đường, Andros bật cái đài cũ rích trên xe để nghe. Gã đã kiêng xem truyền hình và đọc báo kể từ lúc bắt đầu thử thách này. Khi nghe đến bản tin thời sự địa phương, gã chết sững.

- Các nhân viên điều tra của FBI tiếp tục tìm kiếm kẻ đột nhập có vũ trang đã sát hại bà Isabel Solomon tại tư gia ở Potomac hai hôm trước. Dường như kẻ sát nhân đã ngã xuống băng và bị cuốn trôi ra biển, - người đọc bản tin thông báo.

Andros như hoá đá. Isabel Solomon đã chết? Gã lái xe trong im lặng sững sờ, vẫn lắng nghe cho hết bản tin.

Bây giờ cần phải đi xa, thật xa khỏi nơi này.

° ° °

Căn hộ ở Upper West Side có tầm nhìn rất đẹp hướng ra Công viên Trung tâm. Andros chọn nơi này vì màu xanh lục mênh mông bên ngoài cửa sổ gợi gã nhớ lại khung cảnh vùng Adriatic. Lẽ ra nên lấy làm mừng vì đã sống sót, nhưng Andros không cảm thấy thế.

Lòng gã luôn trống trải, và ý đồ đánh cắp kim tự tháp của Peter Solomon vẫn nung nấu không nguôi.

Andros dành khá nhiều giờ nghiên cứu truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm. Hình như chẳng ai khẳng định được sự tồn tại của ngọn tháp đó nhưng tất cả đều nhất trí rằng nó hứa hẹn những tri thức và sức mạnh gớm ghê. Kim tự tháp Tam điểm là có thật. Andros tự nhủ.

Thông tin tay trong của ta không thể sai được.

Số phận đã đặt kim tự tháp vào tầm tay Andros, và gã biết rằng việc bỏ qua nó chẳng khác gì cầm một tấm vé số độc đắc mà không chịu đem đổi lấy tiền. Ta là kẻ duy nhất không phải hội viên Tam điểm biết rõ kim tự tháp là có thật… cũng như biết rõ người đang bảo vệ nó.

Nhiều tháng qua đi, mặc dù cơ thể đã lành lặn lại nhưng Andros không còn tự mãn như lúc sinh sống ở Hy Lạp nữa. Gã ngừng luyện tập cũng thôi chiêm ngưỡng mình khoả thân trong gương. Gã cảm thấy dường như cơ thể đang lão hoá. Làn da từng rất hoàn hảo giờ đầy vết sẹo càng khiến gã thêm buồn nản. Gã vẫn ỷ lại vào thuốc giảm đau y như quãng thời gian đợi hồi phục, và cảm thấy cơ thể mình đang trượt ngược lại lối sống đã từng dẫn gã tới Nhà tù Soganlik. Gã không quan tâm. Thể xác thèm khát thứ gì thì cứ thoả mãn nó thấy.

Một đêm, Andros tới làng Greenwich mua ma tuý của một thằng cha có xăm hình tia chớp dài ngoằn ngoèo trên cánh tay. Andros hỏi về hình xăm và tay kia cho biết hắn dùng nó để che vết sẹo dài do một vụ tai nạn xe hơi.

- Hằng ngày, hễ nhìn vết sẹo là tao lại nhớ tới vụ tai nạn, - tên buôn ma tuý nói - tao bèn xăm đè một biểu tượng của sức mạnh cá nhân. Thế là tao trở lại cân bằng như trước.

Đêm đó, trong cơn phê thuốc, Andros lảo đảo tìm tới một hiệu xăm trong vùng, và cởi phăng áo ra.

- Tôi muốn che những vết sẹo này, - gã tuyên bố. Ta phải tự tin trở lại.

- Che đi à? - Nghệ nhân xăm hình nhìn ngực gã - Bằng gì chứ?

- Hình xăm.

- Được nhưng ý tôi là hình xăm như thế nào?

Andros nhún vai, chẳng muốn gì hơn là che giấu những thứ xấu xí gợi nhớ quá khứ của mình.

- Tôi không biết. Ông chọn giúp đi.

Nghệ nhân lắc đầu và đưa cho Andros một tập sách nói về truyền thống xăm mình cổ xưa.

- Hãy trở lại khi nào anh sẵn sàng.

Andros phát hiện ra năm mươi ba cuốn sách về xăm mình trong Thư viện Công cộng New York, gã đọc sạch số sách đó trong vài tuần. Tìm lại niềm say mê đọc sách, gã bắt đầu mang hàng ba lô sách đi đi về về giữa thư viện và căn hộ của mình, nơi gã đọc nghiến ngấu số sách ấy trong khi ngắm nhìn Công viên Trung tâm.

Những cuốn sách về hình xăm đã mở ra một thế giới kỳ lạ mà Andros chưa bao giờ biết đến, một thế giới của biểu tượng, huyền bí, truyền thuyết và pháp thuật. Càng đọc, gã càng nhận ra mình thật mù quáng. Gã bắt đầu ghi chép các ý tưởng, mọi phác thảo và những giấc mơ lạ lùng của mình. Khi không còn tìm thấy những điều hữu ích ở thư viện nữa, gã bỏ tiền nhờ những người buôn sách quý mua giúp một số sách hiếm hoi trên thế giới. De Praestigiis Daemonum 2, Lemegeton 3. Ars Almadel 4… Grimorium Verumb 5… Ars Notoria 6 … vân vân. Andros đọc hết, và ngày càng tin chắc rằng thế giới vẫn có nhiều kho báu giành cho mình. Có những bí mật vượt xa hiểu biết của con người.

Sau đó gã phát hiện ra tài liệu của Aleister Crowley, một nhân vật thần bí rất hiểu biết thời đầu thế kỷ XX nhưng lại bị nhà thờ coi là "kẻ xấu xa nhất từng sống trên đời". Tư tưởng tầm thường luôn hãi sợ những tư tưởng vĩ đại Andros nghiên cứu sức mạnh của các nghi thức và bùa phép, học những từ ngữ thiêng liêng mà nếu nói ra đúng cách sẽ hiệu dụng như chìa khoá mở cánh cổng vào thế giới khác. Có một thế giới bí ẩn ngoài thế giới này… một thế giới có thể cho ta sức mạnh. Dù cực kỳ thèm khát nguồn sức mạnh đó, Andros vẫn biết rằng cần phải hoàn tất một số quy định và nhiệm vụ trước.

Muốn biến thành thần thánh, phải làm cho chính mình trở nên linh thiêng, Crowley viết như vậy.

Nghi thức "hiến tế" cổ xưa từng rất phổ biến trên Trái đất. Dân Do Thái đốt lễ vật tại Thánh điện, dân Maya chặt đầu người trên các đỉnh kim tự tháp ở Chichen Itza, rồi Jesus Christ hy sinh thân mình trên thập giá, những sự kiện này đều chứng tỏ người cổ đại rất hiểu yêu cầu hiến sinh của thần linh. Hiến sinh là nghi thức nguyên thuỷ để con người được tạo hoá ân tứ và làm cho chính mình trở thành thần thánh.

Sacra - linh thiêng.

Face - tạo dựng.

Mặc dù nghi thức hiến sinh đã bị bãi bỏ từ lâu nhưng sức mạnh của nó vẫn còn nguyên vẹn. Có rất nhiều nhân vật huyền bí hiện đại, kể cả Aleister Crowley, vẫn thực hành Nghệ thuật này, hoàn thiện nó theo thời gian và dần dần biến cải bản thân cho cao siêu hơn. Andros thèm được thay đổi mình như họ. Nhưng gã biết gã sẽ phải vượt qua một cây cầu rất nguy hiểm khi làm việc đó.

Máu chính là thứ tách biệt ánh sáng với bóng tối.

Một đêm, có con quạ bay qua cửa sổ phòng tắm để ngỏ và bị kẹt lại trong căn hộ của Andros. Nó bay chập choạng lung tung một lát rồi đậu lại, rõ ràng chấp nhận thực tế là không thể thoát ra. Andros đã đủ kiến thức để nắm bắt tín hiệu. Ta đang được thúc giục phải tiến xa hơn.

Tóm chặt con chim trên tay, gã đứng bên bàn thờ dựng tạm trong bếp và giơ cao con dao sắc, mồm đọc to câu thần chú mà gã nhớ.

"Camiach, Eomiahe, Emial, Macbal, Emoii, Zazean… nhân danh những tên tuổi thần thánh nhất trong số các thiên thần ở Cuốn sách Assamaian 7 cầu khẩn các ngài phù hộ để con thực hiện việc này bằng sức mạnh của Một đức Chúa đích thực".

Sau đó Andros hạ dao xuống và thận trọng chọc vào mạch máu chính trên cánh bên phải của con chim đang hoảng sợ. Con quạ bắt đầu chảy máu. Nhìn dòng máu đỏ chảy xuống chiếc cốc kim loại, Andros hơi gai người. Thế nhưng, gã vẫn tiếp tục.

"Đấng Adonai Toàn năng, Arathron, Ashai, Elohim, Elohim, Elion, Asher Eheieh, Shaddai… xin hỗ trợ con đem dòng máu này phát huy sức mạnh và hiệu quả ở tất cả những nơi con muốn, và ở tất cả những nơi con cần".

Đêm đó, Andros mơ thấy chim… một con phượng hoàng khổng lồ bay lên từ biển lửa. Sáng hôm sau gã thức giấc, cảm nhận trong người một nguồn năng lượng mới mẻ vô chừng. Gã chạy bộ trong công viên, nhanh hơn và xa hơn tưởng tượng. Chạy mệt rồi, gã dừng lại để tập chống đẩy. Không thể đếm được bao nhiêu lần. Vậy mà gã vẫn tràn trề sinh lực.

Đêm đó, Andros lại mơ thấy chim phượng hoàng.

Mùa thu quay về với Công viên Trung tâm, động vật nháo nhào tìm kiếm thức ăn cho mùa đông sắp tới. Andros không ngại lạnh, những cái bẫy được bố trí rất kín đáo của gã lúc nào cũng đầy ắp chuột và sóc còn sống. Gã cho chúng vào ba lô vác về nhà, thực hiện những nghi thức ngày càng phức tạp.

Emanual, Massiach, Yod, He, Vaud… xin hãy nhìn nhận con là kẻ xứng đáng.

Các nghi thức đẫm máu tiếp thêm sinh lực cho Andros, làm gã cảm thấy trẻ ra mỗi ngày. Gã tiếp tục đọc miệt mài những văn bản thần bí cổ xưa, những trường ca thời trung cổ, các triết gia sơ khai… Càng hiểu biết về bản chất đích thực của mọi vật, gã càng nhận ra rằng con người đã đánh mất toàn bộ hy vọng. Chúng mù quáng… lang thang vô định trong một thế giới mà chúng chẳng bao giờ hiểu nổi.

Andros vẫn là một con người, nhưng gã cảm thấy mình đang tiến hoá thành một thứ gì đó khác. Vĩ đại hơn. Thiêng liêng hơn. Thể lực dồi dào của gã trỗi dậy sau một thời gian ngủ yên, thậm chí mạnh mẽ hơn trước nhiều. Cuối cùng gã cũng hiểu được mục đích thực sự của nó. Cơ thể này chính là chiếc thuyền chở trí tuệ - kho báu mạnh nhất của ta.

Andros biết tiềm lực thật sự của mình vẫn chưa được phát huy, và gã nghiên cứu sâu hơn nữa. Số phận của ta là gi? Tất cả các văn bản cổ xưa đều nói đến cái thiện và cái ác… nói đến nhu cầu phải lựa chọn giữa hai thứ đó của con người. Mình đã lựa chọn lâu rồi, gã biết như vậy, nhưng gã không cảm thấy hối tiếc. Cái ác là gì nếu không phải là một quy luật tự nhiên? Hết ánh sáng là đến bóng tối. Hết trật tự là đến hỗn loạn. Entropy 8 là yếu tố căn bản. Mọi thứ đều phải suy tàn. Ngay cả tinh thể, dù có trật tự hoàn hảo đến đâu thì cuối cùng cũng biến thành phân tử bụi.

Có kẻ sáng tạo… cũng có người phá huỷ.

Song tới tận khi đọc cuốn "Thiên đường bị mất" 9 của John Milton thì Andros mới thấy rõ rệt số phận mình. Gã đọc về vị thần sa ngã, một chiến binh quỷ sứ đấu tranh chống lại ánh sáng, một nhân vật can đảm, một vị thần có tên Moloch.

Moloch hạ phàm với tư thế thánh thần. Sau này Andros biết rằng, cái tên Moloch dịch sang ngôn ngữ cổ đại sẽ trở thành Mal’akh.

Và ta cũng vậy.

Như tất cả những biến cố lớn lao, quá trình thay đổi này cần bắt đầu với một lễ hiến sinh… nhưng không phải bằng chuột hay chim.

Không, nó đòi hỏi một sự hiến sinh thật sự Chỉ có một sự hiến sinh đáng giá thôi.

Đột nhiên, Andros thấy thông suốt hơn bất kỳ nhận thức nào trước kia. Toàn bộ số phận gã đã hiện lên rõ rệt. Suốt ba ngày liền, gã phác hoạ bản thân trên một tấm giấy lớn, để ra kết quả là hình ảnh tương lai của chính mình.

Andros treo bức phác hoạ có kích thước thật lên tường và chăm chú ngắm nghía như thể soi gương.

Ta là một kiệt tác.

Ngày hôm sau, gã mang bức vẽ của mình tới cửa hàng xăm hình.

Gã đã sẵn sàng.

--- ------ ------ ------ -------

1 Dumpster là tên gọi một loại dụng cụ chứa rác, một kiểu thùng chứa rác lưu động. Từ Dumpster xuất phát từ hệ thống Dempster-dumpster, do anh em nhà Dempster thiết kế những năm 1930, dùng để tự động bốc dọn toàn bộ rác trong các thùng chứa đã được chuẩn hoá lên các xe chở rác - ND.

2 De Praestigiis Daemonum et Incantationibus ac Venificiis (Cuốn sách về những hình ảnh của quỷ sứ, các câu thần chú và chất độc), viết năm 1563, là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Johannes Wier (1515-1588), nhà vật lý, nhà than bí học và nhà nghiên cứu ma quỷ người Hà Lan. Ông là một trong những người đầu tiên viết các tác phẩm lên án việc khủng bố giới phù thuỷ - ND.

3 Lemegeton, tên đầy đủ là Lesser Key of Solomon (Chìa khoá Solomon), là một bộ sách về ma thuật khuyết danh ở thế kỷ XVII và là một trong những bộ sách phổ biến nhất trong lĩnh vực này - ND.

4 Ars Almadel (Nghệ thuật Almadel) là phần thứ tư trong bộ Lesser Key of Solomon. Phần này nói về cách chế tạo almadel, một thẻ sáp có những biểu tượng bảo vệ vẽ bên trên dùng để đặt bốn cây nến. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn liên quan đến màu sắc, chất liệu và nghi thức cần thiết để thiết lập almadel và các cây nến. Ars Almadel cũng nói về các thiên thần sẽ được gọi lên, và giải thích rằng chỉ được gọi đến họ vì những lý do hợp lý và đúng đắn, kèm theo cách khấn - ND.

5 Grimorium Verumb (Ma thuật đích thực hay Ma thuật chân lý), là một cuốn sách về ma thuật, được cho là do "Alibeck Người Ai Cập" sống ở Memphis viết năm 1517. Nhưng giới học giả nhất trí rằng cuốn sách thật sự có từ thế kỷ XVIII và những bản sách đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp và Italia - ND.

6 Ars Notoria (Nghệ thuật cao quý) là phần thứ năm và phần cuối cùng trong bộ Lesser Key of Solomon. Đây là cuốn sách ma thuật được biết đến từ thời Trung đại, khẳng định rằng nghệ thuật này do Đấng Sáng tạo truyền cho vua Solomon qua một thiên thần. Sách có hẳn một tập hợp các câu cầu nguyện kèm theo những từ ngữ thần chú bằng vài thứ tiếng (Do Thái, Hy Lạp, v.v…), cách đọc lên, và mối liên hệ giữa những nghi thức này với cách lĩnh hội tất cả các khoa học. Theo cuốn sách, đọc đúng các câu thần chú sẽ giúp đem lại kiến thức về khoa học, trí nhớ sáng suốt, tinh thần vững vàng, và khả năng hùng biện. Sách cũng trình bày những quy tắc phải tuân thủ để bảo đảm đạt kết quả tốt ND.

7 Cuốn sách Thiên đàng - ND.

8 Entropy được định nghĩa như là một đơn vị đo lường năng lượng trong mối tương quan với nhiệt độ tuyệt đối, hay là đơn vị đo sự phân tán đồng thời của năng lượng ở một nhiệt độ nhất định. Thuật ngữ này do nhà vật lý người Đức là Rudolí Clausius nghĩ ra năm 1865. Nguyên gốc, entropy được dùng để mô tả "nhiệt năng tiêu hao" từ các cỗ máy nhiệt hoặc các thiết bị cơ khí không có khả năng vận hành với hiệu suất 100% để chuyển hoá năng lượng. Về sau, thuật ngữ này có thêm nhiều cách giải thích khi con người hiểu thêm về hoạt động của các phân tử - ND.

9 Thiên đường bị mất (Paradise Lost) là một trường ca của nhà thơ người Anh John Milton ở thế kỷ XVII. Nguyên gốc, nó được xuất bản năm 1667, gồm 10 tập. Bản in lần hai năm 1674 chia lại thành 12 lập với đôi chỗ chỉnh lý và phần chú giải về luật thơ. Trường ca là câu chuyện về sự sa ngã của loài người: việc Adam và Eve bị quỷ Satan cám dỗ và bị trục xuất khỏi Vườn Địa đàng. Mục đích của Milton, như nêu trong Tập I, là "lý giải sự đối xử của Chúa với con người" và cuộc xung đột giữa mối lo vĩnh cửu với sự tự nguyện của Chúa - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 78

Đài tưởng niệm George Washington toạ lạc trên đỉnh đồi Shuter’s ở Alexandria, bang Virginia. Được chia thành ba cấp phân biệt Doric, Ionic và Corinthian với độ phức tạp về mặt kiến trúc tăng dần từ chân lên đến đỉnh, công trình đứng đó như một biểu tượng hữu hình cho con đường vươn tới tri thức của loài người. Lấy cảm hứng từ ngọn hải đăng Pharos ở Alexandria, Ai Cập, toà tháp đồ sộ này có chóp là một kim tự tháp Ai Cập với đỉnh chạm hình ngọn lửa.

Bên trong gian phòng cẩm thạch hoa lệ là pho tượng đòng khổng lồ tái hiện George Washington trong bộ lễ phục của Hội Tam điểm cùng với cái bay thật mà ông dùng để xây viên đá đầu tiên cho Điện Capitol. Bên trên gian phòng này là chín tầng khác nhau được đặt những cái tên như Hang động, Phòng Hầm mộ, và Nhà nguyện Hiệp sĩ Thánh chiến. Trong số các báu vật được cất giữ tại đây có hơn hai vạn tập tài liệu của Hội Tam điểm, một bản sao chiếc hòm đựng Pháp điển, và thậm chí cả một mô hình thu nhỏ gian phòng đặt ngai vàng trong đền thờ vua Solomon.

Chiếc trực thăng UH-60 bay là là phía trên sông Potomac, đặc vụ CIA Simkins xem đồng hồ. Sáu phút nữa tàu của họ mới đến. Anh ta thở hắt ra và ngó qua cửa sổ về phía Đài tưởng niệm sáng ngời ở phía chân trời. Anh phải thừa nhận rằng toà tháp rực rỡ kia trông ấn tượng chẳng kém bất kỳ công trình nào ở khu vực Công viên Quốc gia. Simkins chưa từng vào trong Đài tưởng niệm, và đêm nay cũng thế thôi. Nếu mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch thì Robert Langdon và Katherine Solomon sẽ chẳng bao giờ bước ra được khỏi ga tàu điện ngầm.

- Đằng kia! - Simkins quát bảo phi công, tay chỉ về ga King Street phía bên kia Đài tưởng niệm.

Viên phi công cho trực thăng chao nghiêng và đậu xuống một bãi cỏ dưới chân đồi Shuter’s.

Khách bộ hành ngạc nhiên khi thấy nhóm Simkins nhảy ra khỏi máy bay, lao nhanh qua phố xuống ga King Street. Tại khu vực cầu thang, một số hành khách chuẩn bị khởi hành phải nhảy vội ra khỏi lối đi dán mình vào tường khi nhóm đặc vụ mặc đồ đen rầm rập chạy qua họ.

Nhà ga King Street lớn hơn Simkins dự đoán, phục vụ cả mấy tuyến khác nhau như tuyến Xanh lam, tuyến Vàng, tuyến Amtrak. Anh ta xem bản đồ hệ thống trên tường, tìm Quảng trường Tự Do và tuyến tàu điện ngầm trực tiếp chạy tới vị trí này.

- Tuyến Xanh lam, sân ga phía nam! - Simkins hô lớn - Xuống đó và giải tán hết mọi người!

Đồng đội anh ta vọt đi.

Simkins chạy tới quầy vé, trình thẻ công vụ và nói như quát với người phụ nữ ngồi trong.

- Mấy giờ thì chuyến tàu tiếp từ ga trung tâm mới đến?

Người phụ nữ lộ vẻ hoảng sợ.

- Tôi không chắc lắm. Cứ mười một phút có một chuyến của tuyến Xanh lam. Không có lịch trình cố định.

- Từ chuyến tàu trước đến giờ là bao lâu rồi?

- Năm… hoặc sáu phút? Chỉ khoảng thế thôi.

Tunner nhẩm tính. Tuyệt. Chuyến tàu tiếp theo sẽ là của Langdon.

° ° °

Bên trong một toa tàu điện ngầm đang phóng rất nhanh. Katherine Solomon bồn chồn nhổm dậy trên chiếc ghế nhựa cứng. Mấy bóng đèn huỳnh quang sáng rực trên đầu khiến cô chói mắt, và cô đang phải cố kìm không để hai mí mắt sụp xuống, dù chỉ một giây thôi. Langdon ngồi cạnh cô trong toa xe vắng tanh, đờ đẫn nhìn chiếc túi da dưới chân, mí mắt cũng nặng trĩu, nhịp rung lắc đều đặn của toa xe như ru anh vào trạng thái mơ màng.

Katherine hình dung ra những thứ lạ lùng trong túi Langdon. Tại sao CIA lại muốn giành lấy kim tự tháp này. Bellamy nói Sato truy lùng ngọn tháp có thể là do bà ta biết rõ tiềm năng thực sự của nó. Nhưng cho dù kim tự tháp thực sự tiết lộ nơi cất giấu những bí mật cổ xưa thì Katherine thấy cũng thật khó tin là điều đó hấp dẫn được CIA.

Nhưng một lần nữa, cô nhắc nhở mình rằng đã nhiều lần người ta phát hiện ra CIA thực hiện những chương trình cận tâm lý học chẳng khác gì chủ nghĩa thần bí và ma thuật cổ xưa. Năm 1995, vụ bê bối "Stargate/scannate" 1 đã tiết lộ một công nghệ mật của CIA gọi là quan sát từ xa - một dạng suy tưởng ngoại cảm giúp người quan sát dõi con mắt tinh thần của mình tới bất kỳ nơi nào trên trái đất và theo dõi nơi đó mà không cần phải có mặt trực tiếp. Dĩ nhiên công nghệ này chẳng có gì mới mẻ. Giới thần bí gọi đó là du hành thiên th�� 2 dự đoán… còn các tín đồ Du già thì gọi là trải nghiệm ngoại thân. Tiếc thay, các công dân Mỹ nhút nhát coi công nghệ đó là ngớ ngẩn, và chương trình bị đình chỉ. Ít nhất là về mặt công khai.

Nực cười thay, Katherine lại nhận ra mối liên hệ đáng kể giữa những chương trình bất thành của CIA và các đột phá của riêng cô trong ngành Lý trí học.

Katherine rất muốn gọi cho cảnh sát để xem họ đã phát hiện được gì ở khu Kalorama Heights, nhưng lúc này cô và Langdon đều không còn điện thoại, và việc liên lạc với giới chức sẽ là một sai lầm, chẳng thể biết Sato có thể vươn tay tới tận đâu.

Kiên nhẫn nào, Katherine. Chỉ còn vài phút nữa, họ sẽ tới nơi ẩn náu an toàn, làm khách của một người đàn ông quả quyết rằng mình có câu trả lời cho mọi chuyện. Katherine hy vọng những câu trả lời của ông ta, cho dù là gì, sẽ giúp cô cứu được anh trai.

- Robert? - cô thì thào, ngước nhìn bản đồ tàu điện ngầm - Trạm tiếp theo là của mình đấy.

Langdon lờ đờ tỉnh lại.

- Phải rồi, cảm ơn chị - Khi đoàn tàu sầm sập lao tới ga, anh gom chiếc túi và nhìn Katherine không mấy chắc chắn - Cứ hy vọng chúng ta đến nơi yên ổn.

° ° °

Lúc Tunner Simkins chạy tới nhập vào nhóm của mình, sân ga tàu điện ngầm đã được giải tán xong. Các đồng đội của anh ta toả rộng, trấn giữ vị trí phía sau dãy cột đỡ chạy dọc chiều dài sân ga. Có tiếng ầm ầm vọng tới từ đường hầm ở phía đầu kia của nhà ga. Khi âm thanh ấy to dần, Simkins cảm thấy làn không khí nóng nực cuộn lên xung quanh.

Không thoát được đâu ông Langdon ạ.

Simkins ngoảnh nhìn hai đặc vụ mà anh ta đã dặn theo sát mình.

- Chuẩn bị sẵn thẻ công vụ và vũ khí đi. Loại tàu này là tàu tự động, nhưng vẫn có một trưởng tàu để mở cửa. Tìm anh ta nhé!

Bấy giờ, đèn pha của đoàn tàu đã xuất hiện trong đường hầm, tiếng phanh rít lên trong không khí. Khi đoàn tàu ầm ầm lao tới ga và bắt đầu chạy chậm lại, Simkins cùng hai đặc vụ nhô ra, tay vẫy phù hiệu công vụ CIA và căng mắt cố tìm trưởng tàu trước khi anh ta mở tung các cửa.

Đoàn tàu tiến lại gần rất nhanh. Trong toa thứ ba, Simkins đã nhìn thấy gương mặt đầy ngạc nhiên của viên trưởng tàu rõ ràng đang cố suy đoán tại sao ba người mặc đồ đen đều vẫy phù hiệu Công vụ với anh ta. Simkins chạy lại phía đoàn tàu lúc này đang sắp dừng hẳn.

- CIA! - Simkins thét to, giơ thẻ của mình ra - KHÔNG được mở cửa!

Đoàn tàu chầm chậm lướt qua, Simkins bước về phía toa của viên trưởng tàu, quát to.

- Không được mở cửa tàu! Anh có hiểu không?! KHÔNG được mở cửa tàu!

Đoàn tàu dừng hẳn lại, viên trưởng tàu mở to mắt, gật đầu lia lịa.

- Có chuyện gì thế?! - anh ta hỏi qua cửa sổ hông.

- Không cho tàu chạy vội, - Simkins nói - Và đừng mở tưng các cửa.

- Được rồi.

- Cho chúng tôi vào toa thứ nhất được không?

Viên trưởng tàu gật đầu. Vẻ sợ hãi, anh ta bước ra khỏi tàu, khoá cửa lại, đoạn cùng Simkins và mấy đặc vụ kia tiến tới toa thứ nhất, rồi giơ tay mở cửa.

- Khoá lại nhé. - Simkins nói và rút súng ra.

Anh ta cùng hai đồng sự nhanh chóng bước vào toa xe thứ nhất. Viên trưởng tàu khoá cửa lại phía sau họ.

Toà thứ nhất chỉ có bốn hành khách, ba cậu choai choai và một bà già, tất cả đều giật mình ngơ ngác khi nhìn thấy ba người đàn ông có vũ trang bước vào. Simkins giơ thẻ công vụ lên.

- Không có vấn đề gì hết. Cứ ngồi nguyên tại chỗ.

Simkins cùng người của anh ta bắt đầu tìm kiếm, dồn dần về phía cuối toa tàu đã khoá kín - đây là phương pháp "bóp thuốc đánh răng", như cách gọi thời anh ta còn được đào tạo ở Farm. Tất cả hành khách lúc này đều ở trên tàu. Đi hết nửa toa tàu, nhóm đặc vụ vẫn chưa nhìn thấy ai có chút gì đó giống mô tả về Robert Langdon và Katherine Solomon. Tuy nhiên, Simkins còn rất tự tin. Trên toa không có chỗ nào để núp cả. Không phòng vệ sinh, không buồng kho, và không cả lối thoát thay thế. Cho dù mục tiêu có phát hiện việc họ lên tàu và chạy về phía sau thì cũng chẳng thoát ra nổi. Không thể cạy được cửa, mà Simkins cũng đã bố trí người đứng canh trên sân ga và cả hai đầu của đoàn tàu.

Cứ kiên nhẫn.

Tuy nhiên, lúc tiến vào toa thứ hai, Simkins bắt đầu bực mình. Ở toa tàu áp chót này chỉ có duy nhất một hành khách, một người Hoa.

Simkins và nhóm đặc vụ tiến dần qua toa tàu, tìm kiếm bất kỳ chỗ nào khả dĩ ẩn náu. Không hề có.

- Toa cuối, - Simkins nói, tay lăm lăm vũ khí và cùng hai đồng sự tiến về ngưỡng cửa toa cuối cùng của đoàn tàu. Vừa bước tới nơi, cả ba đã đứng sững lại, giương mắt lên trân trối.

Quái quỷ…?! Simkins bước nhanh về phía cuối toa tàu trống trơn, tìm kiếm phía sau tất cả ghế ngồi rồi trở lại chỗ người của mình, máu như sôi lên.

Bọn chúng biến đi đằng chó nào không biết?!

--- ------ ------ ------ -------

1 "Dự án Stargate" là mật danh của một trong những nghiên cứu do Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành từ năm 1972 đến 1995, nhằm mục đích điều tra khả năng sử dụng các năng lực tâm thần trong các chiến thuật quân sự - ND.

2 Du hành thiên thể là một cách hiểu mang tính bí truyền về bất kỳ dạng trải nghiệm ngoài cơ thể nào thừa nhận sự tồn tại của một "thiên thể" tách biệt với nhục thể và có khả năng thoát ra khỏi nhục thể đó. Du hành thiên thể mô tả việc thiên thể rời khỏi nhục thể để du hành trong thiên hà - ND.
 

hoahongden12

Active Member
Biểu Tượng Thất Truyền
Chương 79

Cách Alexandria, bang Virginia tám dặm về phía bắc. Robert Langdon và Katherine Solomon đang bình tĩnh rảo bước qua bãi cỏ rộng còn đẫm hơi sương.

- Chị nên làm diễn viên thì hơn - Langdon nói, vẫn còn rất ấn tượng trước suy nghĩ nhanh nhẹn và khả năng ứng phó của Katherine.

- Anh cũng không tệ đâu - Cô mỉm cười đáp.

Thoạt đầu Langdon hết sức lúng túng với vở kịch bất ngờ của Katherine ở trong taxi. Chẳng hề báo trước, cô đột ngột đòi tới Quảng trường Tự Do vì bỗng nhớ ra một ngôi sao Do Thái và dấu Quốc ấn của nước Mỹ. Cô vẽ một đồ hình nổi tiếng lên tờ đô la và giục Langdon nhìn kỹ chỗ cô muốn chỉ.

Cuối cùng, Langdon cũng nhận ra thứ Katherine đang nói tới không phải là tờ đô la mà là bóng đèn tín hiệu nhỏ xíu ở lưng ghế lái xe. Bóng đèn bị phủ bụi nên anh vốn không chú ý đến nó. Tuy nhiên, khi nghiêng người tới trước, Langdon thấy rõ bóng đèn đó sáng, toả ra màu đỏ đục. Anh cũng thấy rõ mấy chữ lờ mờ phía dưới bóng đèn.

HỆ THÔNG ĐÀM THOẠI TRONG XE - ĐANG BẬT

Giật mình, Langdon ngoảnh nhìn Katherine. Ánh mắt hốt hoảng của cô giục anh trông lên ghế trước. Langdon làm theo, kín đáo liếc nhanh qua tấm vách ngăn. Điện thoại di động của gã lái xe đặt trên bảng điều khiển, mở sẵn, sáng đèn và hướng về loa đàm thoại nội bộ.

Trong khoảnh khắc, Langdon hiểu ngay hành động của Katherine.

Họ biết chúng ta ở trên taxi… họ đang nghe ta nói.

Langdon không biết anh và Katherine còn bao nhiều thời gian cho tới lúc chiếc taxi dừng lại, nhưng anh biết mình phải hành động thật nhanh. Ngay lập tức anh tham gia màn kịch vì đã nhận ra đề xuất tới Quảng trường Tự Do của Katherine chẳng liên quan gì đến kim tự tháp, mà liên quan đến một ga tàu điện ngầm lớn - Ga Trung tâm, từ đó họ có thể bắt các tuyến Đỏ, Xanh lam hoặc Da cam theo bất kỳ hướng nào trong sáu hướng đi.

Tới Quảng trường Tự Do, họ nhảy ra khỏi taxi và Langdon vào vai, diễn một vài khúc ứng tác của riêng anh, cố tình để lại dấu hiệu chỉ đường tới Đài tưởng niệm ở Alexandria rồi mới cùng Katherine chạy xuống ga tàu điện ngầm, bỏ qua tuyến Xanh lam và tiếp tục tới tuyến Đỏ, đón tàu chạy theo hướng ngược lại.

Đi về phía bắc, vượt qua sáu nhà ga, họ tới một khu vực sang trọng yên tĩnh gần Tenleytown. Điểm đến của họ là công trình cao nhất ở khu vực này, hiện ra lừng lững phía chân trời, ngay Đại lộ Massachusetts, trên một bãi cỏ được cắt tỉa công phu.

Giờ đã "tháo cũi sô lồng", theo như lời Katherine, hai người thong thả đi qua bãi cỏ ẩm ướt. Bên tay phải họ là một khu vườn theo phong cách trung cổ, nổi tiếng với những bụi hồng lâu đời và vọng lâu Ngôi nhà Bóng mát. Họ băng qua vườn, tiến thẳng tới toà nhà lộng lẫy theo chỉ dẫn. Một nơi trú ẩn chứa mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke.

- Tôi chưa bao giờ đến đây ban đêm cả, - Katherine nói, ngước mắt nhìn những ngọn tháp sáng rực - Thật đẹp.

Langdon hoàn toàn đồng ý, giờ mới nhớ ra rằng nơi đây thật sự cực kỳ ấn tượng. Kiệt tác tân Gothic này toạ lạc ở đầu phía bắc của khu Embassy Row, vài năm trước anh từng đến một lần để viết bài về nó cho một tạp chí trẻ em với hy vọng thanh thiếu niên có hứng thú ghé thăm công trình kỳ vĩ này. Bài viết của anh mang nhan đề "Moses, đá Mặt trăng và Chiến tranh giữa các vì sao", về sau đã trở thành một phần trong các tài liệu du lịch.

Đại Giáo đường Quốc gia Washington, Langdon nghĩ bụng, cảm thấy hơi hồi hộp sau nhiều năm trở lại. Còn nơi nào tốt hơn để tìm hiểu về Đức Chúa đích thực chưa?

- Nhà thờ này thực sự có mười tảng đá lấy từ núi Sinai à? - Katherine hỏi, nguýt nhìn tháp chuông đôi.

Langdon gật đầu.

- Gần chỗ bàn thờ chính. Chúng tượng trưng cho mười điều răn gửi tới Moses trên núi Sinai.

- Thế còn tảng đá mặt trăng?

Một tảng đá từ thiên đường.

- Phải. Một trong những ô cửa sổ lắp kính màu được gọi là Cửa sổ Vũ trụ, mẩu đá mặt trăng gắn ở đó.

- Hay thật, nhưng chi tiết cuối cùng nghe chừng hoang đường - Katherine nhìn quanh, đôi mắt đẹp thoáng nét hoài nghi - Một bức tượng của… Darth Vader 1 chăng?

Langdon bật cười.

- Người cha bí ẩn của Luke Skywalker 2 à? Chính xác đấy. Vader là một trong những pho tượng nổi tiếng nhất của Giáo đường Quốc gia - Anh chỉ tít lên mấy ngọn tháp phía tây - Hơi khó nhìn vào ban đêm, nhưng ở kia kìa.

- Darth Vader thì làm gì ở Đại Giáo đường Quốc gia Washington này chứ?

- Một bài thi cho bọn trẻ tạc miệng máng xối hình mặt quỷ. Darth đã giành chiến thắng.

Họ tới bậc cấp rộng dẫn lên lối cửa chính nằm sâu trong khuôn cửa vòm cao 24 mét, bên trên là một ô cửa sổ hoa hồng đẹp mê hồn.

Langdon đặt chân lên bậc cấp, tâm trí vẩn vơ nghĩ tới người lạ mặt đã gọi cho anh. Xin đừng nói tên… Cho tôi biết có phải anh đã bảo vệ được tấm bản đồ người ta uỷ thác cho anh không? Vai Langdon đau rát vì đeo ngọn kim tự tháp đá nặng trĩu, anh chỉ mong được hạ nó xuống. Chỗ ẩn náu và câu trả lời.

Khi lên tới bậc trên cùng, họ gặp hai cánh cửa gỗ đồ sộ.

- Chúng ta chỉ việc gõ cửa thôi à? - Katherine hỏi.

Langdon cũng đang băn khoăn thì có tiếng cửa kẹt mở.

- Ai đó? - một giọng nói yếu ớt vang lên. Một gương mặt nhăn nheo xuất hiện ở cửa. Ông ta mặc áo choàng thầy tu, ánh nhìn hoàn toàn trống rỗng, đôi mắt trắng đục và mờ tịt vì bệnh đục thuỷ tinh thể.

- Tên tôi là Robert Langdon, - anh đáp - Cô Katherine Solomon và tôi đang tìm một chỗ ẩn náu.

Ông già mù loà thở phào.

- Ơn Chúa. Tôi đang mong gặp hai vị.

--- ------ ------ ------ -------

1 Darth Vader là một nhân vật trong bộ phim truyện Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars). Darth Vader là tên của Anakin Skywalker sau khi gia nhập mặt tối của thần lực. Sau trận kịch chiến với thầy mình là Obi-Wan Kenobi ở hệ nham thạch, anh ta thất bại và bị dung nham ở hệ hành tinh ấy thiêu đốt làm biến dạng cơ thể. Chúa tể Darth Sidious đem anh ta về chữa trị và cho anh ta chiếc mặt nạ đen. Từ đó anh ta trở thành Darth Vader cùng với đội quân nhân bản thống lĩnh thiên hà. Trong tập bốn của bộ phim, Darth Vader giết Obi-Wan Kenobi khi ông đang cố gắng bảo vệ Luke Skywalker, con "trai của Anakin Skywalker, và các bạn của anh. Khi thấy chính con trai mình sắp bị giết, Darth Vader đã liều mình hy sinh để cứu con - ND.

2 Luke Skywalker là con trai của Anakin Skywalker (Darth Vader). Mẹ của Luke, Padmé Amidala, qua đời khi sinh anh và người em gái của anh, công chúa Leia Amidala Skywalker vì quá đau buồn trước những sai lầm của cha anh. Khi vừa sinh ra, anh được hiệp sĩ Jedi Obi-Wan Kenobi đưa về quê nội ở hành tinh Tatooine để trốn tránh sự truy sát của người Sith do Darth Sidious chỉ huy. Tại đây, anh đã lớn lên với thân phận một nông dân nghèo khổ, làm nghề thu mua những người máy cũ. Tình cờ, anh có được hai người máy R2D2 và C3PO của công chúa Leia. Những thông tin cầu cứu của công chúa Leia đã dẫn anh tìm đến Ben Kenobi, tên của Obi-Wan Kenobi khi mai danh ẩn tích. Chính Obi-Wan Kenobi đã dạy anh những bài học đầu tiên để trở thành một hiệp sĩ Jedi cũng như bước vào cuộc chiến cùng quân khởi nghĩa chống lại Đế chế độc tài do Darth Sidious và cha anh, Darth Vader, cầm đầu. Trong phần cuối của bộ phim, Luke đánh bại được Vader nhưng sau đó thua Palpatine. Khi Palpatine định giết Luke, cha anh tỉnh ngộ và chấp nhận cái chết để tiêu diệt Palpatine cũng là để cứu con trai mình - ND.
 
Bên trên